Xem mẫu

NHỮNG NỘI DUNG MỚI CỦA CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH THUẾ NĂM 2016

LUẬT THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU NĂM 2016:
NHỮNG ĐỔI MỚI QUAN TRỌNG THEO YÊU CẦU HỘI NHẬP
ThS. HOÀNG THỊ THU HIỀN

Sau hơn 10 năm đi vào cuộc sống, Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã tạo ra môi trường kinh
doanh thuận lợi cho hoạt động kinh doanh, xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, do tiến trình hội nhập ngày
càng sâu rộng, nhiều quy định của Luật đã không còn phù hợp với thực tế. Do đó, ngày 6/4/2016,
Quốc hội đã thông qua Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu sửa đổi, thay thế Luật Thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu năm 2005 (có hiệu lực thi hành từ ngày 1/9/2016). Với nhiều điểm mới, sửa đổi
theo hướng tiến bộ, đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển, Luật mới được kỳ vọng sẽ mang lại
những hiệu ứng tích cực, thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất
nhập khẩu của doanh nghiệp, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh…
• Từ khóa: Thuế xuất khẩu, nhập khẩu, cạnh tranh, doanh nghiệp, môi trường kinh doanh.

Một số tác động tích cực và yêu cầu sửa đổi
Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 45/2005/
QH11 được Quốc hội XI thông qua ngày 14/6/2005
có hiệu lực ngày 1/1/2006. Sau hơn 10 năm thực thi,
Luật đã đem lại nhiều kết quả đáng ghi nhận. Cụ
thể: Luật đã tạo ra khuôn khổ pháp lý, góp phần
quan trọng trong thực hiện đường lối chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại của Đảng và Nhà nước, phù hợp với tiến trình
cải cách đồng bộ hệ thống chính sách thuế giai đoạn
2005 đến 2015; Các quy định tại Luật đã có tác dụng
thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu (XK) phát triển, hỗ
trợ chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời, bảo hộ hợp
lý, có điều kiện, có chọn lọc đối với một số nhóm
mặt hàng, ngành nghề phù hợp với tiến trình hội
nhập quốc tế và hạn chế nhập khẩu (NK) các hàng
hóa gây ô nhiễm môi trường, hàng hóa tiêu dùng
không khuyến khích NK, góp phần hạn chế nhập
siêu. Cùng với đó, tỷ trọng số thu thuế XK, thuế
NK trong tổng thu ngân sách nhà nước qua các năm
giảm do thực hiện các cam kết quốc tế nhưng số thu
vẫn góp phần điều chỉnh cơ cấu thu ngân sách nhà
nước theo hướng bền vững và phát huy vai trò quản
lý của Nhà nước trong chống gian lận thương mại,
chống thất thu thuế...
Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực,
Luật thuế XK, NK năm 2005 cũng đã bộc lộ một số
hạn chế, không phù hợp với diễn biến thực tế phát
triển kinh tế và hội nhập quốc tế của đất nước. Một
16

số nội dung quy định tại Luật không còn phù hợp
với quy định của hệ thống pháp luật nói chung và
một số luật liên quan như Luật Quản lý thuế, Luật
Hải quan, Luật Đầu tư, Luật Bảo vệ môi trường…
và thực tiễn XK, NK hàng hóa những năm gần đây,
đặc biệt là trong bối cảnh Việt Nam tham gia hội
nhập quốc tế và triển khai mạnh mẽ công tác cải
cách hệ thống thuế giai đoạn 2011-2020. Trước yêu
cầu đổi mới, phát triển, hội nhập mạnh mẽ của nền
kinh tế cần phải sửa đổi Luật thuế XK, thuế NK cho
phù hợp với thực tiễn, ngày 6/4/2016, Quốc hội đã
thông qua Luật Thuế XK, thuế NK khẩu sửa đổi,
thay thế Luật Thuế XK, thuế NK khẩu năm 2005.

