Xem mẫu

Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 4 (2014) 44-53 Mạng lưới quan hệ xã hội với việc làm của sinh viên tốt nghiệp Phạm Huy Cường* Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, 336 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 09 tháng 10 năm 2014 Chỉnh sửa ngày 13 tháng 10 năm 2014; Chấp nhận đăng ngày 18 tháng 10 năm 2014 Tóm tắt: Bên cạnh các phương pháp tìm kiếm việc làm chính thức (qua các kênh quảng cáo, qua các đơn vị dịch vụ việc làm, ứng tuyển trực tiếp), người lao động còn sử dụng các mối quan hệ xã hội (người thân, bạn bè) như một kênh không chính thức hiệu quả. Nghiên cứu của các học giả trong nước và trên thế giới bên cạnh sự đồng thuận rằng sử dụng mạng lưới quan hệ xã hội như một phương pháp tìm kiếm việc làm phổ biến còn có những tranh luận xoay quanh các tác động cụ thể của cách thức tìm kiếm này đến từng khía cạnh của công việc. Phân tích kết quả khảo sát đối với 1073 sinh viên tốt nghiệp của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, được tiến hành vào năm 2013, nghiên cứu này mô tả cụ thể mối liên hệ giữa mạng lưới quan hệ xã hội đến khía cạnh kinh tế và phi kinh tế trong kết quả tìm kiếm việc làm của những sinh viên tốt nghiệp với tư cách là một nhóm đặc thù trong thị trường lao động. Từ khoá: Mạng lưới quan hệ xã hội, việc làm, vốn xã hội, sinh viên tốt nghiệp. 1. Giới thiệu∗ Kinh nghiệm và kỹ năng của các cá nhân được nhắc đến như là vốn con người (human capital) được xem là có ảnh hưởng quan trọng đến quá trình tham gia và khả năng phát triển của các cá nhân trong thị trường lao động. Sự xuất hiện của khái niệm vốn xã hội (social capital) [1] và các nghiên cứu về vốn xã hội trong thị trường lao động trong những năm gần đây đã xác nhận vai trò của một nguồn lực mới, “nhấn mạnh ảnh hưởng của yếu tố niềm tin, sự có đi có lại, và mối quan hệ giữa các cá nhân trong các nhóm xã hội, mạng lưới quan hệ xã _______ ∗ ĐT: 84-982036807 E-mail: cuongph@vnu.edu.vn 44 hội” [2]. Qua tổng quan kết quả nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước, bên cạnh sự thống nhất rằng tìm kiếm việc làm thông qua mạng lưới quan hệ xã hội là một kênh tìm kiếm hiệu quả, các học giả vẫn còn không ít những tranh luận xoay quanh những tác động cụ thể của phương pháp tìm kiếm này đến các đặc điểm của công việc. Bằng việc phân tích các kết quả cuộc khảo sát thông tin việc làm của sinh viên tốt nghiệp của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội được tiến hành vào năm 2013, tác giả muốn góp thêm những bằng chứng thực nghiệm về vai trò của các mạng lưới quan hệ xã hội đối với sự tham gia, phát triển của mỗi cá nhân trong thị trường lao động. Bên cạnh đó, bài viết cũng sẽ P.H. Cường / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 4 (2014) 44-53 45 đi sâu phân tích mối liên hệ giữa cấu trúc, quy mô các nguồn lực mà cá nhân có thể huy động Các tranh luận chủ yếu xoay quanh tác động của vốn xã hội đến các kết quả tìm kiếm việc được từ các mạng lưới quan hệ với các khía làm (job search outcomes). Trong khi cạnh của công việc cá nhân đó đạt được. 2. Mạng lưới quan hệ xã hội