Xem mẫu

  1. PGS.TS Nguyễn Quý Thanh: Lý thuyết trung bình trong xã hội học 11/03/2010 Để tiếp tục đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi: Làm sao lựa chọn và sử dụng lý thuyết hi ệu quả trong vai trò hướng đ ẫn và chỉ đ ạo nghiên cứu? Kỳ này chúng tôi tiếp tục giới thiệu tới quý vị và bạn đọc một bài viết giới thiệu và phân tích về "Lý thuyết trung bình trong xã hội học". Lý thuyết trung bình chính là con đường đi giữa lý thuyết lớn (grand theory) và các nghiên c ứu th ực nghi ệm (experimental studies), hay là sợi dây gắn kết cái chung, cái trừu tượng với cái cụ thể. Với kinh nghi ệm nghiên cứu và gi ảng dạy của mình, PGS. TS Nguyễn Quý Thanh đã trình bày tổng quan ngắn gọn và rõ ràng v ề nguồn g ốc thu ật ngữ, n ội dung và ý nghĩa của lý thuyết trung bình, đặc biệt về lý thuyết trung bình trong nghiên cứu xã hội học ở Vi ệt Nam hi ện nay. Phần k ết luận c ủa tác giả gợi mở đường hướng nghiên cứu ứng dụng lý thuyết trung bình. Kính mời quý vị và các bạn tham khảo. LÝ THUYẾT TRUNG BÌNH TRONG XÃ HỘI HỌC (Version 1.0 của bài nay đã đăng trên Bản tin Xã hội h ọc và Tâm Lý lãnh đ ạo qu ản lý, quy ển 2, số 2, 2007, HVCT-HCQG HCM) Bối cảnh của xã hội học nửa đầu thế kỷ XX Kể từ khi ra đời xã hội học đã trải qua những bước thăng tr ầm trong s ự phát tri ển c ủa l ưỡng đ ề lý thuyết-thực nghiệm. Có những lúc xã hội học thiên về các nghiên cứu th ực nghiệm. Ng ược l ại, có lúc lại thiên về nghiên cứu lý thuyết trìu t ượng. N ếu nhìn t ừ góc đ ộ đ ội ngũ các nhà xã h ội học thì có thể thấy dường như là các nhà xã hội h ọc th ế h ệ sau khác v ới nh ững ng ười sáng l ập ra xã hội học (như Auguste Comte, Karl Marx, Hebert Spencer, Emile Durkheim, Max Weber) ở một điểm là họ ngày càng chú ý nhiều hơn đến những nghiên c ứu thực nghi ệm h ơn là các nghiên cứu lý thuyết. Như chúng ta đã bi ết, nh ững nguyên t ắc c ủa ch ủ nghĩa th ực ch ứng (positivism) đã giúp cho xã hội học tách ra kh ỏi đ ược cái bóng c ủa tri ết h ọc t ư bi ện. Nh ững nguyên tắc này đòi hỏi người làm xã hội học phải nghiên c ứu v ề xã h ội b ằng nh ững ph ương pháp khoa học (của khoa học tự nhiên), chỉ nghiên cứu nh ững gì quan sát đ ược, thao tác hoá và đo lường tất cả những gì vốn được coi là không thể đo đ ược. Nh ững nguyên t ắc này đã là n ền tảng của những phương pháp thực nghiệm về sau này của nghiên c ứu xã h ội h ọc. Tuy nhiên, bản thân người đề ra những nguyên tắc này là Auguste Come cũng không ph ải là ng ười ch ỉ bi ết đến có thực nghiệm. Về cơ bản có có thể coi A. Comte là một nhà lý luận hơn là m ột nhà nghiên cứu thực nghiệm. Chính vì vậy, có thể nói đầu thế kỷ XX là thời kỳ bùng nổ về m ặt ph ương pháp và các nghiên cứu xã hội học thực nghiệm. Có thể nói rằng, khuynh h ướng xã h ội h ọc lý lu ận trong xã h ội h ọc khởi nguồn từ châu Âu, nhưng khi xã hội học chuyển sang Hoa Kỳ thì mô hình th ực nghi