Xem mẫu

Journal of Science – 2016, Vol. 9 (1), 72 – 77

Part A: Social Sciences, Humanities and Education

MẤY CHI TIẾT VỀ NGUYỄN DU, TÁC GIẢ ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH
Lê Huy Thực
Câu lạc bộ Văn hóa nghệ thuật Đất Việt, Hà Nội
Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 25/12/15
Ngày nhận kết quả bình duyệt:
09/02/16
Ngày chấp nhận đăng: 03/16
Title:
Some details about Nguyen Du,
the tale of Kieu’s author
Từ khóa:
Nguyễn Du, Đoạn trường tân
thanh, Truyện Kiều, Từ Hải
Keywords:
Nguyen Du, Doan Truong Tan
Thanh, Kieu’s Story, Tu Hai

ABSTRACT
This article demonstrates: 1) The original homeland of Nguyen Du is Tao
Duong village, Hong Duong commune, Thanh Oai district, old Ha Tay, now in
Ha Noi, not as many people assume, wrongly, that it is Tien Dien village, Nghi
Xuan district, Ha Tinh Village. 2) Nguyen Du’s place of birth is Bich Cau ward,
Thang Long – Ha Noi, not where his seven-generation great-grandfather hid,
fled, and avoided to be chased for assassination in order to set himself up in
business. 3) Nguyen Du has a strong temperament, opposed to weak and
cowardly characters. 4) Nguyen Du sent his aesthetic ideals, sentiments, and
his great thoughts into the central protagonist in the Tale of Kieu; Tu Hai was a
swaggering man, strong in the arm but weak in the head, unafraid of power and
force, but he was ignorant of the people and the fatherland, a rake seeking for
fun at the whorehouses, and at last he appeared as a real enemy, not the hero of
the people.

TÓM TẮT
Bài viết luận chứng: 1) Quê quán gốc của Nguyễn Du là làng Tảo Dương, xã
Hồng Dương, huyện Thanh Oai, Hà Tây cũ, nay thuộc Hà Nội, chứ không phải
như nhiều người lầm tưởng nói và viết sai là làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân,
tỉnh Hà Tĩnh. 2) Nơi sinh của Nguyễn Du: phường Bích Câu, thành Thăng Long
- Hà Nội, không phải tại nơi ông tổ 7 đời của đại thi hào đến ẩn náu, lánh nạn,
tránh sự truy sát để sinh cơ lập nghiệp. 3) Nguyễn Du có khí chất, tính cách
mạnh mẽ, đối lập với nhu nhược, nhút nhát. 4) Nguyễn Du gửi gắm lý tưởng
thẩm mỹ, tình cảm, tư tưởng vĩ đại của ông vào nhân vật chính diện trung tâm
trong Truyện Kiều; nhân vật Từ Hải là kẻ ngang tàng, vũ dũng thiếu mưu,
không sợ cường quyền, nhưng không biết đến nhân dân và Tổ quốc, là tay ăn
chơi tìm thú vui nơi lầu xanh, v.v., cuối cùng đóng vai kẻ thù đích thực của nhân
dân, y không phải là người anh hùng của nhân dân.

Với kiệt tác không tiền khoáng hậu mang tên Đoạn
trường tân thanh mà giới nghiên cứu cùng rất đông
đảo công chúng độc giả thường gọi là Truyện Kiều đã
đưa Nguyễn Du, tác giả của nó, lên đến đỉnh cao của
sự ngưỡng mộ và sùng kính. Năm 1965, Hội đồng
Hòa bình thế giới đã quyết định làm lễ kỷ niệm 200
năm sinh Nguyễn Du (1765 - 1965). Cùng năm ấy,
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng quyết

định kỷ niệm 200 năm ngày sinh Nguyễn Du tại
nhiều tỉnh thành trên toàn quốc. Ngày 12/4/2013, Ban
Chấp hành UNESCO trong buổi họp ở Pari, thủ đô
nước Pháp, đã nhất trí thông qua Nghị quyết số 192
EX/32 vinh danh Nguyễn Du là danh nhân văn hóa
thế giới. Tượng đài và khu lăng mộ của đại thi hào
dân tộc Nguyễn Du đã được xây dựng và trùng tu từ
thế kỷ trước tại Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà
72

Journal of Science – 2016, Vol. 9 (1), 72 – 77

Part A: Social Sciences, Humanities and Education

Tĩnh - nơi ông tổ 7 đời trước của Nguyễn Du (từ quê
gốc Hà Nội) chạy đến ẩn náu, mai danh, ẩn tích, tránh
truy sát và rồi sinh cơ lập nghiệp tại đấy.