Những thay đổi quan trọng của Luật thuế mới
Luật thuế XK, thuế NK đã đổi mới toàn diện hơn
về phương thức quản lý và chính sách thuế XK, thuế
NK phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế theo
hướng ổn định, công khai, minh bạch, tạo điều kiện
thuận lợi cho doanh nghiệp. Cụ thể:
Đổi mới về cách tính thuế

Tách biệt từng loại thuế
Luật Thuế XK, thuế NK số 45/2005/QH11 chỉ quy
định chung tại Điều 10: “(i) Thuế suất đối với hàng
hoá XK được quy định cụ thể cho từng mặt hàng tại
Biểu thuế XK; (ii) Thuế suất đối với hàng hóa NK
gồm thuế suất ưu đãi, thuế suất ưu đãi đặc biệt và
thuế suất thông thường”.
Luật Thuế XK, thuế NK số 107/2016/QH13 (Luật

TÀI CHÍNH - Tháng 7/2016
Thuế XK, thuế NK sửa đổi) đã quy định cụ thể từng
loại thuế gồm: Thuế theo tỷ lệ phần trăm (Điều
6), thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp (Điều 7), thuế đối
với hàng hóa nhập khẩu áp dụng hạn ngạch thuế
quan (Điều 8)... Trong đó, thuế theo tỷ lệ phần trăm
“được xác định căn cứ vào trị giá tính thuế và thuế
suất theo tỷ lệ phần trăm (%) của từng mặt hàng tại
thời điểm tính thuế”.
Để phù hợp với việc thực hiện các cam kết cắt
giảm thuế xuất khẩu trong khuôn khổ một số Hiệp
định thương mại tự do (FTA) như: TPP, Việt Nam –
EU, Luật thuế sửa đổi cũng quy định: “Trường hợp
hàng hóa XK sang nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh
thổ có thỏa thuận ưu đãi về thuế XK trong quan hệ
thương mại với Việt Nam thì thực hiện theo các thỏa
thuận này”. Như vậy, quy định tại Luật thuế sửa
đổi được tách bạch rõ ràng, phù hợp với xu hướng
hội nhập quốc tế, các cam kết liên quan đến thuế XK
và tạo điều kiện cho việc thực hiện các cam kết thuế
quan mà Việt Nam tham gia.
Bổ sung quy định về loại thuế suất
Nếu như Luật Thuế XK, thuế NK cũ chưa có quy
định về loại thuế suất được áp dụng cụ thể là thuế
NK ưu đãi, ưu đãi đặc biệt hay thuế thông thường…
đối với hàng hóa từ khu phi thuế quan NK vào thị
trường nội địa, do đó chưa bao quát hết các trường
hợp phát sinh, thì Luật Thuế XK, thuế NK sửa đổi
đã bổ sung quy định về áp dụng thuế suất đối với
hàng hóa từ khu phi thuế quan NK vào thị trường
nội địa theo nguyên tắc hàng hóa đáp ứng điều kiện
xuất xứ nào thì áp dụng theo mức thuế suất tương
ứng với loại xuất xứ đó. Cụ thể: Thuế suất ưu đãi
áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ
nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện đối
xử tối huệ quốc (MFN) trong quan hệ thương mại
với Việt Nam hoặc hàng hóa từ khu phi thuế quan
nhập khẩu vào thị trường trong nước đáp ứng quy
tắc xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ
thực hiện đối xử tối huệ quốc trong quan hệ thương
mại với Việt Nam.
Thuế suất ưu đãi đặc biệt áp dụng đối với hàng
hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc
vùng lãnh thổ có thỏa thuận ưu đãi đặc biệt về thuế
nhập khẩu trong quan hệ thương mại với Việt Nam
hoặc hàng hóa từ khu phi thuế quan NK vào thị
trường trong nước đáp ứng quy tắc xuất xứ từ nước,
nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ có thỏa thuận ưu đãi
đặc biệt về thuế NK trong quan hệ thương mại với
Việt Nam.
Bên cạnh đó, quy định về thuế suất thông thường
cũng được sửa đổi, bổ sung. Luật thuế XK, thuế
NK trước đây hiện hành quy định thuế suất thông