trong thị trường lao động Năm 1974, Granovetter công bố công trình “Tìm kiếm việc làm: Nghiên cứu về các mối quan hệ và sự nghiệp” (Getting a job: A Study of Contacts and Career), đây là một trong những công trình quan trọng đầu tiên lý giải cách thức các cá nhân tìm kiếm các công việc thông qua các mối quan hệ xã hội. Ý tưởng chủ đạo của Granovetter được tóm tắt thành ba luận điểm. Thứ nhất, ông cho rằng nhiều người tìm được công việc của mình thông qua các quan hệ xã hội chứ không chỉ thông qua các kênh chính thức. Thứ hai, ý nghĩa của các mạng lưới xã hội là cho phép những người tìm kiếm việc làm tập hợp được những thông tin tốt hơn về tính khả dụng của công ăn việc làm cũng như các đặc điểm của công việc. Thứ ba là giả thuyết rằng các liên kết yếu (weak ties) có thể mang lại những thông tin hữu ích hơn các liên kết mạnh (strong ties)[3]. Tiếp sau sự ra đời và công bố các luận điểm trong tác phẩm của Granovetter, đã có nhiều nghiên cứu phát triển cũng như phản biện các luận điểm của ông, từ đó góp phần nhận diện và lý giải ngày càng rõ những ảnh hưởng phong phú của mạng lưới quan hệ xã hội (social networks) trong thị trường lao động. [3]. Các kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra một thực tế rằng có nhiều cá nhân thậm trí không hề có một nỗ lực tìm kiếm nào, thông tin về công việc đến với họ bởi một người thân nào đó, và họ chỉ việc đón nhận nó mà thôi [4]. Granovetter khẳng định những ảnh hưởng tích cực của mạng lưới quan hệ đến khía cạnh thu nhập và sự phù hợp của công việc được tìm thấy thông qua các mối quan hệ, thì các kết quả nghiên cứu của Lin [5], Mouw [6] và Franzen cùng cộng sự [4] lại không xác nhận sự khác biệt về thu nhập nào giữa những người tìm kiếm được công việc của mình bằng các kênh chính thức và những người khác thành công nhờ vào các mối quan hệ. Thậm chí trong một số kết quả nghiên cứu của De Graaf và Flap, Flap và Boxmann còn chỉ ra những ảnh hưởng tiêu cực đối với thu nhập từ công việc có được thông qua các mối quan hệ xã hội [4]. Montgomery đưa ra một lý giải từ sự kết hợp giữa lý thuyết tìm kiếm việc làm ở góc độ kinh tế và giả thuyết về mạng lưới nhằm rút ngắn khoảng cách trong kết quả nghiên cứu giữa Granovetter với của Lin và Mouw [7]. Tuy nhiên cuộc tranh luận này chưa thể kết thúc. Các kết quả phân tích số liệu khảo sát của Franzen và Hangartner gợi mở rằng những công việc được tìm thấy nhờ vào sự trợ giúp của bạn bè, đồng nghiệp hay người thân có sự phù hợp cao hơn với chuyên môn được đào tạo. Các kết quả nghiên cứu của Marsden cũng lý giải rằng vốn xã hội có ích hơn cho người tìm kiếm việc làm hay người làm công đối với những công việc có tính chuyên môn và đòi hỏi kỹ năng và nhất là các công việc đòi hỏi sự đầu tư đào tạo của nhà tuyển dụng [8]. Rõ ràng mạng lưới quan hệ xã hội của mỗi cá nhân là hết sức phức tạp, có nhiều thành tố, với nhiều chiều cạnh, và các đặc điểm phong phú; ở từng thời điểm, trong các bối cảnh, với mỗi loại hình mối liên hệ khác nhau, sẽ có tác động khác nhau đến các đặc điểm của kết quả 46 P.H. Cường / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 4 (2014) 