Không ít tác phẩm nghiên cứu và giáo trình đại học
viết về quê hương của đại thi hào dân tộc, danh nhân
văn hóa thế giới Nguyễn Du, tuy đúng về tên huyện,
tên tỉnh, nhưng sai về tên làng (thôn). Có tác giả đã
viết: "Họ Nguyễn Tiên Điền (của Nguyễn Du - người
trích) vốn ở làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, tỉnh
Hà Tây (nay thuộc Hà Nội - người trích)", thuộc dòng
dõi vị trạng nguyên Nguyễn Thiến". Trong một quyển
từ điển văn học, người viết mục từ Nguyễn Du, đã
xác định đúng tên huyện, tên tỉnh, nhưng sai tên làng
của quê hương Nguyễn Du như sau: dòng họ của
Nguyễn Du có gốc ở làng Canh Hoạch, huyện Thanh
Oai, trấn Sơn Nam (nay là Hà Nội - người trích).
Trong một cuốn giáo trình đại học, tại chương về
Nguyễn Du, tác giả của nó đã viết: "họ Nguyễn của
Nguyễn Du vốn ở làng Canh Hoạch, huyện Thanh
Oai, tỉnh Sơn Nam (nay thuộc Hà Nội - người trích)".

Những thông tin nói trên chứng tỏ công việc nghiên
cứu về Truyện Kiều, tác phẩm bất hủ, cũng như tìm
hiểu về đại thi hào Nguyễn Du là nhiệm vụ cần được
thực thi với kết quả đầy đủ và chính xác nhất. Nhưng,
thực tế lại cho thấy khá nhiều chi tiết về quê hương,
nơi sinh, tính cách, v.v. của nhà trước tác, danh nhân
văn hóa Nguyễn Du có sai lầm trong không ít ấn
phẩm nghiên cứu.
Chính vì vậy, trong giới hạn bài viết này, tôi từ tiếp
cận nhiều tài liệu tham khảo rồi góp phần đính chính
mấy chi tiết sơ suất khi nghiên cứu về đại thi hào dân
tộc Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn
Du.
1. Trước hết nói về quê hương gốc của Nguyễn Du.
Như chúng ta đã biết, mỗi con người cụ thể chỉ có
một quê hương gốc thôi. Nhưng, vì nhiều lý do, từ
hơn một trăm năm trước cho đến gần đây, nhiều
người, kể cả những tác giả vào hàng cự phách, trong
giới nghiên cứu, giảng dạy văn học nước ta nói riêng,
khoa học xã hội Việt Nam nói chung đã lầm tưởng
nhiều địa danh vốn không phải quê hương của
Nguyễn Du là quê hương của vị danh nhân này.

Tức là, trong đời sống văn học Việt Nam đã có khá
nhiều tác phẩm nghiên cứu, sách giáo khoa phổ
thông, giáo trình đại học viết sai hoàn toàn, hoặc sai
một phần về các địa danh thuộc quê hương của
Nguyễn Du - đại thi hào dân tộc Việt Nam, danh nhân
văn hóa thế giới.
Trong nghiên cứu khoa học, có sơ suất, khiếm khuyết,
sai lầm, đó là điều khó tránh khỏi, và những lỗi ấy cần
được sửa chữa, đính chính.

Có nhiều tài liệu nghiên cứu và sách giáo khoa đã viết
sai cả về tên làng, tên xã, tên tỉnh của quê hương gốc
gác của Nguyễn Du. Chẳng hạn, trong quyển Làng
văn hóa cổ truyền Việt Nam (Nhà xuất bản Thanh
niên, Hà Nội, 2001) do Vũ Ngọc Khánh làm chủ biên
đã viết: làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà
Tĩnh "là quê hương gốc gác của thân phụ ông
(Nguyễn Du - người trích) là Nguyễn Nghiễm". Thí
dụ khác, trong một công trình nghiên cứu rất đồ sộ quyển Từ điển địa danh lịch sử - văn hóa Việt Nam
(Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 1999) tại
trang 1172 cũng xác định sai lầm rằng: làng Tiên
Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh là quê hương
của Nguyễn Du. Thí dụ khác nữa: tác giả bài mang
tên Truyện Kiều của Nguyễn Du, trong cuốn sách
giáo khoa Ngữ văn 9, tập 1 viết: "Nguyễn Du (1765 1820)... quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh
Hà Tĩnh".