thường không quá 70% so với thuế suất ưu đãi của
từng mặt hàng tương ứng do Chính phủ quy định.
Tại Điểm c, Khoản 3, Điều 6, Luật sửa đổi đã bổ
sung quy định: Thuế suất thông thường áp dụng
đối với hàng hóa NK không thuộc các trường hợp
áp dụng thuế suất ưu đãi hoặc thuế suất ưu đãi đặc
biệt nêu trên, “được quy định bằng 150% so với thuế
suất ưu đãi của từng mặt hàng tương ứng”.
Không quy định khung thuế suất thuế XK
Điều 12 Luật thuế XK, thuế NK năm 2005 quy
định, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Biểu
thuế XK theo danh mục nhóm hàng chịu thuế và
khung thuế suất đối với từng nhóm hàng, Biểu thuế
NK ưu đãi theo danh mục nhóm hàng chịu thuế và
khung thuế suất ưu đãi đối với từng nhóm hàng,
bao gồm cả mức tối thiểu và mức tối đa (sau đây gọi
tắt là Biểu khung).
Việc quy định mức khung thuế suất, bao gồm
cả mức tối thiểu (sàn) và mức tối đa (trần) như thời
gian qua đã phát huy tác dụng tích cực và là căn cứ
quan trọng để Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính
ban hành mức thuế XK, thuế NK ưu đãi MFN đối
với từng mặt hàng; đáp ứng tính chủ động, kịp thời
trước những biến động giá cả của thị trường thế giới,
góp phần bình ổn giá cả thị trường trong nước và
phù hợp với tính chất đặc thù của Biểu thuế NK. Tuy
nhiên, kể từ năm 2007 khi gia nhập WTO, Việt Nam
đã cam kết cho 100% số dòng thuế tại thời điểm gia
nhập và phải cắt giảm hàng năm theo lộ trình cam
kết, đến nay lộ trình này cơ bản hoàn thành. Do đó,
việc quy định mức trần tối đa Biểu khung thuế suất
thuế NK như hiện hành thực tế không có ý nghĩa.
Bên cạnh đó, về mức thuế suất sàn (tối thiểu) thuế
suất NK cũng bộc lộ bất cập, do vậy việc xây dựng
sàn thuế (tối thiểu) của Biểu khung thuế suất thuế
NK như hiện hành là không phù hợp.
Để khắc phục tình trạng trên, Luật thuế XK, thuế
NK sửa đổi và Danh mục nhóm hàng chịu thuế XK
không quy định khung thuế suất thuế xuất, nhập
khẩu mà thay bằng quy định mức tối thiểu đối với
một số nhóm hàng chịu thuế XK.
Bổ sung nhiều trường hợp miễn thuế

Luật thuế mới đã bổ sung nhiều trường hợp
được miễn thuế, chuyển từ đối tượng được hoàn
thuế sang miễn thuế. Cụ thể như:
Thứ nhất, chuyển từ hoàn thuế sang miễn thuế
đối với nguyên liệu, vật tư sản xuất xuất khẩu.
Theo Khoản 1d Điều 19 Luật thuế XK, thuế NK
2005 quy định: nguyên liệu, vật tư NK để sản xuất
XK thuộc đối tượng tạm nộp thuế, sau khi XK sản
phẩm sản xuất từ nguyên liệu này sẽ được hoàn
17

NHỮNG NỘI DUNG MỚI CỦA CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH THUẾ NĂM 2016