44-53 tìm kiếm việc làm. Chúng tôi nhận thấy rằng, bên cạnh sự phân loại giữa liên kết mạnh và liên kết yếu của Granovetter, nhiều học giả khác dường như chưa giành sự phân tích sâu hơn một cách cần thiết đối với cấu trúc của mạng lưới quan hệ xã hội, các dạng liên kết (kind of contacts) cũng như quy mô, đặc điểm các nguồn lực gắn với mạng lưới. Thực tế này dẫn tới các kết luận nghiên cứu khác biệt giữa họ trước một chủ đề nghiên cứu vốn đã rất phức tạp. Nghiên cứu về vốn xã hội nói chung và mạng lưới quan hệ xã hội nói riêng trong thị trường lao động ở Việt Nam mới bước đầu được quan tâm bởi một số nhà xã hội học. Trịnh Duy Luân trong các phân tích về nguồn nhân lực, lao động và việc làm ở Việt Nam đã nhắc đến sự thiếu hụt các nghiên cứu về vốn xã hội (trong đó mạng lưới quan hệ xã hội là một thành tố quan trọng cấu thành) trong thị trường lao động nước ta hiện nay [9]. Chủ đề này cũng từng được các học giả Nguyễn Tuấn Anh, Lê Ngọc Hùng, Nguyễn Quý Thanh… nhắc đến trong các nghiên cứu của mình khi đề cập tới vai trò của mạng lưới quan hệ xã hội đối với khả năng huy động nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế hộ gia đình, doanh nghiệp nhỏ [10-14]. Tuy nhiên, nhìn chung các học giả Việt Nam cho đến nay mới chỉ dừng lại đề cập tới mạng lưới quan hệ xã hội như một kênh hỗ trợ người lao động tìm kiếm việc làm và phát triển nghề nghiệp mà chưa đi sâu phân tích các tác động cụ thể của nó đến các khía cạnh của kết quả tìm kiếm việc làm. Trường hợp nghiên cứu được giới thiệu sau đây là một nỗ lực nhỏ nhằm bước đầu góp phần mở ra hướng nghiên cứu sâu hơn về mạng lưới quan hệ xã hội trong thị trường lao động Việt Nam. 3. Trường hợp việc làm của sinh viên tốt nghiệp Khách thể nghiên cứu của cuộc kháo sát thông tin việc làm chúng tôi tiến hành vào năm 2013 là những sinh viên tốt nghiệp, những người mới tham gia vào thị trường lao động trong vòng 1 đến 2 năm sau khi rời trường đại học.Tất cả những người được khảo sát đều đang ở thời điểm mới bắt đầu tham gia vào thị trường lao động, hầu hết mới có công việc đầu tiên của mình. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi trong việc đánh giá tác động của mạng lưới quan hệ xã hội đối với kết quả tìm kiếm công việc. Số phiếu khảo sát thu được là 1073. Các phiếu khảo sát được tiến hành nhập liệu và sử lý bằng phần mềm thống kê SPSS. Bên cạnh các bảng phân tích số liệu dạng tần suất và tỉ lệ, nhằm đánh giá mối liên hệ giữa cá biến số định danh và thứ bậc (được sử dụng chủ yếu trong bộ công cụ khảo sát), chúng tôi sử dụng kiểm định Chi - bình phương (X2) và các tính toán đại lượng thống kê Cramer’ V và Gamma(1). 4. Những phát hiện và thảo luận Các kết quả nghiên cứu không cho thấy mối liên hệ nào giữa các biến số địa bàn cư trú, tình trạng hôn nhân, trình độ học vấn của cha mẹ, và nghề nghiệp của cha mẹ với các kết quả tìm kiếm việc làm của sinh viên tốt nghiệp như những phát hiện trong nghiên cứu của Try [16] hay Franzen và Hangartner [4]. Tuy nhiên, các mạng lưới quan hệ xã hội và quy mô các nguồn lực cá nhân có thể huy động từ đó có mối liên hệ rõ rệt đến quá trình tìm kiếm việc