Theo một công trình nghiên cứu hàm chứa giá trị
khoa học và độ tin cậy cao, thì thám hoa Nguyễn
Doãn Địch có: "Nguyên quán Cảo Dương. Nay là
thôn (làng - người trích) Tảo Dương, xã Hồng
Dương, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây (hiện tại thuộc
Hà Nội - người trích). Trú quán... thôn Canh Hoạch,
xã Dân Hòa cùng huyện. Ông nội của Nguyễn Thiến
(Nguyễn Thiến là trạng nguyên, chữ "Thiến" là chữ
Hán có nghĩa: người nam giới dáng đẹp đẽ, dễ thương
- người trích)". Trong nhiều tài liệu lịch sử và văn học
ghi rõ: 1) Nguyễn Miễn, con trai của Nguyễn Thiến,
đã thi đỗ và giành được học vị "tiến sĩ cập đệ"; 2)
Nguyễn Nhậm (còn gọi là Nguyễn Nhiệm), con trai
của Nguyễn Miễn và là cháu nội của Nguyễn Thiến,
vũ dũng, "có sức khỏe hơn hẳn mọi người"; 3) Sau
khi Nguyễn Thiến mất, hai con ông là Nguyễn Quyện
và Nguyễn Miễn không giúp nhà Lê, và trở về với
73

Journal of Science – 2016, Vol. 9 (1), 72 – 77

Part A: Social Sciences, Humanities and Education

nhà Mạc, đến khi nhà Mạc đổ, hai người ấy lại quay
sang nhà Lê với âm mưu làm phản, nhưng việc bại lộ,
nên con cháu Nguyễn Thiến bị bắt rồi chết trong
ngục, bị giết gần hết, chỉ còn ít người sống sót, trong
đó có Nam Dương (Nguyễn Nhiệm), chạy trốn được
vào làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh
mai danh ẩn tích và sinh cơ lập nghiệp ở đấy. Bấy giờ
vùng này còn hết sức hoang vắng. Người địa phương
không biết tên Nguyễn Nhiệm vì tên gọi ấy cần được
giấu kín, nên gọi ông là Nam Dương. Đấy là ông tổ
dòng họ Nguyễn làng Tiên Điền. Từ đời Nam Dương
ông đến Nguyễn Nghiễm, thân phụ của Nguyễn Du,
là đời thứ sáu, đến Nguyễn Du là đời thứ bảy.

9 đời trước của đại thi hào Nguyễn Du - có quê quán
gốc là làng Tảo Dương, xã Hồng Dương, huyện
Thanh Oai, tỉnh Hà Tây, nay là Hà Nội; nơi ở của ông
tổ của Nguyễn Du là làng Canh Hoạch, xã Dân Hòa,
huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây, nay là Hà Nội.
Đến đây rất có thể là không ít bạn đọc đặt câu hỏi: tại
sao có sự sơ suất, sai lầm khi xác định quê hương gốc
của Nguyễn Du trong một thời gian dài không dưới
một trăm năm như vậy? Theo tôi, có nhiều nguyên
nhân. Việc ông tổ bảy đời trước của Nguyễn Du từ
Hà Tây cũ, nay là Hà Nội, chạy trốn vào Tiên Điền,
Nghi Xuân, Hà Tĩnh để ẩn náu tránh sự truy sát rồi
sinh cơ lập nghiệp tại đấy, cho nên, giấu luôn cả quê
quán, tổ tiên, anh em, con cháu. Gia phả của họ
Nguyễn ở Tiên Điền tất nhiên phải do người đời sau
của Nguyễn Nhiệm viết, trong đó có bản của chính
Nguyễn Nghiễm - thân phụ của Nguyễn Du và là hậu
duệ đời thứ 6 của Nguyễn Nhiệm - soạn, có thể không
tránh khỏi sai sót. Ấy là vì tác giả của văn bản ấy viết
về những sự việc và nhân vật cần được mai danh ẩn
tích lại sống trước mình đã hơn một trăm năm. Sau
đó, nhiều nhà nghiên cứu, không ít nhà giáo, giáo sư
có sự sơ suất cứ sao chép lại sự sai sót đó. Vân vân,
vân vân. Đấy là những nguyên cớ dẫn đến tình trạng
nói, viết sai về quê quán gốc của Nguyễn Du trong
nhiều cuộc hội thảo, bài viết, văn bản, giáo khoa, giáo
trình. Thiết nghĩ, có sai thì nên sửa và đính chính, cho
dù cái sai ấy là của các cây đa, cây đề, các tác giả vào
hàng cự phách trong lịch sử dân tộc nói chung và lịch
sử học thuật nói riêng.

