Xem mẫu

  1. Máy tạo nhịp tim - Pacemaker (Kỳ 3) NHỮNG LOẠI MÁY TẠO NHỊP Máy tạo nhịp có thể có một hoặc nhiều điện cực. Máy tạo nhịp đơn buồng có 1 điện cực còn máy tạo nhịp buồng đôi có 2 điện cực.
  2. Điện cực của máy tạo nhịp đơn buồng được đặt vào tâm thất và máy có thể nhận được tín hiệu và tạo nhịp cho tâm thất. Nếu điện cực được đặt ở tâm nhĩ, máy tạo nhịp có thể nhận tín hiệu và tạo nhịp cho tâm nhĩ. Tùy thuộc vào nguyên nhân và tính chất của triệu chứng chậm nhịp tim mà bác sĩ sẽ quyết định đặt điện cực ở đâu. Những máy tạo nhịp 2 buồng có 2 điện cực: một đặt ở tâm nhĩ và một đặt ở tâm thất. Máy tạo nhịp 2 buồng phức tạp và rắc rối hơn máy tạo nhịp đơn buồng. Nó có thể nhận tín hiệu và tạo nhịp ở cả tâm thất lẫn tâm nhĩ. Nó cũng có thể phối hợp tín hiệu và sự co bóp từ tâm nhĩ lẫn tâm thất để giúp tim đập hiệu quả hơn. Trong chu kỳ co bóp bình thường của một quả tim bình thường, tâm nhĩ co trước để tống máu xuống tâm thất. Sau đó tâm thất mới co sau một khoảng thời gian ngắn. Máy tạo nhịp hai buồng có thể phối hợp tín hiệu điện đến tâm nhĩ và tâm thất để chúng có thể co bóp được theo chu kỳ tự nhiên. Nếu co bóp theo chu kỳ tự nhiên sẽ có thể cải thiện được hiệu quả bơm của tim. Máy tạo nhịp hai buồng dễ gặp trục trặc hơn do nó có độ phức tạp cao hơn. Những máy tạo nhịp này có thể làm cho tim đập với nhịp không phù hợp nếu tim bị lẫn lộn bởi những tín hiệu điện của chính nó. Ngoài ra, thêm một điện cực cũng có nghĩa là thêm một thiết bị nữa có khả năng hư hỏng. Do đó, không phải bệnh nhân nào cũng hội đủ điều kiện để đặt máy tạo nhịp hai buồng. Một số bệnh nhân nhận được tiện ích nhiều hơn khi sử dụng máy tạo nhịp đơn buồng. Chỉ có bác sĩ
  3. tim mạch là người đủ điều kiện lý tưởng nhất để quyết định xem loại máy tạo nhịp nào là thích hợp nhất cho bạn. Có máy tạo nhịp nào tự điều chỉnh tần số tim được không? Những máy tạo nhịp được trang bị tính năng đáp ứng với hoạt động. Tính năng này giúp cho nó có thể tạo nhịp nhanh hơn trong khoảng thời gian người mang máy đang gắng sức hoặc đang chịu áp lực. Hoạt động chuyển hóa của cơ thể sẽ gia tăng khi gắng sức hoặc khi có áp lực. Hoạt động chuyển hóa cao sẽ làm gia tăng nhu cầu cung cấp máu cho cơ và những bộ phận khác. Một số máy tạo nhịp loại mới có tính năng đáp ứng hoạt động có thể đo được hoạt động chuyển hóa của cơ thể bằng các cảm biến và làm tăng nhịp tim bằng cách tăng tần số phát tín hiệu khi đang gắng sức hoặc đang chịu áp lực. Sau giai đoạn đó, nhịp độ phát tín hiệu sẽ trở lại nhịp đã được lập trình từ trước. Những loại máy tạo nhịp đáp ứng với hoạt động khác nhau dùng những cảm biến khác nhau để đo hoạt động chuyển hóa. Một loại máy tạo nhịp có chứa cảm biến có khả năng phát hiện ra độ rung có liên quan đến hoạt động. Tần số phát tín hiệu sẽ tăng khi máy cảm thấy có sự gia tăng về độ rung. Một loại máy tạo nhịp khác có những cảm biến phát hiện được nhịp thở. Tần số phát tín hiệu của máy sẽ tăng khi bệnh nhân thở nhanh hơn. Một loại khác có chứa cảm biến đo được những thay đổi về độ acid và áp lực bên trong các buồng tim cùng với nhiệt