lại thuế; máy móc thiết bị nhập khẩu để phục vụ
sản xuất hàng XK phải nộp thuế NK. Tuy nhiên,
Luật cũng quy định hàng hóa NK để gia công
sau đó XK sản phẩm gia công thuộc đối tượng
miễn thuế (bao gồm cả nguyên liệu, vật tư, máy
móc thiết bị). Về bản chất kinh tế thì hai trường
hợp này giống nhau, đều là hàng hóa NK để sản
xuất hàng hóa XK, không tiêu dùng tại Việt Nam,
nhưng chế độ thuế, chế độ quản lý hải quan áp
dụng khác nhau.
Theo Điểm E3 (phần định nghĩa) Phụ lục F Công
ước Kyoto và kinh nghiệm một số nước như Nhật
Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Indonesia, Pakistan thì
nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để sản xuất XK được
áp dụng chế độ miễn thuế. Qua rà soát cho thấy,
mức thuế NK của đa số máy móc thiết bị cho sản
xuất hàng hóa XK có thuế suất 0% hoặc mức thấp.
Do đó, Luật thuế XK, thuế NK sửa đổi đã chuyển
hàng hóa là nguyên liệu, vật tư nhập để sản xuất
XK từ đối tượng hoàn thuế sang đối tượng miễn
thuế. Quy định này nhằm khuyến khích sản xuất
xuất khẩu, tạo giá trị gia tăng cao, góp phần tháo
gỡ khó khăn cho DN đặc biệt là DN nhỏ và vừa (đa
số DN thuộc diện này thực hiện hoạt động sản xuất
XK), nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa
Việt Nam, đồng thời, đơn giản thủ tục hành chính
việc tạm thu để hoàn thuế đối với vật tư nguyên liệu
NK để sản xuất hàng XK.
Thứ hai, miễn thuế đối với hàng hóa tạm nhập tái xuất, tạm xuất - tái nhập có thời hạn. Luật đã bổ
sung quy định tại Khoản 9, Điều 16 về miễn thuế
cho một số hàng hóa thuộc chế độ tạm nhập - tái
xuất, tạm xuất - tái nhập trong thời hạn nhất định.
Cụ thể:
- Hàng hóa tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái
nhập để tổ chức hoặc tham dự hội chợ, triển lãm,
giới thiệu sản phẩm, sự kiện thể thao, văn hóa,
nghệ thuật hoặc các sự kiện khác; máy móc, thiết bị
tạm nhập, tái xuất để thử nghiệm, nghiên cứu phát
triển sản phẩm; máy móc, thiết bị, dụng cụ nghề
nghiệp tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập để
phục vụ công việc trong thời hạn nhất định hoặc
phục vụ gia công cho thương nhân nước ngoài, trừ
trường hợp máy móc, thiết bị, dụng cụ, phương
tiện vận chuyển của các tổ chức, cá nhân được
phép tạm nhập, tái xuất để thực hiện các dự án
đầu tư, thi công xây dựng, lắp đặt công trình, phục
vụ sản xuất;
- Máy móc, thiết bị, linh kiện, phụ tùng tạm nhập
để thay thế, sửa chữa tàu biển, tàu bay nước ngoài
hoặc tạm xuất để thay thế, sửa chữa tàu biển, tàu
bay Việt Nam ở nước ngoài; hàng hóa tạm nhập, tái
18