Vậy là, làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà
Tĩnh chỉ là nơi ông tổ 7 đời trước của Nguyễn Du
chạy trốn để mai danh ẩn tích, tránh cuộc truy lùng sát
hại, rồi sinh cơ lập nghiệp tại đấy, chứ không phải là
quê hương gốc của Nguyễn Du. Quê hương gốc gác
của Nguyễn Du đích thực là làng Tảo Dương, xã
Hồng Dương, huyện Thanh Oai, Hà Nội.
Lịch sử chính thống cũng như lịch sử văn học Việt
Nam đã ghi rõ những chi tiết, sự kiện trên đây.
Ngoài các chứng cứ đã dẫn, một đôi câu đối được làm
vào cuối thế kỷ XVI tại nhà thờ sắc của làng Canh
Hoạch nói về họ Nguyễn của thám hoa Nguyễn Doãn
Địch, trạng nguyên Nguyễn Thiến, đại thi hào
Nguyễn Du, v.v. như sau: "Bút giá xâm vân, văn
chiếm khôi nguyên, vũ chuyên tướng mạc / Ngân
hoàng diễn phái, ốc cư Canh Hoạch, quán tại Tảo
Dương". Dịch nghĩa là: "Ngọn bút lấn mây, văn
chiếm trạng nguyên, võ chuyên chức tướng / Cành
bạc chia nhánh, nhà ở Canh Hoạch, quê gốc Tảo
Dương". Hai chữ "trạng nguyên" trong vế đối thứ
nhất rõ ràng là chỉ trạng nguyên Nguyễn Thiến; hai
chữ "chức tướng" chỉ các con cháu của Nguyễn Thiến
có nhiều người giỏi võ nghệ làm tướng. Hai chữ
"trạng nguyên" đang xét ở đây không phải là hàm ý
chỉ trạng nguyên Nguyễn Đức Lượng, anh trai ruột
của mẹ Nguyễn Thiến. Bởi vì trạng nguyên Nguyễn
Đức Lượng làm quan đến chức Lễ bộ thị lang và
trong nội tộc của trạng nguyên Nguyễn Đức Lượng
không có ai giỏi võ nghệ làm tướng. Tức là, câu đối
trên khẳng định trạng nguyên Nguyễn Thiến - ông tổ

2. Trong đời sống văn hóa Việt Nam còn có sự lầm
lẫn về nơi sinh của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.
Nguyễn Du không sinh tại quê tổ nội là làng Tảo
Dương, xã Hồng Dương, huyện Thanh Oai, Hà Tây
cũ, nay là Hà Nội vì như trên đã nói, ông tổ 7 đời
trước của Nguyễn Du đã chạy trốn khỏi quê hương,
mai danh ẩn tích, sinh cơ lập nghiệp tại nơi hoang vu
vắng vẻ của quê người. Nguyễn Du cũng không sinh
tại nơi 6 đời kế trước của ông sinh trưởng là làng Tiên
Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Nhà thơ, niềm tự
hào của cả dân tộc ta cũng không sinh tại quê ngoại
(quê mẹ Trần Thị Tần của ông) là làng Hoa Thiều,
huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh. Nhiều nguồn tư
74

Journal of Science – 2016, Vol. 9 (1), 72 – 77

Part A: Social Sciences, Humanities and Education

liệu đã xác định đúng nơi sinh của Nguyễn Du là
phường Bích Câu, thành Thăng Long - Hà Nội vào
ngày 3/1/1765, tức ngày 23/11 năm Ất Dậu 1765.
Không ít tài liệu cho biết trước sau năm sinh Nguyễn
Du, thì hoàng giáp Nguyễn Nghiễm, thân phụ của
Nguyễn Du, làm quan ở kinh thành Thăng Long - Hà
Nội. Bà Trần Thị Tần sinh năm 1740, kém chồng là
hoàng giáp Nguyễn Nghiễm 32 tuổi. Bà là con một
viên quan nhỏ làm câu kê (kế toán) dưới trướng của
con rể Nguyễn Nghiễm - chồng bà Trần Thị Tần.
Những năm ấy, bà Trần Thị Tần đương nhiên thuộc
tầng lớp thượng lưu, cùng cha đẻ giữ một chức quan
nhỏ nói trên và chồng là hoàng giáp Nguyễn Nghiễm
văn võ toàn tài, được thăng đến chức Thượng thư Bộ
Công Tham tụng, sống và làm việc ở Thăng Long Hà Nội có tư dinh tại phường Bích Câu của kinh
thành. Bà Tần sinh Nguyễn Du tại tư dinh thuộc thủ
đô ngàn năm văn vật là lẽ đương nhiên. Tức là nơi
sinh của Nguyễn Du là tư dinh của hoàng giáp,
Thượng thư Nguyễn Nghiễm - thân phụ của ông - tại
phường Bích Câu, thành Thăng Long.

Đọc một số tài liệu về lịch sử và văn học, giới nghiên
cứu cũng như công chúng độc giả sẽ được những
thông tin khác nhận xét trong đoạn trích dẫn kế trên.
Nguyễn Du là con người có khí chất, tính cách mạnh
mẽ, tự khẳng định mình, chứ không phải là nhu
nhược, nhút nhát. Vì thế, Nguyễn Du tỏ ra là một chủ
thể yêu đời, muốn đạt mục đích, chứ đâu có chán
chường cuộc sống hiện thực cho dù nó bất như ý của
ông. Chính vì thế, tác giả quyển Đại Nam chính biên
liệt truyện viết: "Nguyễn Du là người ngạo nghễ, tự
phụ, song bề ngoài tỏ vẻ giữ gìn cung kính, mỗi lần
vào chầu vua thì ra dáng sợ sệt như không biết nói
năng gì". Nguyễn Du ngạo nghễ, tự phụ thì không thể
là người nhút nhát. Nguyễn Du khiêm nhường, cung
kính trước vua chứ đâu phải là nhút nhát. Ông thọ 55
tuổi, chưa phải là người cao tuổi, sống lâu, nhưng,
thời xưa cũng không vào hạng người chết yểu. Có lẽ
vì biết bệnh trọng không qua khỏi, nên ông không
uống thuốc. Vẫn theo sách trên, ông bảo người nhà sờ
tay chân ông, họ thưa đã lạnh cả rồi. Ông nói
"Được!", rồi mất. Câu nói ấy của ông, thiết nghĩ, thể
hiện tâm trạng buồn và không muốn người thân phiền
tâm nhiều, chứ không phải là thể hiện sự chán chường
không thiết tha với cuộc sống.

Đến đây, bạn đọc thấy Nhóm nghiên cứu văn bản
Truyện Kiều viết một câu không sáng rõ ý diễn đạt
dẫn đến sai lầm về nơi sinh của Nguyễn Du như sau:
Nguyễn Du "sinh năm Ất Dậu (1765), trong một gia
đình phong kiến quý tộc có truyền thống về văn học,
tại làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh".
Viết như thế là vô tình hoặc có ý thức muốn chuyển
tải thông tin không chính xác: Nguyễn Du sinh tại
làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.

