Xem mẫu

  1. Một số biện pháp giúp trẻ MGL học tốt môn tạo hình PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chon đề tài: Trẻ em hôm nay là thế giới ngày mai. Trẻ em là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của mỗi dân tộc. Việc bảo vệ và chăm sóc, giáo dục trẻ em là trách nhiệm của nhà nước, của xã hội và của mỗi gia đình. Đối với việc giáo dục và phỏt triển nhõn cách cho trẻ ngay từ lứa tuổi mầm non, hoạt động tạo hình đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển trẻ nhỏ về mọi mặt như: thẩm mỹ, đạo đức, trí tuệ, thể lực và lao động. Hoạt động tạo hình là một hoạt động học tập mang tính nghệ thuật, giúp trẻ nhận thức thế giới xung quanh và phản ánh thế giới thông qua các hình tượng nghệ thuật, trong các hình thức hoạt động mang tính nghệ thuật. ở trường mầm non có rất nhiều các họat động, nhiều môn học phát triển toàn diện cho trẻ mẫu giáo, là cơ sở ban đầu của nhân cách con người mới. Trẻ biết sáng tạo, lao động trong tương lai. Chính vì vậy việc thực hiện tốt các hoạt động tạo hình trong trường mầm non sẽ góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng giáo dục nhằm phát triển toàn diện cho trẻ. Những sản phẩm trẻ tạo ra rất đơn giản, ngộ nghĩnh sinh động. Trẻ biết đánh giá khái quát cao, trẻ phản ánh ấn tượng của bản thân không phụ thuộc vào thực tế. Trẻ rất thích sử dụng mầu sặc sỡ mang tính chất phản ánh biểu tượng. Mỗi sản phẩm của trẻ mang một nội dung, một tên gọi khác nhau. Trẻ tham gia vào hoạt đông tạo hình đã giúp trẻ hình thành các đức tính tốt như: yêu cái đẹp và mong muốn tạo ra cái đẹp. Trong thực tế việc
  2. tổ chức các hoạt động tạo hình theo phương pháp hiện hành cũng đã mang lại hiệu quả tới việc phát triển nhân cách. Song phương pháp đó chưa thực sự đáp ứng và chưa phát huy hết khả năng sáng tạo. Các phương pháp hoạt động tạo hình lâu nay đang được sử dụng còn mang tính áp đặt , dập khuôn theo mẫu, sao chép chưa phát huy hết khả năng sáng tạo và sự linh hoạt của người giáo viên khi tổ chức hoạt động tạo hình. Vậy giáo viên phải làm gì, làm như thế nào để trẻ có thể vẽ, nặn, cắt, tô mầu và làm đẹp sản phẩm. Nhận thưc rõ trách nhiệm to lớn của giáo viên mầm non trong giai đoạn phát triển hiện nay. Như NQ hội nghị lần thứ hai BCH TW Đảng (Khoá VIII) đã nêu: “Giáo viên mầm non là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục và được xã hội tôn vinh, giáo viên phải có đủ đức, đủ tài”. Là một giáo viên mầm non tôi đẫ trải qua một quá trình nghiên cứu tìm tòi, tích cực học hỏi và vận dụng một số biện pháp để giúp trẻ học tốt môn tạo hình, lứa tuổi mẫu giáo 5 – 6 tuổi. 2. Mục đích của đề tài: Nghiên cứu vấn đề này là để tìm cách vận dụng phương pháp giáo dục áp dụng vào bài dạy, hướng dẫn trẻ làm quen với hoạt động tạo hình đạt kết quả cao. PHẦN II: NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 1. Cơ sở lý luận: Môn dạy trẻ hoạt động tạo hình đóng vai trò vô cùng quan trọng trong chương trình học tập của trẻ, cũng như các hoạt động khác. Chính vì thế là một giáo viên mầm non tôi muốn được nâng cao nhận thức của bản thân đồng thời góp một phần nhỏ bé của mình vào việc nâng cao chất lượng giáo dục trẻ phát triển toàn diện.
