Xem mẫu

  1. MỐI LIÊN QUAN GIỮA GEN VÀ BIỂU HIỆN CỦA BỆNH NHI SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE Phần 1 BÀN LUẬN Đặc điểm dịch tễ học Tuổi Trong nghiên cứu của chúng tôi tuổi trung b ình 9.8 ± 3.2, cao hơn so với các kết quả nghiên cứu của Halstead SB(18), Nguyễn Công Khanh(9), lứa tuổi từ 5-9 tuổi bị sốt xuất huyết Dengue nhiều nhất. Có thể do tuổi mắc bệnh sốt xuất huyết ngày càng gặp nhiều hơn ở trẻ lớn và người lớn. Giới tính Trong mẫu nghiên cứu tỉ lệ nam/nữ 1.27:1; tương tự báo cáo của (10,6) Nguyễn Trọng Lân và cộng sự . Theo phần lớn các tác giả, tỷ lệ nam
  2. mắc bệnh SXH-D thường cao hơn nữ và tỷ lệ nam/nữ trung bình 1.32-3/1(11). Một số nghiên cứu bệnh nhân được làm xét nghiệm phân lập siêu vi thì tỷ lệ nam/nữ 1.5/1 (13). Địa chỉ 252 bệnh nhân có địa chỉ ở thành phố, tập trung chủ yếu tại các quận vùng ven như Q7, Thủ Đức, Nhà Bè, Cần Giờ… Đặc điểm lâm sàng Sốt Sốt là một triệu chứng gặp ở tất cả các bệnh nhân, đa phần khởi phát sốt cao đột ngột, 26.9% trẻ sốt 410C vào ngày thứ 1. Biểu hiện xuất huyết: Tỷ lệ bệnh nhân có chấm xuất huyết dưới da là 289/297 chiếm 97,3% xuất hiện vào ngày thứ 4 của bệnh, tương tự kết quả nghiên cứu của Phan Hữu Nguyệt Diễm l 97,8%(5), Bùi Xuân Bách tại Hà Nội năm 1969 91,4%(3). Xuất huyết tiêu hóa 44 ca chiếm 15%, trong đó nhóm có sốc chiếm tỉ lệ cao hơn (18,9%).
  3. Biểu hiện gan to Trong nghiên cứu của chúng tôi, gan to gặp trong 223 ca, tỷ lệ 75%, trong đó, nhóm có sốc chiếm 98,03%, tương tự với Nguyễn Trọng Lân, Tiêu Ngọc Trân tại bệnh viện Nhi Đồng 1 là 86%(10,14). Điều này cũng phù hợp với cơ chế bệnh sinh của SXH-D, gan to do tình trạng thất thóat huyết tương do tăng tính thấm thành mạch. Theo Tổ chức Y tế thế giới, gan to chiếm tỷ lệ 90-98% ở trẻ em Thái Lan bị Sốt xuất huyết Dengue. Tuy nhiên, ở các nước khác tỷ lệ này rất khác nhau như: Indonesia 46-73%, ở Jakarta 46- 73%, Trung Quốc 5%, Philippin 14%, Cuba 35%, Ấn Độ 75%(20,21,22,23,26). Sốc Sốc SXH-D được ghi nhận trong 153 ca, tỷ lệ 51.5%, sốc xảy ra từ ngày thứ 3 đến thứ 6, hầu hết các trường hợp vào sốc vào ngày thứ 4 và 5 chiếm tỷ lệ lần lượt là 37,3%, 45,8%, tương tự như báo cáo của Nguyễn Thanh Hùng, Nguyễn Trọng Lân(8). Trong nhóm này, tỉ lệ tràn dịch màng phổi, màng bụng, mức độ xuất huyết tiêu hoá chiếm tỉ lệ nhiều hơn nhóm không sốc, tương tự các báo cáo trước đây về sốc xuất huyết Dengue của WHO, bệnh viện Nhi đồng 1(8,25).
  4. Đặc điểm cận lâm sàng Cô đặc máu Trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi, dung tích hồng cầu trung b ình ở nhóm có sốc cao hơn nhóm không sốc với trung bình lần lượt 48.9 ± 3.9; 45.5 ± 4.3.. Điều này được giải thích do cô đặc máu là một trong những tiêu chuẩn chẩn đoán SXH-D. Dung tích hồng cầu tăng trong tất cả các trường hợp SXH-D, đặc biệt là trong những trường hợp có sốc. Theo Nguyễn Tường Vân(17), Vũ Thị Quế (12), dung tích hồng cầu tăng chiếm 63%, Nguyễn Bá Duy(4), dung tích hồng cầu tăng trong 100% bệnh nhân bị sốc SXH-D, có trường hợp tăng cao trên 56%. Tiểu cầu 100% các trường hợp có tiểu cầu giảm < 100000/m3. Số lượng tiểu cầu < 20000/m3 là 33 ca chiếm 11%, trong đó nhóm có sốc chiếm tỷ lệ 81,8%. Theo Bạch Quốc Tuyên(15) trên nhóm sốc SXH-D nặng thấy 74% trường hợp tiểu cầu giảm < 100000/m3, 26% tiểu cầu từ 100000 – 150000/m3. Nguyễn Trọng Lân(10), Suvatte V(24), giảm tiểu cầu chiếm hơn 80% các ca SXH-D. Số lượng tiểu cầu bắt đầu giảm thường từ ngày thứ 3
  5. của bệnh, giảm thấp nhất vào ngày thứ 5, sau đó tăng nhanh trong giai đoạn hồi phục và trở về bình thường 7-10 ngày sau khởi phát sốt. Huyết thanh chẩn đoán Tỉ lệ chẩn đoán bằng phương pháp ELISA với IgM(+) trong báo cáo này là 100%, nhưng tỉ lệ IgG (+) ở cả 2 nhóm sốc là 76,4% và 75,8%, chứng tỏ có khoảng 1/3 các trường hợp bị sốt xuất huyết Dengue trong lần nhiễm lần đầu. Điều này cũng gần giống Mahbubur Rahman, khi tỉ lệ tái nhiễm và bị bệnh chiếm 2/3 các trường hợp. Sự liên quan tần suất của Allele HLA trong nhóm SXH-D có sốc, không sốc và nhóm chứng Tỷ lệ Allele HLA-A24 trong nhóm chứng thấp hơn (21,2%) so với nhóm SXH-D chung (36,5%) cũng như nhóm SXH-D có sốc (37,8%) và SXH-D không sốc (34,7%). Sự khác biệt này có ý nghĩa về mặt thống kê (p< 0,05) với OR lần lượt là 2,13; 2,25;1,97. Theo kết quả nghiên cứu của WHO 2004 về “sự tác động của HLA trên bệnh nhiễm virus Dengue” ở người Việt Nam cũng cho kết quả tương tự là HLA nhóm I có Allele A24 có tác động “nhạy cảm”. Còn đối với dân tộc Thái Lan, Allele có tác động nhạy cảm là A*0207 (bảng 6).
  6. Tỷ lệ Allele HLA-DRB1*0901 trong nhóm chứng cao hơn trong nhóm SXH –D có sốc và không sốc, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p< 0.05). Năm 2004 WHO đã công bố Allele HLA-DRB1*04 ở dân tộc Mexican có khả năng “đề kháng” khi bị nhiễm virus Dengue. Giảm HLA-DRB1*0901 và tăng HLA-A24 có ý nghĩa đáng kể trong SXH-D và sốc SXH-D ở 2 nhóm dân số nghiên cứu. Những Alleles này có lẽ chi phối đến sự nhạy cảm và đề kháng với SXH-D và sốc SXH-D(19). Bảng 6: Tác động của HLA lên nhiễm siêu vi Dengue (WHO 2004) HLA Tác Dân tộc động nhạy Nhóm A1 Cuba cảm 1 nhạy A*0207 Thái cảm bảo vệ A*0203 Thái
  7. HLA Tác Dân tộc động nhạy Việt A24 cảm Nam Bảo A29 Cu ba vệ bảo vệ Việt A33 Nam nhạy B Cu Ba, cảm Thái bảo vệ B13, Thái B44, B52, B62, Nhạy B74, B77, B46, cảm B51
  8. HLA Tác Dân tộc động đề Nhóm DRB1*04 Mexican II kháng Kích hoạt Việt Nhóm Không kết hợp III TNF - a Nam KẾT LUẬN Qua nghiên cứu 297 trường hợp với 144 trẻ thuộc nhóm trẻ bị sốt xuất huyết không sốc và 153 trẻ có sốc chúng tôi thấy có những đặc điểm sau đây: Về lâm sàng: trong nhóm nghiên cứu: tuổi trung bình 9,8 ± 3,2, tỉ lệ nam/nữ 1,3: 1, đa phần ở thành phố Hồ Chí Minh. Hai dấu hiệu lâm sàng gặp nhiều nhất là xuất huyết dưới da và gan to. Các biểu hiện xuất huyết tiêu hoá, tràn dịch màng phổi, màng bụng gặp nhiều ở nhóm sốt xuất huyết có sốc. tỉ lệ nhóm bệnh có sốc chiếm hơn 50% trong nhóm nghiên cứu.