Cha anh Nguyễn Du và bản thân nhà thơ lớn này của
dân tộc đã phụng sự nhà Lê, được nhà Lê ban phát
cho nhiều ân huệ, bổng lộc. Vì thế, khi triều đại này
đã đến thời tỏ ra không còn lý do tồn tại, bị phong
trào nông dân, cầm đầu là vị anh hùng Nguyễn Huệ,
đánh đổ, vua Lê Chiêu Thống phải chạy trốn sang
Trung Quốc, Nguyễn Du đã chạy theo vị quân vương
ấy, nhưng không thành, rồi về Thái Bình mưu chống
nhà Tây Sơn của Quang Trung Nguyễn Huệ. Hậu thế
có thể hiểu tâm trạng của Nguyễn Du và đồng cảm
với ông ít nhiều vì thực tế đã chứng minh nhà thơ
thiên tài của dân tộc ta tin theo, tôn thờ nhà Lê không
kiên quyết, không triệt để (có lẽ vì nhận ra triều đại ấy
đã đến lúc không còn đóng vai trò tích cực trong lịch
sử) và chống Tây Sơn cũng không bằng một hành
động cụ thể nào cả. Nhưng, chỉ nội việc chạy theo Lê
Chiêu Thống và mưu chống Quang Trung Nguyễn
Huệ như mô tả ở trên cũng chứng tỏ Nguyễn Du là
con người thông minh, có khí chất, tính cách mạnh
mẽ.

Vậy, câu trên về nơi sinh của đại thi hào dân tộc Việt
Nam, danh nhân văn hóa thế giới, tác giả Đoạn
trường tân thanh đang được khảo cứu tại đây là
không đúng, nên cần được sửa lại.
3. Trong giới nghiên cứu văn hóa Việt Nam nói
chung, văn học nước ta nói riêng, ở đâu đó đã có nhận
xét thiếu chính xác về khí chất, tính cách của đại thi
hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Du.
Một nhà nghiên cứu đã viết: "Trong cuộc đời thực
tế, Nguyễn Du sống lặng lẽ, ít nói năng, thậm chí
nhút nhát. Ông không tha thiết với cuộc sống của
mình. Khi ốm, ông không chịu uống thuốc, và khi
sắp chết không trối lại câu gì, chỉ nói: "Được!"".
75

Journal of Science – 2016, Vol. 9 (1), 72 – 77

Part A: Social Sciences, Humanities and Education

Nguyễn Du không chỉ là một tài thơ, một nhà hoạt
động chính trị. Ông còn là một con người hiện thực,
đời thường, không xa lạ với những gì thuộc về con
người trần tục, mang rõ dấu ấn của thời đại phong
kiến. Mối tình đầu của Nguyễn Du với cô lái đò xinh
đẹp, tưởng không có gì ngăn cản nổi một cuộc hôn
nhân giữa trai tài với gái sắc. Nhưng quan niệm phải
môn đăng hộ đối trong thời phong kiến, nên cô lái đò
ấy không thể thành vợ của Nguyễn Du, không thể làm
dâu của ông quan Tể tướng. Sau đó, Nguyễn Du đã
lấy 3 người vợ, sinh cả thảy 18 con (12 trai, 6 gái),
đồng thời, nhà thơ còn bộc lộ tình yêu với Hồ Xuân
Hương và 2 nữ tài tử làm nghề kéo sợi ở làng Trường
Lưu cách làng Tiên Điền không xa. Những mối tình
trên đây lại chứng minh thêm Nguyễn Du là người có
khí chất, tính cách mạnh mẽ, yêu đời, chứ không phải
là nhút nhát, chán chường, không thiết tha với cuộc
sống.