  3. Với mục đích chung của giáo dục mầm non thì hoạt động giáo dục tạo hình là một bộ phận của văn hoá tinh thần, nó gắn liền với những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo và thể hiện nghệ thuật. Thông qua hoạt động tạo hình đem đến cho trẻ ấn tượng về cái đẹp và những cảm xúc chân thật, những phẩm chất tốt đẹp của nhân cách con người. 2. Thực trạng vấn đề: 2.1-Thuận lợi: Đã nhiều năm tôi được phân công dạy lớp mẫu giáo lớn. Tôi đã đúc rút được một số kinh nghiệm từ việc từ việc dạy trẻ môn tạo hình và đây cũng chính là môn dạy mà tôi yêu thích. - Trường nằm ngay ở trục chính của con đường giao thông trong phường, thuận lợi cho việc đưa đón, trả trẻ của phụ huynh. - Được sự quan tâm của ban giám hiệu, phòng giáo dục. - 100% giáo viên có trình độ trung cấp trở lên, luôn giúp đỡ lẫn nhau tạo điều kiện cho việc học hỏi kinh nghiệm. - Về cơ sở vật chất tương đối đầy đủ để phục vụ cho việc dạy và học. Cảnh quan nhà trường thoáng mát, có cây che bóng mát, cây cảnh góp phần rất lớn cho trẻ quan sát, từ đó cung cấp cho trẻ những biểu tượng thể hiện sự hiểu biết của mình về thế giới xung quanh. 2.2- Khó khăn: - Trang thiết bị đồ dùng dạy học chưa phong phú, chưa hấp dẫn trẻ. - Nhận thức của một số phụ huynh học sinh còn chưa đồng đều, còn cho rằng việc cho trẻ đến trường chỉ là chơi chứ học vẫn chỉ là thứ yếu. - Số trẻ trong lớp vẫn chưa đồng đều về chất lượng, số ít cháu còn nhút nhát trong khi thể hiện ý tưởng của mình.
  4. Xuất phát từ những thực tế trên tôi đã đề ra một số biện pháp thực hiện sau. 3. Biện pháp thực hiện: 3.1 - Khảo sát ban đầu: Năm 2008- 2009 tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng cho trẻ lúc ban đầu để nắm bắt được khả năng tạo hình của trẻ, từ đó có biên pháp phù hợp Tổng số trẻ 54 Tỷ lệ % Số trẻ đạt loại giỏi 7 13 Số trẻ đạt loại khá 10 18,5 Số trẻ đạt loại trung bình 34 63 Số trẻ đạt loại yếu, kém 3 5,5 Qua khảo sát ban đầu như trên, tôi thấy kết quả trên trẻ chưa cao là điều tôi cần phải suy nghĩ làm thế nào để dạy trẻ đạt hiệu quả cao và tạo cho trẻ học một cách thoải mái, tự tin, không gò bó, trẻ luôn hứng thú trong giờ học. Tôi tiến hành thực nghiệm: 3.2- Xây dựng nề nếp học tập trong giờ học trên lớp. Nề nếp của trẻ là bước đầu của một tiết học, nếu chúng ta không đưa trẻ vào nề nếp thì giờ học không đạt kết quả cao. Khi trẻ có nề nếp tốt cùng với sự
  5. hướng dẫn khoa học của cô ngay ban đầu trẻ đã say mê với giờ học, luôn thể hiện cảm xúc, trí tưởng tượng cho hoạt đông nghệ thuật. Tôi đã rèn luyện nề nếp bằng cách: Xếp xen kẽ cháu mạnh dạn với cháu nhút nhát, cháu nam xen cháu nữ. Chia tổ, đặt tên cho tổ “tổ chim xanh, tổ bướm trắng, tổ ong nâu” và bầu ra tổ trưởng để quán xuyến, nhắc nhở thành viên của mình. Tôi luôn động viên trẻ trong tiết học, uốn nắn tác phong ngồi học cho trẻ, trẻ ngồi đúng tư thế, không nói chuyện, không nói leo, nói phải xin phép cô, nói rõ ràng, mạch lạc, đủ câu,… Với những biện pháp trên trẻ đã có thói quen tốt trong việc xây dựng nề nếp học tập. 3.3- Tạo môi trường hoạt động thuận lợi để phát huy tính tích cực, khả năng sáng tạo của trẻ. Tạo điều kiện để trẻ thường xuyên tiếp xúc với môi trường xung quanh để từng bước cung cấp các biểu tượng phong phú về đối tượng cho trẻ tự khám phá bằng cách huy động sự tham gia của các giác quan, các qúa trình tâm lí khác nhau để lĩnh hội các khía cạnh khác nhau của sự vật. Tạo cơ hội để trẻ khám phá đối tượng (quan sát, nghe, hỏi, tiếp xúc và miêu tả) và tự diễn đạt nhận thức cảm xúc của mình về đối tượng. Tận dụng các thời điểm hợp lí trong ngày cho trẻ tiếp xúc như được ngắm nghía, chăm sóc, vuốt ve, âu yếm với các con vật gần gũi (thỏ, mèo, gà con…) chơi với các đồ vật, tri giác tranh ảnh nghệ thuật. Trong quá trình cung cấp biểu tượng về đối tượng tạo hình tôi chỉ cho trẻ thấy được những nét đặc trưng nổi bật , những cái đẹp lý thú gần gũi trẻ. Đồng thời giúp trẻ phân tích, so sánh tổng hợp tìm ra những đặc điểm riêng, chung của những đồ vật cùng nhóm, cùng loại. Từ đó giúp trẻ tìm ra phương thức thể hiện trong những tình huống khác nhau.