làm _______ (1) Kiểm định Chi – bình phương (X2) cho biết có hay không mối liên hệ giữa hai biến định danh – định danh, định danh – thứ bậc và độ tin cậy của kiểm định. Các đại lượng thống kê Crammar’V và Gamma cho biết độ mạnh hay yếu và xu hướng của các mối liên hệ giữa các biến số đó. P.H. Cường / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 4 (2014) 44-53 47 (phương pháp tìm kiếm, thời gian tìm kiếm) và xã hội chiếm ưu thế rõ rệt, 55,4%; 5,3% sinh các đặc điểm công việc (môi trường làm việc, viên tốt nghiệp nhận được lời mời chủ động từ thu nhập, sự phù hợp chuyên môn với công việc) của các ứng viên tham gia khảo sát. Khác Tự ứng tuyển Đơn vị môi giới việc làm Các kênh truyền thông đại chúng Từ thầy cô giáo, trường đại học Từ bạn bè, đồng nghiệp phía đơn vị tuyển dụng; 2,3% sử dụng các phương pháp tìm kiếm khác. Các kết quả thực nghiệm này tiếp tục khẳng định giả thuyết đầu tiên đã được đưa ra bởi Granovetter: “Mặc cho sự hiện đại hóa, công nghệ, và tốc độ chóng mặt của biến đổi xã hội, một điều không thay đổi trong thế giới rằng nơi và cách chúng ta trải qua thời gian làm việc, thành tố lớn nhất trong đời sống của hầu hết những người trưởng thành, Từ người thân trong gia đình, họ hàng 0 10 20 30 40 phụ thuộc rất nhiều vào cách chúng ta được nhúng vào các mạng lưới quan hệ xã hội – người thân, bạn bè, và đồng nghiệp, điều không Biểu đồ 1: Nguồn thông tin việc làm. Biểu đồ “Nguồn thông tin việc làm” là kết quả thu được từ câu hỏi “Anh/ Chị biết đến công việc hiện tại (hoặc công việc gần đây nhất nếu hiện tại đang nghỉ việc) qua kênh thông tin nào?”. Theo đó, 63,4% các thông tin việc làm hữu ích đến với các ứng viên thông qua các mối quan hệ xã hội, cụ thể: 30,0% từ các mối quan hệ trong gia đình - họ hàng, 33,4% từ các mối quan hệ bạn bè - đồng nghiệp. So với 35,4% thông tin từ các kênh chính thức (truyền thông đại chúng và đơn vị môi giới việc làm) thì rõ ràng các luồng thông tin về việc làm đã được tạo điều kiện thuận lợi hơn để đến với người lao động thông qua các mối quan hệ xã hội. Ngoài chức năng thông tin, các mối quan hệ xã hội còn là nguồn hỗ trợ (hỗ trợ về tài chính, sự bảo đảm bằng uy tín, …) các cá nhân trong quá trình tìm kiếm công việc. Các số liệu thống kê phản ánh năm cách thức khác nhau sinh viên tốt nghiệp sử dụng để tìm kiếm (Bảng 1). Trong đó, 37,0% cá nhân sử dụng các phương pháp tìm kiếm chính thức (ứng tuyển trực tiếp và qua đơn vị môi giới), tỉ lệ tận dụng các mối quan hệ bao giờ mất đi bởi những đề nghị không ngừng gắn con người với công việc” [3]. Bảng 1. Các phương pháp tìm kiếm việc làm Các phương pháp tìm kiếm việc làm Tỉ lệ (%) Thông qua mạng lưới quan hệ xã hội 55,4 Qua đơn vị môi giới việc làm 1,2 Ứng tuyển trực tiếp 35,8 Đơn vị sử dụng lao động chủ động 5,3 liên hệ Khác 2,3 Chúng tôi tiến hành thống kê tương quan giữa các phương pháp tìm kiếm việc làm và thời điểm có việc làm của sinh viên tính từ khi tốt nghiệp đến thời đểm khảo sát được thực hiện. Các mốc thời gian được chia ra để ứng viên lựa chọn: 0-<1 – Có việc làm trong vòng dưới 1 tháng (<30 ngày) từ thời điểm tốt nghiệp; 1-6: Từ 1 tháng đến 6 tháng; và >6: trên 6 tháng. Kết quả cho thấy ưu thế có phần nghiêng chút ít về phía những sinh viên “ứng tuyển trực tiếp” khi 48,5% tìm được việc làm trong vòng 30 ngày sau khi tốt nghiệp so với 42,4% dựa vào “các quan hệ xã hội”. 