ệm v ới những suy tính mang tính thực dụng (pragmatism) đã thắng thế. Đ ấy là m ột th ời kỳ mà cái gì cũng có thể được điều tra khảo sát. Hàng loạt những công cụ, ph ương pháp đ ồ đ ạc m ới đ ược hình thành vào thời kỳ này. Trong giai đoạn "trăm hoa đua nở" r ất nhi ều s ố li ệu đi ều tra v ề những vấn đề đơn lẻ của đời sống xã hội đã được thu th ập. Nh ưng đó là nh ững s ố li ệu r ời r ạc, thiếu sự gắn kết bởi vì chúng không được thực hiện trên những nền t ảng lý thuy ết c ần thi ết cũng như chúng không nhằm đến việc xây dựng hay chứng minh cho lý thuyết cũng nh ư không có những phát hiện lý thuyết nào được rút ra t ừ đó. Chính vì vậy, bắt đầu từ những năm 30-40 của thế kỷ XX đã xuất hi ện nh ững s ự nghi ng ờ đ ầu tiên đối với tính hiệu quả của chủ nghĩa kinh nghi ệm trong vi ệc đ ại di ện cho toàn b ộ xã h ội h ọc. Các nhà xã hội học thực sự băn khoăn rằng li ệu đó có ph ải là xã h ội h ọc hay không, hay ít nh ất họ cũng băn khoăn là liệu những nghiên cứu th ực nghiệm có ph ải là toàn b ộ xã h ội h ọc hay không. Ở mặt khác phương pháp nghiên cứu mang tính lý thuyết hoá v ới đ ặc thù c ủa tri ết h ọc
  2. xã hội cũng bị hoài nghi, bởi vì "cái gì gi ải thích đ ược t ất c ả thì không gi ải thích đ ược gì c ụ th ể cả". Kết quả là vị thế của các "lý thuyết lớn" (grand theory) bị suy gi ảm. Nh ư v ậy, d ường nh ư có một sự "khủng hoảng" trong xã hội học khi mà cả "lý thuyết l ớn" cũng nh ư trào l ưu "th ực nghi ệm chủ nghĩa" đều bị phê phán. Trong bối cảnh đó, khái ni ệm v ề "lý thuyết trung bình" (Theory of middle range) của Robert Merton đã ra đời. Nguồn gốc của thuật ngữ Việc hướng tới thực tế nghiên cứu cụ thể rất quan trọng đ ối v ới s ự phân tích c ấu trúc, s ự mong muốn đưa ra cho chúng một cơ sở lý thuyết, gắn hai mặt của khoa h ọc là lý thuyết và th ực t ế v ới nhau. Chính xã hội học thực nghiệm lúc đầu đầu tách rời hai m ặt này ra. Ng ười đ ầu tiên đ ưa ra thuật ngữ "lý thuyết trung bình" đó là nhà xã h ội học ng ười Mỹ Robert Merton (1910 – 2003) trong chương 2 cuốn chuyên khảo nổi tiếng "Lý thuyết xã h ội và C ấu trúc xã h ội". Cũng có ý kiến cho rằng lý thuyết trung bình đã có, thí d ụ, khi Durkheim đ ưa ra các m ệnh đ ề đ ể gi ải thích hiện tượng tự tử. Tuy nhiên, chính Merton mới là người ch ủ trương xây d ưng các lý thuy ết này . R. Merton cho rằng cần thiết phải t ạo ra các lý thuyết trung bình, b ởi vì xã h ội h ọc còn non tr ẻ , chưa thể đủ sức giải quyết ngay những vấn đề mang tính t ổng thể c ủa c ơ thể xã h ội. H ơn th ế, các lý thuyết trung bình thường gần sát với các điều tra c ụ thể và có th ể làm c ơ s ở cho chúng và đồng thời kiểm tra, chỉnh lý lại những lý thuyết đối với chúng. Merton vi ết "thu ật ng ữ lý thuy ết xã hội học chính là các luận điểm được gắn với nhau m ột cách lô gíc, nh ững lý thuy ết này th ường có phạm vi giới hạn và nhỏ chú không mang tính rộng