  6. Ví dụ : vẽ “Vườn hoa” có bông cao, bông thấp, bông cánh tròn, bông cánh nhọn, bông mầu vàng, bông màu đỏ… Nếu trẻ đã được ngắm vườn hoa trong thực tế thì khi tạo hình trẻ sẽ biết sử dụng phối hợp các kỹ năng vẽ nét cong, nét cong tròn khép kín, nét xiên, nét thẳng và tô màu để vẽ vườn hoa sinh động và đẹp hơn. Đặt và xắp xếp các vật liệu sao cho trẻ có thể thấy rõ và lấy được dễ dàng để thực hiện hoạt động tạo hình vào bất cứ lúc nào trẻ thích và có thể trưng bày các sản phẩm của mình. Tạo môi trường nghệ thuật xung quanh trẻ như: bầy đồ chơi đẹp, xắp xếp các nguyên vật liệu, đồ dùng một cách hợp lý đẹp mắt,...Từ đây tạo cho trẻ cảm giác thích thú và mong muốn được tái tạo. 3.4- Phương pháp hướng dẫn phải dựa vào trẻ lấy trẻ làm trung tâm: Trong giờ học nói chung và giờ học tạo hình nói riêng hãy để trẻ tự thể hiện, cô luôn là người động viên, khuyến khích trẻ sáng tạo. Trẻ cần được động viên để thể hiện ý muốn, tình cảm, cảm xúc và những hiểu biết của trẻ đối với sự vật, trẻ muốn được lựa chọn. + Cái trẻ muốn làm (nội dung) + Làm thế nào để đạt được (quá trình) + Cái hoàn thành sẽ như thế nào (kết quả, sản phẩm) Mong muốn của trẻ cần được tự thể hiện với những phương tiện tạo hình khác nhau. Sự thể hiện mang tính cá nhân, bởi vì trẻ luôn tiếp cận theo đặc tính riêng của mình. Chẳng hạn sau chuyến đi thăm quan “Trường Tiểu học” một nhóm trẻ được khuyến khích hoạt động tạo hình, một trẻ vẽ trường Tiểu học, 5 trẻ khác lắp ghép, trẻ thì xé dán trường Tiểu học. Mỗi trẻ tự lựa chọn bằng cách được phản ánh bằng xé dán, vẽ, lắp ghép và các hình thức khác nhau để thực hiện cái có ý nghĩa đối với cá nhân trẻ.