  4. độ cơ thể v.v... Mỗi một loại cảm biến có mặt mạnh và mặt yếu riêng. Do không có loại cảm biến nào là hoàn hảo nên các máy tạo nhịp phối hợp nhiều loại cảm biến lại với nhau để có thể đo được những hoạt động chuyển hóa của cơ thể một cách chính xác hơn. SỐNG CHUNG VỚI MÁY TẠO NHỊP Hầu hết các bệnh nhân đều có thể quay trở lại nếp sinh hoạt bình thường sau khi được đặt máy tạo nhịp. Thật ra thì các bệnh nhân dùng máy tạo nhịp thường sẽ cảm thấy khá hơn và có khả năng làm được nhiều việc hơn trước đây. Bình thường bệnh nhân sẽ đau ở khu vực cấy máy tạo nhịp trong khoảng một tuần hoặc hơn sau khi cấy do đó bệnh nhân sẽ được cho thuốc giảm đau. Cũng sẽ là bình thường nếu bệnh nhân cảm thấy hơi tê và nặng xung quanh khu vực có máy tạo nhịp trong vài tháng. Vài ngày sau phẫu thuật, bệnh nhân có thể thực hiện gần như tất cả các hoạt động bình thường hằng ngày. Trong vòng một tuần đầu sau phẫu thuật, bệnh nhân sẽ được yêu cầu không nâng tay ở phía bên cấy máy cao quá đầu để ngăn không cho các điện cực bị lệch khỏi vị trí và giúp cho chúng trở nên vững chắc và an toàn bên trong tim. Bệnh nhân cũng sẽ được yêu cầu tránh nâng vật nặng, không chơi những môn thể thao tiếp xúc và những bài tập thể dục nặng trong vòng vài tuần.
  5. Những mối chỉ khâu ở vùng rạch da sẽ được lấy đi vào khoảng giữa tuần đầu tiên đến tuần thứ 2 sau phẫu thuật thông thường tại phòng khám hoặc ở các trung tâm. Đây cũng là thời điểm trao đổi với bác sĩ về mức độ hoạt động, thể dục, triệu chứng, thời điểm và tần số kiểm tra lại chức năng và mức pin của máy, các dấu hiệu hỏng hóc của máy và những cảnh báo về tiếp xúc giữa máy với các dụng cụ điện khác. Hầu hết các bác sĩ cho phép bệnh nhân quay trở lại làm việc trong vòng 1 hay 2 tuần mặc dù vết mổ có thể phải mất đến 6,7 tuần mới lành lặn hoàn toàn. Mỗi bệnh nhân sẽ được cho một thẻ ID của máy tạo nhịp có chứa những thông tin của máy. Bạn nên đưa thẻ này cho các bác sĩ và nha sĩ khác. Đôi khi các nhân viên an ninh ở sân bay cũng sẽ yêu cầu bạn cho xem thẻ. KHI NÀO CẦN BÁO LẠI CHO BÁC SĨ Trong vòng 1 hay 2 tuần đầu sau khi cấy, những triệu chứng như sốt, đau trên mức bình thường, đỏ và sưng, nóng ở vùng cấy máy cùng với dịch chảy ra từ đó có thể là dấu hiệu nhiễm trùng. Hãy thông báo ngay cho bác sĩ về những triệu chứng trên. Nếu những triệu chứng như mệt mỏi, chóng mặt hoặc bất kỳ triệu chứng nào mà bệnh nhân cảm nhận được trước khi cấy máy bây giờ quay trở lại có thể là biểu hiện cho thấy máy đã bị trục trặc. Những triệu chứng khác có thể có liên quan
  6. đến sự hỏng hóc của máy bao gồm co giật cơ, tim đập nhanh, thình thịch và thở gấp. Cần thông báo ngay những triệu chứng trên với bác sĩ.
nguon tai.lieu . vn