48 P.H. Cường / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 30, Số 4 (2014) 44-53 Phân tích sâu hơn từng kiểu kết nối trong mạng lưới quan hệ xã hội đã được sử dụng cho thấy những khác biệt rõ rệt trong ảnh hưởng của mỗi loại quan hệ xã hội. Các mối quan hệ với thầy cô, trường học và bạn bè đồng nghiệp có ảnh hưởng tích cực giúp sinh viên tốt nghiệp sớm có được việc làm. Trong khi đó, tìm kiếm việc làm thông qua các mối quan hệ trong gia đình hay họ hàng khiến chi phí thời gian của sinh viên tăng lên (Bảng 02). Kết quả kiểm định tương quan xác nhận mối quan hệ giữa các biến số với độ tin cậy trên 95,0%. Bảng 2. Tương quan phương pháp tìm kiếm và thời điểm có việc làm Thời điểm tìm được việc làm của sinh viên tốt nghiệp (tháng sau khi tốt nghiệp) 0-<1 1- 6 >6 Cramers’V (Sig) Thông qua gia đình, họ hàng Thông qua bạn bè, đồng nghiệp Thông qua thầy cô, trường học Ứng tuyển trực tiếp Thông qua đơn vị môi giới Biến gộp2-Các quan hệ xã hội Có 32,3% 56,4% 11,3% Không 44,8% 45,6% 9,65 Có 48,0% 41,8% 10,2% Không 37,5% 52,4% 10,1% Có 52,0% 42,7% 5,3% Không 40,1% 49,4% 10,5% Có 48,5% 40,9% 10,6% Không 40,5% 49,4% 10,1% Có 37,5% 50,0% 12,5% Không 41,0% 48,9% 10,1% Có 42,4% 47,7% 9,9% Không 38,4% 51,0% 10,6% 0,116** (0,001) 0,105** ( 0,005) 0,071* (0,087) 0,044 ( 0,387) 0,009 ( 0,965) 0,039 (0,480) Crammar’s V: Đại lượng thống kê cho biết độ mạnh của mối liên hệ giữa hai biến định danh - định danh hoặc định danh – thứ bậc, có độ lớn từ 0 đến 1. Sig: Mức ý nghĩa quan sát (Observed Significance level, viết tắt là Sig) phản ánh độ tin cậy của kiểm định mối liên hệ giữa hai biến số định danh – định danh hoặc định danh – thức bậc. * Sig<0.1: Độ tin cậy trên 90%; ** Sig<0.05: Độ tin cậy trên 95%; *** Sig<0.01: Độ tin cậy trên 99% [16] Các kết quả khảo sát trên rõ ràng khác với những phát hiện của Franzen2và cộng sự trong các phân tích về kết quả khảo sát việc làm của sinh viên tốt nghiệp Thụy Điển [4]. Những khác _______ 2)2Biến số “các quan hệ xã hội” là kết quả gộp biến trên phần mềm SPSS từ hai biến số “quan hệ gia đình – họ hàng” và “quan hệ bạn bè - đồng nghiệp”. Tuy nhiên, nó không phải trung bình cộng của hai biến số độc lập được trình bày trong Bảng 02, bởi lẽ nhiều trường hợp đồng thời sử dụng cả hai mối quan hệ (gia đình – họ hàng và bạn bè – đồng nghiệp) để đạt được một công việc. biệt đó có thể xuất phát từ hai quy mô nghiên cứu khác nhau (nghiên cứu tại Thụy Điển được tiến hành với 8000 đơn vị mẫu), hay khách thể nghiên cứu thuộc các nền kinh tế - văn hóa khác nhau. Có một thực tế là sự thành đạt nghề nghiệp của một cá nhân có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với gia đình và dòng họ của anh ta trong hệ giá trị của người Việt, sự thành đạt nghề nghiệp của một con người không dừng lại ở một mục đích cá nhân mà là sự mong đợi của ... - tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn