- Trang Chủ
- Ngư nghiệp
- Lưu ý khi nuôi cá kèo Cá kèo tuy không phải là đối tượng dễ nuôi, ít bệnh,
Xem mẫu
- Lưu ý khi nuôi cá kèo
Cá kèo tuy không phải là đối tượng dễ nuôi, ít bệnh, nhưng
đã có nhiều hộ nuôi rất thành công, cho lợi nhuận khá. Tuy
nhiên, hiểu biết của đa số bà con về cá kèo vẫn còn quá ít.
Sau đây là những kỹ thuật cơ bản mà người nuôi cần nắm
để vận dụng vào điều kiện thực tế.
* Về mùa vụ nuôi
Do phụ thuộc vào nguồn giống nên mùa vụ nuôi cá kèo
thường tiến hành từ tháng 4 - 5 DL, khi bắt đầu có con
giống tự nhiên. Đây cũng là mùa thuận, do các tháng đầu
mùa mưa có nhiệt độ cao, mưa chưa nhiều nên độ mặn và
các yếu tố thủy lý hóa ít biến động, điều kiện môi trường
thuận lợi cho cá kèo.
Hoặc có thể sử dụng ao nuôi tôm sau khi thu hoạch để thả
nuôi cá kèo vào các tháng mùa mưa, nước ngọt khoảng từ
tháng 5 - 8 DL. Điều quan trọng là cần chú ý bố trí mùa vụ
nuôi sao cho tránh thu hoạch tập trung để không rớt giá và
nếu nuôi công nghiệp nên có cán bộ kỹ thuật bám sát tư
vấn kịp thời.
- * Ao nuôi và diện tích ao: Cá kèo có thể nuôi trong nhiều
loại ao đất thông thường miễn là có vách bờ cao ráo, vững
chắc không bị thấm mội để cá không thể vượt đi. Có thể
nuôi luân canh cá kèo trong ao nuôi tôm sú thâm canh, bán
thâm canh hoặc ao nuôi quảng canh để cắt nguồn bệnh cho
tôm nuôi vụ sau, hay nuôi trong ruộng muối vào mùa mưa
khi nước bị giảm độ mặn không sản xuất được muối.
Hoặc cũng có thể thả nuôi sinh thái mật độ thấp trong ao
vườn, vuông rừng, trong ruộng tôm vào mùa cấy lúa... Chỉ
nuôi công nghiệp ở vùng có nguồn nước tốt, diện tích thích
hợp nhất từ 1.000 - 2.000 m2.
Phải chuẩn bị cải tạo ao, ruộng nuôi thật kỹ trước khi tiến
hành thả cá giống, cụ thể cần tiến hành các khâu sau:
- Diệt tạp: Nguyên tắc nghiêm ngặt nhất phải thực hiện
trong nuôi cá kèo là phải diệt hết cá tạp, cá dữ và các loài
địch hại khác. Nhưng không dùng hóa chất mà dùng rễ dây
thuốc cá, với liều lượng 1kg rễ tươi cho 100 m3 nước ao.
- Cải tạo ao: Tát khô nước ao đầm, phơi đáy 2 - 3 ngày, rải
vôi bột xuống đáy ao để hạ phèn, diệt tạp, diệt các mầm
bệnh, với lượng dùng 8 - 12 kg/100 m2. Bón lót cho ao
- bằng phân hữu cơ, liều lượng 20 - 30 kg/100 m2 ao, sau đó
có thể xới đảo bùn đáy để hoà trộn vôi và phân hữu cơ tạo
điều kiện cho vi sinh vật đáy phát triển làm nguồn thức ăn
tự nhiên cho cá. Những ao ở vùng bị nhiễm phèn thì không
phơi đáy. Chú ý tạo vi sinh cho ao nuôi.
- Khi lấy nước vào ao cần chắn qua lưới lọc để tránh các
loại địch hại, cá dữ, cá tạp lọt vào ao sẽ hại cá giống và
tranh giành thức ăn.
* Kích cỡ và mật độ thả cá giống:
Yêu cầu cá giống phải khoẻ mạnh, hoạt động nhanh nhẹn,
không bị nhiễm bệnh, màu sắc tươi sáng, có nhiều nhớt. Có
kích cỡ 3 - 5 cm hoặc 4 - 6 cm và được ương nuôi trong ao
là tốt nhất, vì đã thích nghi với điều kiện trong ao và
thường có kích cỡ đồng đều, khỏe hơn.
Tùy điều kiện ao nuôi, khả năng quản lý, chăm sóc và cỡ cá
giống, có thể thả nuôi với mật độ 30 - 60 con/m2. Nếu cỡ
cá giống nhỏ nên thả mật độ cao hơn so với cỡ cá lớn để trừ
hao hụt trong khi nuôi.
* Chăm sóc và quản lý ao nuôi
- a. Thức ăn: Cá kèo là loài ăn tạp, không chỉ ăn phù du động
thực vật, sinh vật đáy, rong tảo, mùn bã hữu cơ... có tự
nhiên trong ao, mà nó còn ăn được các thức ăn do người
chế biến và thức ăn viên công nghiệp.
Để gây tạo và duy trì thức ăn tự nhiên, phải định kỳ bón
thêm phân hữu cơ đã ủ hoai từ 10 - 15 kg/100 m2/tuần hoặc
100 - 150 gr phân vô cơ (DAP, NPK)/tuần. Tự tạo thức ăn
chế biến gồm cám gạo (60 - 70%) và bột cá (30 - 40%) trộn
đều và nấu chín, trộn thêm premix khoáng và các vitamin
A, D, E, C (tổng cộng 0,2 - 0,3% tổng trọng lượng thức ăn).
Hàm lượng đạm trong thức ăn dao động từ 25% ở 2 tháng
đầu, sau đó giảm dần xuống 22% rồi 20% ở tháng thứ 3,4
và 18% cho hai tháng nuôi cuối. Khẩu phần ăn chỉ nên cho
khoảng 5% tổng trọng lượng đàn cá/ngày. Mỗi ngày cho cá
ăn 2 lần vào buổi sáng và chiều mát.
Nếu cho cá ăn thức ăn viên công nghiệp, cần phải chọn loại
kích cỡ thức ăn phù hợp với độ lớn và kích thước miệng để
cá có khả năng sử dụng thức ăn hiệu quả nhất. Khẩu phần
thức ăn viên công nghiệp cần cung cấp từ 1 - 1,5% tổng
trọng lượng đàn cá/ngày và cũng cho ăn ngày 2 lần vào
- sáng sớm và chiều mát. Ngoài ra, nên bổ sung thêm một số
loại men tiêu hoá vào thức ăn nhằm kích thích cá tiêu hoá
tốt hơn.
b. Quản lý ao nuôi
- Quản lý chất lượng nước: Cần chủ động điều chỉnh mực
nước ao tăng, giảm phù hợp với các giai đoạn phát triển của
cá nuôi.
- Phòng trị bệnh cho cá nuôi:
Cá kèo thường gặp một số bệnh như trướng bụng do ăn
không tiêu, bệnh lở loét trên thân do ký sinh trùng, đốm
trắng trên thân và đầu kèm theo xuất huyết các góc vây do
nhiễm vi khuẩn huyết.
Để phòng bệnh cho cá, trước hết phải tuân thủ các khâu kỹ
thuật, chọn cá giống khoẻ mạnh, không thả nuôi mật độ quá
dày, không để nước ao bị ô nhiễm, duy trì độ mặn thích
hợp. Thức ăn cần phải đủ khẩu phần, đủ hàm lượng chất
dinh dưỡng và nên bổ sung thêm các Vitamin, quan trọng
nhất là Vitamin C (50 - 60 mg/kg thức ăn).
Khi phát hiện cá bị bệnh, phải nhờ cán bộ chuyên môn xác
định đúng loài ký sinh hay vi khuẩn gây bệnh để dùng đúng
- loại thuốc chữa trị và tuyệt đối không sử dụng các loại hóa
chất và thuốc kháng sinh đã bị cấm.
* Thu hoạch cá nuôi:
Sau 5 - 6 tháng nuôi, cá kèo có thể đạt trọng lượng trung
bình là 20 - 30 g/con (30 - 50 con/kg). Tùy theo giá cả thị
trường, người nuôi sẽ chọn thời điểm để thu hoạch. Hiện
nay do có nhu cầu và giá bán thường xuyên ở mức cao, mà
suất đầu tư thấp nên cá kèo đang rất hấp dẫn nông dân.
Nhưng bà con cũng nên thận trọng, không nuôi đại trà và
tránh thu hoạch tập trung để khỏi bị lỗ do rớt giá.
KS. Nguyễn Văn Thước
nguon tai.lieu . vn