l ớn và bao trùm. Tôi th ử t ập trung s ự chú ý đến điều mà có thể gọi là "lý thuyết trung bình". Các lý thuy ết trung bình n ằm gi ữa nh ững gi ả thuyết không lớn vốn có nhiều trong các nghiên cứu hàng ngày và nh ững lý thuy ết toàn v ẹn có đầy đủ sơ đồ lý luận, từ đó nảy sinh ra nhiều những quy luật của hành vi xã h ội có th ể phát hi ện được bằng thực nghiệm" . Lý do khiến R. Merton phải hướng đến việc đưa ra một khái niệm m ới đó là s ự t ồn t ại c ủa các khuynh hướng cực đoan trong xã hội học. Merton phản đ ối mạnh m ẽ các khuynh h ướng này. Một mặt, ông phản đối trào lưu "thực nghiệm chủ nghĩa" (empiricism) thu ần tuý khi nó quá nh ấn mạnh việc thu thập số liệu mà không hề quan tâm tới lý thuyết. Đồng thời, ông cũng không đ ồng tình với khuynh hướng thứ hai chỉ biết đến lý thuyết trìu t ượng mà b ỏ qua nh ững nghiên c ứu thực nghiệm để chứng minh cho chính các lý thuyết này. V ề mặt hình th ức, xu h ướng xây d ựng lý thuyết lớn trong xã hội học có vẻ giống như trong V ật lý học khi ng ười các nhà khoa h ọc c ố tìm tòi, xây dựng một lý thuyết nhằm thống nhất tất cả các loại l ực đã đ ược bi ết đ ến. Trong xã hội học, khuynh hướng này nhằm xây dựng một "lý thuyết lớn" - m ột hệ th ống lý thuy ết t ổng th ể bao trùm tất cả các mặt khác nhau của đời s ống xã hội nh ư trường phái ch ức năng lu ận c ấu trúc. Chính vì vậy, R. Merton cho rằng cần phải có những lý thuyết nằm trung bình gi ữa lý thuy ết l ớn và các nghiên cứu thực nghiệm. Các lý thuyết này khởi đ ầu cho vi ệc xây lý thuy ết c ủa chúng v ề các khía cạnh của những hiện tượng xã hội. Các khía cạch này đ ược phân đ ịnh ranh gi ới rõ ràng. Các lý thuyết này không tập trung vào thực th ể trìu t ượng nh ư là xã h ội hay h ệ th ống xã hội. Tuy nhiên, vấn đề nảy sinh là làm thế nào đ ể loại b ỏ s ự khoảng cách c ủa th ực nghi ệm và lý luận mà không cần đến phương pháp luận triết học. Merton đã tìm ki ếm nh ững c ơ s ở lý lu ận- thực tiễn cho vấn đề này ở một điểm là trong các nghiên cứu thực nghiệm c ủa xã h ội học có th ể có những phát hiện bất ngờ (serendipity) về đối tượng nghiên c ứu. Nh ư v ậy, nh ững nghiên c ứu thực nghiệm này không chỉ thực hiện vai trò kiểm tra các khái ni ệm đã thao tác hoá, kh ẳng đ ịnh hay bác bỏ giải thuyết mà chúng còn đóng vai trò nh ư là nh ững cú hích cho nh ững tìm ki ếm các lý thuyêt mới, xem xét lại khái niệm và sang rõ nh ững cơ s ở c ủa xã hội h ọc . Có th ể nói vi ệc đ ề ra khái niệm về "lý thuyết trung bình" dường như cũng là một cách "đ ối thoại" c ủa Merton đ ối v ới Parsons. Dù cả Merton và Parsons đều gắn bó với lý thuyết ch ức năng c ấu trúc ở khía c ạnh này hay khía cạnh khác, song giữa hai người có những khác bi ệt quan tr ọng. Đó là trong khi Parsons ủng hộ nhiệt thành cho việc xây dựng các lý thuyết l ớn thì Merton l ại cho r ằng c ần chú ý đ ến các lý thuyết ở cấp độ trung bình .
  3. Nội dung và ý nghĩa của các lý thuyết trung bình Các lý thuyết trung bình có vẻ như giải quyết được nh ững phê phán đ ối v ới trào l ưu "th ực nghiệm" cũng như trào lưu "trìu tượng hoá". Nó như vậy không có nghĩa là các lý thuy ết trung bình không có sự trìu tượng hoá. Thậm chí nó cũng có nhi ều s ự "trìu t ượng" trong đó. Nh ưng điều khác biệt cơ bản giữa "lý thuyết trung bình" và "lý thuyết lớn" ở ch ỗ nh ững s ự trìu t ượng này được củng cố bằng những kết quả nghiên cứu thực tế. Đồng th ời các lý thuy ết trung bình c ần được xây dựng đối với các hiện tượng mà có thể quan sát đ ược (observable), t ức là có th ể nghiên cứu, đo đạc đuợc bằng những chỉ báo khách quan. Chúng đ ược xây d ựng đ ể c ấu trúc những vấn đề lý thuyết cũng như được lồng ghép trong những giả định cần ch ứng minh . Có thể nêu ra những lý thuyết trung bình khác nhau nh ư các lý thuyết về các nhóm qui chi ếu, v ề di động xã hội, về sự hình thành các chuẩn m ực xã h ội, lý thuy ết vai trò, lý thuy ết v ề văn hoá phụ v.v. Mục tiêu của Merton khi đặt ra khái ni ệm lý thuyết trung bình có th ể khái quát b ằng chính tuyên bố của ông như sau "Nhiệm vụ chính của chúng ta ngày này đó là phát tri ển nh ững lý thuyết chuyên biệt (special) áp dụng vào những tầm mức khái ni ệm gi ới hạn – các ý thuy ết, thí dụ về hành vi lệch chuẩn, về những hậu quả không hoạch định trước c ủa nh ững hành đ ộng có chủ định, về sự cảm nhận xã hội, về các nhóm qui chiếu, về sự ki ểm soạt xã h ội, về s ự l ệ thuộc lẫn nhau của các thiết chế xã hội – hơn là đi tìm kiếm c ấu trúc khái ni ệm t ổng th ể mà là đ ủ đ ể rút ra các lý các lý thuyết này và những lý thuyết trung bình khác" và ông cũng cho r ằng "Lý thuyết xã hội học .... cần phải được xuất phát từ hai mặt gắn v ới nhau: (i) b ằng s ự phát tri ển các lý thuyết chuyên biệt (special theories) mà các gi ả thuyết rút ra t ừ đó có th ể ki ểm ch ứng đ ược bằng nghiên cứu thực nghiệm (empirically); (ii) bằng việc đưa vào một sơ đồ luận đi ểm khái quát tăng đàn từng nấc mà đủ để hợp nhất các nhóm các của lý thuyết chuyên bi ệt" Merton kỳ vọng rằng các lý thuyết trung bình sẽ là cầu nối gi ữa lý thuy ết và các b ằng ch ứng thực nghiệm. Như vậy, theo Merton lý thuyết ở cấp độ trung bình b ắt đ ầu vi ệc xây d ựng lý thuyết của mình với những khía cạch của các hiên t ương xã h ội xác định v ới ranh gi ới rõ ràng hơn là toàn bộ hệ thống xã hội. Các thuyết trung bình này d ường nh ư liên k ết các nhà lý lu ận xã hội học, những người coi các lý thuyết của họ là có giá trị và không th ể bác b ỏ, v ới các nhà th ực hành, những người có những dữ liệu điều tra về các hi ện tượng xã h ội nh ưng h ọ không th ể gi ải thích và liên kết được chúng được. Khi giới thiệu lý thuyết trung bình v ới gi ới xã h ội h ọc Merton ngụ ý rằng chúng ta không nên cố gắng giải thích toàn b ộ th ế gi ới, mà c ần ph ải t ập trung vào những phần nào đó của hiện thực mà có thể đo đ ược. Th ực ra, Merton cũng nh ận ra m ột xu hướng là khi các lý thuyết trung bình tích luỹ đ ến m ột giai đoạn nào đó cũng nh ư khi chính đ ủ trưởng thành tới một độ nhất định chúnglại có xu hướng hội t ụ lại thành nh ững qui lu ật chung nhất, mang tính phố quát. Nhưng, cho t ới khi đạt đ ược đi ều đó thì các nhà khoa h ọc xã h ội nên tập trung vào việc xây dựng lý thuyết trung bình. Đối với Merton, lý thuyết trung bình là một t ập hợp các k ỹ thuật đ ể phân tích hi ện th ực và cho phép tạo ra những phân tích về lý thuyết liên quan đ ến hi ện thực này đ ể trao đ ổi v ới nh ững người khác dù họ là những người hoạch định chính sách hay những nhà khoa h ọc thuộc lĩnh v ực khác. Lý thuyết trung bình trong nghiên cứu xã hội học ở việt nam Khó có thể đưa ra một câu trả lời rõ ràng và xác định rằng xã h ội h ọc ở Vi ệt Nam đang ti ếp c ận theo hướng nào: nhấn mạnh đến sự trìu tượng hoá, những vấn đề mang tính ch ất t ổng th ể c ủa hệ thống xã hội (của lý thuyết lớn) hay chỉ đơn giản là nh ững v ấn đ ề th ực nghi ệm thu ần tuý? Công bằng mà nói, cho dù giới xã hội học ở Việt Nam chưa xây dựng được một lý thuyết l ớn c ủa mình. Nhưng, xã hội học ở Việt Nam cũng "thừa hưởng" một lý thuyết l ớn c ủa n ền xã h ội h ọc trên thế giới. Đó chính là "Chủ nghĩa duy vật l ịch s ử". Trong h ầu h ết các công trình nghiên c ứu xã hội học, đặc biệt trong các luận án thạc sĩ và ti ến s ỹ xã hội h ọc ở Vi ệt Nam các tác gi ả đ ều
  4. coi "chủ nghĩa duy vật lịch sử" là nền t ảng lý thuyết là ph ương pháp lu ận c ủa h ọ. T ức là các nghiên cứu này đều cố gắng dựa vào lý thuyết l ớn. Tuy nhiên, khi tri ển khai các lý thuy ểt ph ục vụ cho các phần nghiên cứu thực nghiệm thì nhiều tác gi ả d ường nh ư "quên m ất" các lý thuy ết lớn. Khi đó, họ chỉ tập trung vào việc phân tích các d ữ li ệu điều tra th ực t ế mà h ọ thu th ập đ ược. Điều này dẫn đến một hệ quả giống như nhiều nhà xã hội học ở Việt Nam đã nh ận xét "c ơ s ở phương pháp luận của nghiên cứu không hề được sử dụng trong vi ệc lý gi ải, phân tích, k ết n ối các số liệu thực nghiệm". Như vậy, về cơ bản các khoá luận. luận văn, luận án cũng nh ư nhi ều nghiên cứu xã hội học chỉ thuần tuý là những nghiên cứu thực nghi ệm và nh ững lý thuy ết l ớn được liệt kê ra trong đó dường như chỉ là "một sự trang trí". Có thể nói, hiện trạng về xã hội học ở Việt Nam phần nào gi ống so v ới hi ện tr ạng phát tri ển xã hội học ở Mỹ vào đầu thế kỷ XX. Hiện trạng này cũng đ ược nhiều nhà xã h ội h ọc ở Vi ệt Nam khái quát thành "hội chứng điều tra", "hội chứng an két, b ảng hỏi", "phi đi ều tra b ất thành xã h ội học". Nhiều nhà xã hội học ở Việt Nam đã mạnh m ẽ ph ản đối xu h ướng "làm xã h ội h ọc là ph ải điều tra, khảo sát". Những ý kiến phê phán này đ ược h ướng đ ến xu h ướng quá t ập trung vào việc thu thập những dữ liệu rời rạc, về những sự kiện, chiều cạnh riêng rẽ mà không thể g ắn k ết với nhau. Trong xu hướng đó hàng loạt những nghiên cứu theo d ạng "th ực tr ạng, xu h ướng và giải pháp" cùng với những báo cáo dày đặc s ố liệu đã đ ược thực hi ện. Tuy nhiên, r ất khó có th ể nói là từ những nghiên cứu dạng này, những phát hiện nào đó về lý thuyết đ ược rút ra. Nói như vậy không có nghĩa là không có những cố gắng để ti ến hành các nghiên c ứu lý thuy ết ở cấp độ trung bình. Thế nhưng, những cố gắng này khá đơn lẻ và ch ưa đ ủ s ức m ạnh đ ể t ạo thành khuynh hướng rõ nét. Nói cách khác, các lý thuyết trung bình cũng ch ưa đ ược th ực s ự chú trọng trong các nghiên cứu xã hội học ở Việt Nam. Chúng ta có khá nhi ều nghiên c ứu th ực nghiệm ở những khía cạnh nào đó trong đời s ống xã hội, nh ưng nếu đ ược h ỏi, lu ận đi ểm lý thuyết nào được rút ra từ đó, khó có thể đưa ra câu trả l ời rõ ràng. Kết luận "Nhỏ là đẹp" có là là câu nói phù hợp với lý thuyết trung bình. Xã h ội h ọc ở Vi ệt Nam m ới hình thành những nỗ lực của các nhà nghiên cứu xã hội h ọc th ực nghi ệm k ết h ợp v ới nghiên c ứu lý thuyết có thể tìm thấy một lối thoát cho những bế t ắc khi đặt cho mình nh ững m ục tiêu quá l ớn lao, xa vời. Các lý thuyết trung bình có thể là m ột gi ải pháp t ốt cho vi ệc k ết n ối các kho d ữ li ệu thực nghiệm rất phong phú những rời rạc hiện nay trong nghiên cứu xã h ội h ọc ở Vi ệt Nam. Các trích dẫn Tiến sĩ xã hội học, Đại học Quốc gia Hà nội, Thực ra cách dịch đúng cho thuật ngữ "empirical research" ph ải là "nghiên c ứu kinh nghi ệm" ch ứ không phải là "nghiên cứu thực nghiệm" vốn được dịch t ừ thuật ng ữ "experimental research". Tuy nhiên, trong bài này tác giả cũng sử dụng thuật ng ữ "th ực nghi ệm" v ới nghĩa là "kinh nghiệm" như cách dùng phổ biến trong giới xã hội học ở Việt Nam hi ện nay. Thuật ngũ "thực dụng" ở đây không dùng theo nghĩa nh ư m ột đánhgiá mang tính ch ất giá tr ị, mà chỉ là một khuynh hương trong khoa học xã hội học nhấn m ạnh đ ến hi ệu quả th ực t ế c ủa các phát hiện Capitonov E. A., Xã hội học thế kỷ XX: Lịch sử và Công nghệ (Nguy ễn Quý Thanh biên d ịch), trang 13. Theo từ điển trực tuyến Wikipedia thì "Lý thuyết lớn" là thuật ng ữ nh ằm để ch ỉ m ức đ ộ trìu t ượng
  5. cao nhất của lý thuyết xã hội học. Lý thuyết của Karl Marx về Ch ủ nghĩa duy v ật l ịch s ử và lý thuyết của T. Parsons về Các hệ thống hành động là nh ững thí d ụ đi ển hình c ủa các lý thuy ết lớn trong xã hội học. Lê Ngọc Hùng, Lịch sử & Lý thuyết xã hội học, NXB ĐHQG Hà Nội, 2002, trang 212. Đây là nhận định của Merton về độ tuổi của xã hội học vào gi ữa thế kỷ XX. Merton R. K., Social theory and Social Structure, Revised and enlarged, Glencoe 1957, p.5 Capitonov E. A., Xã hội học thế kỷ XX: Lịch sử và Công nghệ (Nguy ễn Quý Thanh biên d ịch), trang 191. Ritzer, A., Các lý thuyết Xã hội học, t ập 1, Vũ Quang Hà dịch, NXB ĐHQG Hà N ội, 2001, trang 164. Merton R. K., Social theory and Social Structure, Revised and enlarged, Glencoe 1957., p39 Ibid., p51. Ibid, p.51 PGS.TS NGUYỄN QUÝ THANH Chủ nhiệm Bộ môn Lý thuyết và Phương pháp Khoa Xã hội học, Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQG Hà Nội
nguon tai.lieu . vn