  7. Tăng cường các câu hỏi gợi ý giúp trẻ củng cố và áp dụng những kinh nghiệmđã lĩnh hội trong các hoạt động khác nhau, động viên trẻ suy nghĩ, thăm dò, tìm cách giải quyết vấn đề của trẻ. Hãy để tự trẻ miêu tả những gì trẻ biết và có thể làm. Ví dụ: “Hãy cho cô biết vì sao”, “Nếu như vậy thì sao”, “Vì sao cháu lại biết”, “Cháu có suy nghĩ gì”, “Còn gì để”, “ Hay có cách nào khác để”,… Với những cử chỉ, hành động, lời nói tạo ra cho trẻ thấy là trẻ được đánh giá tốt (khá) qua việc làm của trẻ. Ví dụ: “Ôi cô rất thích tô màu ngôi trường này”, “Bức tranh này trông đẹp quá!” Không lạm dụng các sản phẩm mẫu và làm mẫu, càng ít làm mẫu và càng ít sử dụng vật mẫu sẽ càng kích thích trẻ tư duy và tìm kiếm cách thể hiện. Thực tế cho thấy các sản phẩm mẫu sẽ làm tê liệt các cảm xúc đã có trước của trẻ, làm giảm tính tích cực hoạt động trí tuệ của trẻ, vì các hoạt động cần thiết để tạo hình đã được làm mẫu đầy đủ, trẻ luôn ghi nhớ, bắt trước. Nếu có trường hợp yêu cầu làm mẫu, phải gợi ý chứ đừng nên làm ngay. Bắt đầu xé từ đâu, xé hình gì, xé như thế nào,… Tạo tình huống để trẻ làm giúp. Ví dụ: “Để đất mềm ra chúng ta làm như thế nào?”. Trong khi làm mẫu tôi luôn coi trọng quan điểm của trẻ, làm cho trẻ phát triển khả năng so sánh, phân tích, suy nghĩ về nhiệm vụ. Động viên kích thích trẻ tự tìm, tự sáng tạo trong khi thể hiện. 3.5 – Sử dụng nguyên vật liệu tạo hình: Khi thực hiện hoạt động tạo hình, nguyên vật liệu không thể thiếu được. Vậy để hoạt động tạo hình có hiệu quả, việc sử dụng nguyên vật liệu tạo hình là vô cùng quan trọng. Nguyên vật liệu là những loại đồ dùng, dụng cụ dễ kiếm. Có thể trẻ tự kiếm như lá cây, phế liệu hư, vỏ hộp, thùng catong, quần áo cũ, bông, vải vụn,… Chúng có thể được sản xuất như: giấy, hồ dán, kéo, …
  8. Sự đa dạng của nguyên vật liệu tạo hình để lựa chọn để khuyến khích khả năng sáng tạo của trẻ. Hoạt động tạo hình phải thể hiện qua mầu sắc như: tô, cắt, dán, vẽ, nặn, … Để đảm bảo khi sử dụng nguyên vật liệu tạo hình tôi cần cân nhắc những điểm sau: + An toàn (không nhọn, không có cạnh sắc, không độc hại,…) + Rẻ tiền (những nguyên vật liệu mua ở địa phương) + Dễ kiếm: Ví dụ: vỏ ốc, hến, hạt na, bưởi, len, …) + Dễ bảo quản hay cất giữ + Dễ cầm: (phù hợp với tầm tay của trẻ) + Dễ cung cấp kinh nghiệm bao gồm cả giác quan. + Dễ sửa chữa + Tạo cơ hội để lựa chọn và sắp xếp nguyên vật liệu + Luôn quan sát sự tưởng tượng và sử dụng trí nhớ linh hoạt Vì từng đồ dùng, đồ chơi còn nhiều hạn chế tôi luôn huy động trẻ tìm kiếm nguyên vật liệu, phế thải có sẵn ở địa phương. Ví dụ: Bằng những hạt gạo, hạt đỗ, rơm, rạ, lá cây, vỏ hến, giấy vụ, … tôi có thể tạo ra nhiều con vật nghộ nghĩnh, sinh động, những bức vẽ, các đề tài khác nhau. 3.6 – Tích hợp các môn học khác: Tích hợp là phương pháp đòi hỏi ở giáo viên sự sáng tạo linh hoạt và khéo léo khi vận dụng, quá trình vận dụng tích hợp, cần lựa chọn nội dung phù hợp, logic, tránh quá trình hoạt động trở lên rời rạc, chắp vá.