  9. Về cận lâm sàng: 2/3 các trường hợp là tái nhiễm sốt xuất huyết, chúng tôi đã phân lập được cả 4 type huyết thanh Dengue, trong đó chủ yếu là serotype 2 và 4. Tỉ lệ phân lập được siêu vi là không cao. Về di truyền học: HLA – A24 là alleles nhạy cảm và HLA DRB1 là allele đề kháng trong sốt xuất huyết Dengue. Tuy nhiên, những alleles này không tác động vào mức độ nặng của bệnh. KIẾN NGHỊ Vì số mẫu nghiên cứu chưa nhiều, chưa đại diện đựoc toàn bộ dân số nên cần tiếp tục nghiên cứu xa hơn để giải thích sự tương quan giữa gen và SXH-D. Qua đó, để tiến thêm 1 bước xa hơn là thiết lập 1 bản đồ gen cho người Việt Nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO Bạch Quốc Tuyên (1984) – Những biến đổi về cầm máu và đông 1 máu trong sốt xuất huyết qua vụ dịch 1978 tại Hà Nội. Một số công trình nghiên cứu chuyên khoa huyết học cầm máu 1974-1984 – Nhà xuất bản Y học, thể dục thể thao, 1984, tr 214-222
  10. Bạch Văn Cam (2005), Tổn thương các cơ quan trong sốc sốt xuất 2 huyết Dengue kéo dài, Hội nghị khoa học chuyên đề Nhi khoa. Bộ Y tế (2001), Quy định về hướng dẫn chẩn đoán và điều trị 3 sốt Dengue và sốt xuất huyết Dengue, Hà Nội Bùi Xuân Bách và cs (1970), “Bệnh Sốt xuất huyết ở trẻ em năm 4 1969 tại BV B Hà Nội”, Đặc san sốt xuất huyết do muỗi truyền, Hội Y Học Hà Nội tr 52-55 Đỗ Quang Hà, Vũ Thị Quế Hương, Huỳnh Thị Kim Loan, Cao 5 Minh Thắng(2000), Giám sát Vi Rút dịch Sốt xuất huyết Dengue tại các tỉnh phía Nam từ 1987-2000. Tạp chí Thời sự Y Dược Học TPHCM 2000 6 Halstead S.B. (1997), “Epidemiology of Dengue and Dengue haemorrhagic fever”.Dengue and Dengue haemorragic fever, Gubler D J, Kuno G, editors, Walling ford, UK: CAB international,pp 23-44 7 Kenji Hirayama, MD, PhD, (2003) “ Searching for Susceptible or Resistant genes to Dengue Hemorhagic” Department of Immunogenetics Institute of Tropical Medicine Nagasaki Univ. Nagasaki, Japan
  11. 8 Kouri G.P., Guzman M.G., Bravo J.R., and Triana C. (1980) “Dengue haemorrhagic fever and Dengue shock syndrome: lessons from the Cuba epidemic 1981”. Bulletin of the World Health Organization 67(4), 375-380 Nguyễn Bá Duy, Ngô Khải (1974) – Khảo sát thống kê Sốt xuất 9 huyết tại trại IIID, trong năm 1972 và 1973. Kỷ yếu Bệnh viện Nhi đồng, số 2, đặc biệt về sốt xuất huyết, tr 39-40 Nguyễn Công Khanh(1997),”Sốt xuất huyết Dengue”, Cẩm nang 10 điều trị nhi khoa, Viện Bão Vệ Sức khoẻ Trẻ Em, Nhà Xuất Bản Y Học, tr 341-344 Nguyễn Thanh Hùng, Nguyễn Trọng Lân và cs (2001), “Điều trị 11 SXH-D tại BV Nhi Đồng I, Tp HCM, 1991-2000” Thời Sự Y Dược Học TP Hồ chí Minh, số 3, tr 149-152. Nguyễn Thị Bạch Huệ (2002), Các yếu tố nguy cơ sốt xuất huyết 12 dạng não ở trẻ em, Luận án Bác sĩ Chuyên khoa cấp II, chuyên nghành Nhi, pp