Từ Hải trong Truyện Kiều là nhân vật phụ, phản diện,
không những không là nhân vật anh hùng, mà còn đối
địch với nhân vật anh hùng. Từ Hải là kẻ hữu dũng:
"Đường đường một đấng anh hào / Côn quyền hơn
sức lược thao gồm tài"; sống ngang tàng, không sợ kẻ
thù, cũng chẳng hề biết phải phụng sự nhân dân lao
động và Tổ quốc: "Giang hồ quen thú vẫy vùng /...
Chọc trời quấy nước mặc dầu / Dọc ngang nào biết
trên đầu có ai?". Kẻ nào không biết đến nhân dân và
Tổ quốc thì không thể coi là anh hùng! Từ Hải có nhu
cầu đi tìm gái nơi lầu xanh và đã đến lầu xanh, Từ Hải
được biết thêm về Kiều: "Qua chơi nghe tiếng nàng
Kiều". Trước đó Từ Hải có nghe nói về Kiều nhưng
được thông tin không đầy đủ, không chính xác về
Kiều, nên mới nói và đặt câu hỏi với Kiều: "Bấy lâu
nghe tiếng má đào / Mắt xanh chẳng để ai vào có
không?". Trong khi thực tế không như Từ Hải lầm
tưởng. Bởi vì Kiều đã bất đắc dĩ phải đi theo Sở
Khanh và tự giác làm vợ lẽ Thúc Sinh. Rồi Từ Hải
nhờ người mai mối và dùng tiền lấy, thật ra là mua
được Kiều làm vợ: "Ngỏ lời nói với băng nhân / Tiền
trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn". Từ Hải lấy Kiều
lúc y chưa có nhà ở (như lời y tự thú với Kiều): "Bằng
nay bốn bể không nhà". Nhưng, y lo gấp được
giường, buồng nơi lầu xanh để ăn ngủ với Kiều:
"Buồng riêng sửa chốn thanh nhàn / Đặt giường thất
bảo vây màn bát tiên". Kiều làm vợ Từ Hải mới được
không lâu, thì Kiều đã mắc một sai lầm tày trời
khuyên Từ Hải đầu hàng, quy phục triều đình phong
kiến lúc nó đã trở nên thối nát với những ông quan
mặt sắt, ngây vì tình, phản trắc, v.v.. Từ Hải ham
thích "lộc trọng quyền cao" nên: "Nghe lời nàng
(Kiều - người trích) nói mặn mà / Thế công Từ mới
trở ra thế hàng". Tức là Từ Hải đã hàng phục triều
đình phong kiến - kẻ thù của nhân dân. Đến đây, Từ
Hải đã đóng vai kẻ thù đích thực của nhân dân. Y
không phải là người anh hùng như người viết câu
trích 16 trên đây. Y cũng không phải là người anh
hùng, nhân vật phi thường như nhiều nhà nghiên cứu
lầm tưởng. Người anh hùng bao giờ, ở đâu cũng
thương yêu, bảo vệ nhân dân và Tổ quốc, chứ không
thể như Từ Hải hành động ngang ngược và không hề
biết có nhân dân và Tổ quốc. Người anh hùng lúc
nào, ở đâu cũng đối địch với kẻ thù của nhân dân, chứ

4. "Qua Nguyễn Du và nàng Kiều, chúng ta tìm được
người thi sĩ trong vị anh hùng và ngược lại".
Luận điểm trên nói trực tiếp về Nguyễn Du - tác giả
Đoạn trường tân thanh, còn gọi là Truyện Kiều, và về
Thúy Kiều, nhân vật trung tâm, chính diện trong
Truyện Kiều. Người viết câu ấy đã gọi "vị anh hùng"
bằng đại từ khác nữa là "kẻ anh hùng". Vậy, mệnh đề
đã dẫn, theo đúng ý tưởng của tác giả của nó, có thể
viết cho cụ thể hơn như sau: Qua Nguyễn Du và nàng
Kiều, chúng ta tìm được người thi sĩ trong vị anh
hùng Từ Hải và qua vị anh hùng Từ Hải chúng ta tìm
được người thi sĩ.
Theo tôi, câu trên đây có những chi tiết không ổn, rất
khó được sự đồng tình của bạn đọc. Bởi vì "người thi
sĩ" trong câu ấy là Nguyễn Du, chứ không thể là ai
khác. Hóa ra, qua Nguyễn Du viết về Từ Hải và qua
nàng Kiều nói về Từ Hải, chúng ta tìm được Nguyễn
Du trong vị anh hùng Từ Hải. Nhà văn, người nghệ sĩ
bao giờ cũng thể hiện lý tưởng thẩm mỹ của mình
nhiều nhất, đầy đủ nhất qua nhân vật chính diện, trung
tâm trong tác phẩm. Nhân vật chính diện, trung tâm
của Nguyễn Du là Thúy Kiều. Vậy, chỉ có thể qua
nghiên cứu nhân vật Thúy Kiều chúng ta mới hiểu
được đầy đủ nhất, nhiều nhất về tư tưởng vĩ đại, tình
cảm cao đẹp của Nguyễn Du.
76

nguon tai.lieu . vn