  9. Ví dụ: Đối với tiết học “Vẽ phương tiện giao thông” (đề tài) tôi chuẩn bị rất nhiều phương tiện giao thông (đồ chơi) và chuẩn bị từ 2 – 4 tranh vẽ phương tiện giao thông cho bé quan sát. Khi vào bài cho trẻ hát bài “Em tập lái ôtô”. Sau đó tôi hỏi trẻ; Cả lớp vừa hát bài gì? -Vậy trong lớp có những đồ chơi gì là phương tiện giao thông. -Cho trẻ nói tên và đếm các phương tiện giao thông. *. Sau đó tôi cho trẻ quan sát các bức tranh mà trẻ vừa được mô tả qua đồ chơi trong lớp. *. Giới thiệu và đàm thoại với trẻ về các bức tranh mẫu (từ 2 – 4 tranh) *. Trẻ thực hiện: Tôi mở băng có các bài hát trong chủ điểm gợi cho trẻ say mê làm việc trong khi trẻ thực hiện, tôi đến từng bàn động viên khuyến khích đối với những cháu còn lúng túng, gợi ý cho trẻ làm từ đơn giản đến phức tạp. Đối với trẻ khá tôi gợi ý để trẻ có nhiều sáng tạo trong bài vẽ. *. Nhận xét sản phẩm: Cho trẻ để bài theo tổ, theo bàn và làm đoàn tầu đi quanh quan sát, nhận xét để trẻ chọn bức tranh mà trẻ thích nhất: con thích bài nào nhất? Vì sao con thích? Sau đó cô phân tích ưu điểm của từng bức tranh ở từng nét vẽ, màu sắc, bố cục, hình dáng, … cho trẻ đếm phương tiện đã vẽ được, những bài đã vẽ được. *. Kết thúc: Cho trẻ vận động bài “Đoàn tàu nhỏ xíu” với một tiết học như vậy, tôi đã thu được kết quả rất đáng mừng, xuyên suốt tiết học là chủ điểm phương tiện giao thông, trẻ rất hứng thú và tích hợp được MTXQ, toán, âm nhạc. Như vậy, thường cuối một tháng thực hiện chương trình tạo hình tôi lại tổ chức một cuộc thi “bé khéo tay” ngay tại lớp mình. Muốn vậy tôi phải tổ chức tốt khâu chuẩn bị, chuẩn bị phông màn dán chữ, trang trí thật giống một cuộc thi, cũng có những phần thưởng (là chiếc đồng hồ, chong chóng, làm bằng lá dừa hay
  10. những con vật nghộ nghĩnh bằng lá cây, …) cho những ai đạt giải. Điều đó sẽ khuyến khích trẻ thi đua thực hiện. Trong suốt tiết này cô đóng vai trò người dẫn chương trình cho hội thi. Ngoài ra với tiết học này tôi cũng còn có các môn học khác. Sau đây là một số ví dụ đối với tiết học nặn (theo đề tài) mẫu giáo lớn. “Nặn các loại đồ chơi”, tôi chuẩn bị đầy đủ như trên, ngoài ra tôi còn chuẩn bị một cửa hàng trưng bầy đồ chơi trẻ em và một số đồ chơi cô nặn mẫu đẹp. Trước khi ổn định tổ chức tôi cho trẻ đi thăm quan cửa hàng trưng bày đồ chơi ngay tại lớp. Trẻ vừa quan sát vừa nhận xét so sánh sự giống nhau và khác nhau, sự đa dạng, phong phú, muôn hình ngộ nghĩnh của đồ chơi. Sau phần này từ 2 – 3 phút tôi cho trẻ ngồi vào bàn để thu hút trẻ vào chủ đề giờ học, cô nói: Loa loa loa … ngày mai nhà máy sản xuất các loại đồ chơi trẻ em sẽ mở cuộc triển lãm những đồ chơi đẹp. Vì vậy hôm nay trường mầm non sẽ tổ chức hội thi “Bé khéo tay” để chọn ra những “bác thợ” và “nghệ nhân” tài giỏi nhất, khéo tay nhất nặn được nhiều đồ chơi đẹp sẽ được gửi đi triển lãm ở nhà máy sản xuất đồ chơi và có phần thưởng cao nhất, cũng có những phần thưởng cho đồng đội nữa. Vậy các “nghệ nhân” tí hon hãy cùng trổ tài xem thí sinh nào nặn giỏi nhất, tổ thợ nào khéo tay nhất. Đề thi hôm nay là: “Nặn các loại đồ chơi”. Sau đó tôi cho trẻ đàm thoại hướng tới đề tài bằng các câu hỏi, cho trẻ kể tên các loại đồ chơi mà trẻ đã biết qua buổi tham quan cửa hàng đồ chơi mẫu (được trưng bày hàng ngày ở lớp). Trẻ kể đến đâu cô đưa các mẫu đồ chơi cô nặn ra đến đó cho trẻ xem và kết hợp phân tích đặc điểm, hình dáng phong phú của các loại đồ chơi,… Tôi cho trẻ đếm số đồ chơi cô nặn sau đó cất các đồ chơi đó đi cho trẻ thực hiện. Trong quá trình trẻ nặn cô nói những câu vui tươi, dí dỏm (ngôn ngữ nghệ thuật, biểu cảm) cùng với cử chỉ, điệu bộ, nét mặt để tạo hứng thú, hấp dẫn trẻ say mê với hoạt động. Phần kết thúc nhận xét và phần trao thưởng cho các giải là những chiếc đồng hồ, chong chóng lá dừa, các con vật ngộ nghĩnh bằng lá cây,… 3.7 – Dạy tạo hình thông qua các môn học khác:
  11. - Môn làm quen với toán: Ví dụ: Cho trẻ trang trí hình vuông và hình chữ nhật. - Môn làm quen với môi trường xung quanh: Ví dụ cho trẻ vẽ các con vật, các loại quả hay các phương tiện giao thông, và người thân trong gia đình,… - Môn văn học: Ví dụ sau khi học xong bài thơ “cây dừa” cho trẻ vẽ cây dừa. - Môn họa Ví dụ: vẽ các con vật trong truyện. - Môn làm quen với chữ cái. Ví dụ: trẻ tô màu vào chữ in rỗng, vào vở tập tô. 3.8- Học tạo hình mọi lúc, mọi nơi Trẻ được làm quen với môi trường xung quanh khi đi dạo chơi trẻ được ngắm nhìn vật thật, đựơc sờ nắm, khi cho trẻ họat động ngoài trời cô có thể phát phấn để trẻ có thể vẽ lên nền. Ví dụ: trẻ dùng phấn để in cánh hoa, lá hoa, vẽ những biểu tượng mà trẻ thích. Khi hoạt động ngoài trời tôi yêu cầu trẻ lượm lá khô, cành khô để làm vật liệu cho trẻ hoạt động tạo hình. + Giờ sinh hoạt chiều: Ví dụ: tôi cho trẻ kể về những con vật mà trẻ thích và cho trẻ vẽ những con vật đó.
  12. + ở các hoạt động góc: Góc học tập trẻ có thể chơi dậy vẽ, nặn, xé, dán. Góc nghệ thuật trẻ: Ví dụ: Một nhóm trẻ có thể tạo nên một bức tranh xé dán “ Ngôi nhà của bé”. Bên cạnh dạy tạo hình ở lớp tôi thường gợi ý cho trẻ tạo hình ở nhà bằng cách trao đổi với phụ huynh để cùng nhắc nhở, động viên trẻ, hướng dẫn trẻ thực hiện một vài bài tập ở nhà như vẽ tranh theo đề tài, nặn theo mẫu, vẽ theo ý thích, hay xé dán một hình ảnh nào đó, theo các đề tài mà trẻ đã được làm quen ở lớp. 3.9- Đi sâu bồi dưỡng các đối tượng yếu kém và có năng khiếu tạo hình: Ngoài việc giảng dạy trên tiết học, tôi còn thường xuyên chia đối tượng giỏi, khá, trung bình, yếu để tập luyện ở mọi lúc, mọi nơi. Ví dụ 1: Những trẻ yếu tôi thường hướng dẫn cho trẻ xem tranh và gợi ý cho trẻ vẽ những bức tranh từ đơn giản đến phức tạp. Ví du 2: Đối với trẻ nhút nhát, tôi thường phối hợp với gia đình động viên trẻ vẽ về những bức tranh mà trẻ yêu thích để tặng ông bà, cha mẹ. Những trẻ khá, giỏi tôi gợi ý, yêu cầu cao hơn để trẻ phát huy khả năng sáng tạo. Ví du: Trẻ đang vẽ ô tô gợi hỏi “Con sẽ vẽ ô tô chạy ở đâu?” Đường đồng bằng hay miền núi, trên bầu trời có gì? Sau khi tiến hành các biện pháp trên, qua khảo sát đã thu được kết quả: - Số trẻ đạt loại giỏi : 35% - Số trẻ đạt loại khá: 45%
  13. - Số trẻ đạt trung bình: 20% - Yếu kém : 0% Xếp loại Tỷ lệ % Tỷ lệ % Tỷ lệ % khi chưa dạy theo dạy theo phương tăng hơn so với phương pháp đổi pháp đổi mới phương pháp cũ mới Giỏi 13 35 Tăng 24% Khá 18,5 45 Tăng 26,5% Trung bình 63 20 Giảm 43% Yếu, kém 5,5 0 Giảm 100% PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ NHỮNG KHUYẾN NGHỊ 1. Bài học rút ra: Qua quá trình nghiên cứu và thực tế ở lớp, tôi đã rút ra cho mình những bài học bổ ích giúp tôi có nhiều kinh nghiệm hơn khi lên lớp. Điều quan trọng đầu tiên đối với trẻ là chuẩn bị tri thức cho trẻ, kết hợp với việc soạn giáo án đầy đủ, sáng
  14. tạo và có thủ thuật lên lớp. Say mê không chưa đủ mà đòi hỏi môn tạo hình phải phát huy hết khả năng của mình để dẫn dắt gợi mở. - Làm đồ dùng kết hợp tham mưu bổ xung ý kiến nâng cao cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động của trẻ. - Lên kế hoạch tìm kiếm nguyên vật liệu phế thải để làm đồ dùng, đồ chơi, tuyên truyền kết hợp giữa gia đình và nhà trường. - Đưa môn học tạo hình, lồng ghép vào các hoạt động và các môn học khác. - Trong quá trình đổi mới phương pháp giáo dục thường xuyên lấy trẻ làm trung tâm, “Cô giáo là người gợi mở dẫn dắt trẻ vào thế giới đầy mầu sắc của tạo hình”. - Để có được sản phẩm đẹp do trẻ tạo ra cô giáo phải là người kiên trì không nóng vội trước kết quả của trẻ tạo ra, mà dẫn dắt bằng cả tấm lòng nhiệt tình, sự yêu nghề của mình với vốn kiến thức đã được học đem đến cho trẻ những gì cần thiết nhất, giúp trẻ tiến bộ ngoài ra còn phải tích luỹ kinh nghiệm học hỏi đồng nhiệp, tham khảo tài liệu, tất cả sẽ đem lại thành công cho mình. Tạo điều kiện cho trẻ hoạt động ở mọi lúc, mọi nơi, động viên khích lệ trẻ tích cực tham gia vào các hoạt động. - Để trẻ học tốt môn tạo hình thì trước hết cô giáo phải thực sự là người bạn lớn của trẻ, luôn kịp thời lắng nghe ý kiến, giải thích, động viên giuáp đỡ trẻ khi trẻ còn lúng túng. Cô luôn tham gia đầy đủ các buổi thao giảng của nghành, của trường tổ chức. - Quá trình giảng dạy cô phải quan tâm đến khả năng từng trẻ để có biện pháp bồi dưỡng phù hợp. Ngoài chuyên môn vững cô còn phải thực hiện sự hoà nhập với thế giới của trẻ thơ. Cô hiểu và cùng trẻ thể hiện, tạo cho trẻ cảm giác tự tin, thoải mái và đạt hiệu quả cao trong giờ học.
  15. 2. Kết luận: Thực hiện đề tài này cá nhân tôi xoay quanh nội dung là làm sao cho trẻ tự học tốt môn tạo hình. Tôi nghiên cứu ngay từ lớp học của mình, nghiên cứu về trí tuệ, tình cảm của trẻ, về khả năng, năng khiếu tạo hình của trẻ với những nội dung bài học trong chương trình tôi thấy tất cả những gì áp dụng đối với trẻ đều phù hợp, các bài vẽ có nội dung phong phú và gần gũi với trẻ. Tôi đã sử dụng phương pháp chính trong tiết học là quan sát, đàm thoại, ghi nhớ và tái tạo… Với kinh nghiệm trên tôi đã áp dụng với các cháu lớp tôi và đạt kết quả rất cao, tôi đã kịp thời và bồi dưỡng cho trẻ có năng khiếu và nhân rộng ra những trẻ khác./. Trên đây là những kinh nghiệm thực tế qua các giờ lên lớp, buổi lên lớp của tôi. Ngoài ra nó còn là những kết quả sau quá trình đào sâu nghiên cứu tâm lý trẻ. Mong muốn lớn nhất của tôi làm sao để mỗi tiết học trẻ được vui chơi và thấm vào tâm hồn trong sáng của trẻ những cảm xúc, ở đó sự sáng tạo đã được bắt nguồn, nảy nở. Trân trọng cảm ơn những đóng góp của hội đồng giáo viên và cán bộ nghành.
nguon tai.lieu . vn