  12. Nguyễn Thị Tường Vân (1974) – Bệnh sốt xuất huyết tại trại 13 ICD, bệnh viện Nhi đồng, Sài Gòn. Kỷ yếu bệnh viện Nhi đồng; 1974, số 2, đặc biệt về sốt xuất huyết, tr22-27 Nguyễn Trọng Lân (1994), Một số kinh nghiệm thực tế trong 14 điều trị sốc sốt xuất huyết Dengue, Luận án phó tiến sĩ Y học khoa học, Viện bảo vệ sức khoẻ trẻ em, Nhà xuất bản y học, tr 341-344 Nguyễn Trọng Lân, Đỗ Quang Hà, Vũ Thị Quế Hương, Nguyễn 15 Thanh Hùng, Vũ Đình Thâm, Claudin Roche, Eliane Chungue, Vincent Deubel (2004): Chẩn đoán sớm và tìm hiểu nhiễm vi rút huyết thanh trong bệnh Dengue xuất huyết bằng kỹ thuật RT/PCR. Y KhoaNet -2004 Phan Hữu Nguyệt Diễ m(2003), Suy gan trong SXH-Dengue ở 16 Trẻ em, Luận án tiến sĩ Y học chuyên nghành Nhi, tr 56 17 Samsi T.K, Wulur H, Sugianto D, Bartz C.R, Tan R, Sie A (1990) “ Some clinical and epidemiological observation on virologycally confirmed Dengue heamorrhagic fever”. Paediatrica Indonesiana, pp 293- 303 18 Songon R.S., Hayes., Leus C.D., Manaroto C.O.R., (1987). “ Dengue fever/ Dengue haemorrhagic fever in Filppino children: clinical
  13. experience during the 1983-1984 epidemic “. Southeast Asian J Trop Med Public Health 18.284-290 19 Srivastava V.K., Suri S., Bhasin A., Srivastava L., Bharadwaj M., (1990) “An epidemic of Dengue haemorrhagic fever and Dengue shock syndrome in Dehli: a clinical study”. Annal of Tropical Pediatrics 10, 329- 334 20 Suvatte V. (1981), Immunological aspects of Dengue hemorrhagic fever studies in Thailand. Southeast Asian j. Trop. Med. Pub.Health, Vol 18, No3 Tạ Văn Trầm (2003), Các yếu tố liên quan sốc sốt xuất huyết 21 Dengue kéo dài ở trẻ em, Luận án tiến sĩ Y học chuyên nghành Nhi, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh Tiêu Ngọc Trân (2005), Mối liên quan giữa cholesterol, 22 albumin, SGOT, SGPT và độ năng của bệnh sốt xuất huyết Dengue, Luận văn cao học chuyên ngành Nhi Trương Anh Tấn (2005) Nhận xét về týp huyết thanh gây bệnh 23 sốt xuất huyết Dengue và mức độ nặng của bệnh tại bệnh viện Nhi Đồng II, Luận án Bác sĩ Chuyên khoa cấp II, chuyên nghành Nhi, pp
  14. Vũ Thị Quế và cs (1994) – Khảo sát bệnh sốt xuất huyết trại IIB 24 – Bệnh viện Nhi đồng. Kỷ yếu Bệnh viện Nhi đồng, số 2, đặc biệt về sốt xuất huyết, 1974, tr 36-60 25 William W.H, Jessie R.G.et al (1997), “ Bleeding disorders”, Current Pediatric diagnosis and treatment – 13th edition, 768-769. 26 World Health Organization (1997), Dengue heamorrhagic fever: diagnosis, treatment, prevention and control, 2ndedition, Geneva: WHO
nguon tai.lieu . vn