xuất để cung ứng cho tàu biển, tàu bay nước ngoài
neo đậu tại cảng Việt Nam;
- Hàng hóa tạm nhập, tái xuất hoặc tạm xuất, tái
nhập để bảo hành, sửa chữa, thay thế;
- Phương tiện quay vòng theo phương thức tạm
nhập, tái xuất hoặc tạm xuất, tái nhập để chứa hàng
hóa xuất khẩu, nhập khẩu;
- Hàng hóa kinh doanh tạm nhập, tái xuất trong
thời hạn tạm nhập, tái xuất (bao gồm cả thời gian
gia hạn) được tổ chức tín dụng bảo lãnh hoặc đã đặt
cọc một khoản tiền tương đương số tiền thuế nhập
khẩu của hàng hóa tạm nhập, tái xuất.
Quy định này nhằm phù hợp với Điểm 22 thực
hành khuyến nghị Phụ lục chuyên đề G Công ước
Kyoto; cam kết với EU và sắp tới là TPP, theo đó
hàng hóa tạm nhập - tái xuất, tạm xuất - tái nhập có
thời hạn đều thuộc đối tượng miễn thuế.
Thứ ba, sửa đổi về miễn thuế nhập khẩu nguyên
liệu, vật tư, linh kiện cho sản xuất của dự án đặc
biệt khuyến khích đầu tư. Luật thuế XK, thuế NK
2005 quy định miễn thuế NK 05 năm kể từ khi bắt
đầu sản xuất cho một số dự án thuộc lĩnh vực đặc
biệt khuyến khích đầu tư hoặc địa bàn có điều
kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, trừ sản
xuất lắp ráp ô tô, xe máy, điều hòa, máy sưởi điện,
tủ lạnh, máy giặt, quạt điện, máy rửa bát đĩa, đầu
đĩa, dàn âm thanh, bàn là điện, ấm đun nước,
máy sấy khô tóc, làm khô tay, rượu, bia, thuốc
lá và những mặt hàng theo quyết định của Thủ
tướng Chính phủ. Để phù hợp với Luật Đầu tư số
67/2014/QH13 ngày 26/11/2014, tại khoản 13 Điều
11 Luật sửa đổi quy định về miễn thuế nguyên
liệu, vật tư, linh kiện trong nước chưa sản xuất
được theo hướng: Bổ sung thêm DN công nghệ
cao, doanh nghiệp khoa học và công nghệ, tổ chức
khoa học và công nghệ được miễn thuế nguyên
liệu, vật tư, linh kiện trong thời hạn 05 năm kể từ
khi bắt đầu sản xuất. Đồng thời, Luật cũng quy
định rõ việc miễn thuế nhập khẩu đối với hàng
hoá nhập khẩu quy định tại khoản này không
áp dụng đối với dự án đầu tư khai thác khoáng
sản; dự án sản xuất sản phẩm có tổng giá trị tài
nguyên, khoáng sản cộng với chi phí năng lượng
chiếm từ 51% giá thành sản phẩm trở lên; dự án
sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc đối
tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.
Cũng với đó, Luật đã bổ sung quy định miễn
thuế đối với nguyên liệu, vật tư, linh kiện nhập
khẩu trong nước chưa sản xuất được để sản xuất,
lắp ráp trang thiết bị y tế cần được ưu tiên nghiên
cứu, chế tạo. Chính sách này đã được quy định
tại Quyết định số 54/2014/QĐ-TTg. Để minh bạch,

TÀI CHÍNH - Tháng 7/2016
nâng cao tính pháp lý của quy định này, phù hợp
với chủ trương khuyến khích phát triển ngành Y
tế, tại Khoản 14, Điều 16 Luật thuế XK, thuế NK
sửa đổi đã bổ sung quy định về miễn thuế đối với
trường hợp này.
Bên cạnh đó, Luật cũng quy định miễn thuế đối
với hàng hóa có trị giá tối thiểu hoặc có số tiền thuế
phải nộp dưới mức tối thiểu; hàng hóa không nhằm
mục đích thương mại với các trường hợp: hàng
mẫu, ảnh, phim, mô hình thay thế cho hàng mẫu;
ấn phẩm quảng cáo số lượng nhỏ… để tạo thuận lợi
cho người khai hải quan và người nộp thuế.
Bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước

Bên cạnh việc đổi mới về cách tính thuế, Luật
Thuế XK, thuế NK sửa đổi cũng đã bổ sung nội
dung quan trọng về thuế chống bán phá giá, chống
trợ cấp, chống phân biệt đối xử để góp phần bảo
vệ nền sản xuất kinh doanh trong nước, phù hợp
định hướng phát triển của Đảng, Nhà nước và các
cam kết quốc tế đã ký kết. Cụ thể, tại Khoản 2, 3
Điều 5 và Khoản 1, 2, 3, 4 Điều 11 Luật thuế XK,
thuế NK có quy định các biện pháp về thuế để tự
vệ, chống bán phá giá, chống trợ cấp, chống phân
biệt đối xử trong nhập khẩu hàng hóa nhưng chưa
đầy đủ, mới chỉ dừng ở việc định danh về các biện
pháp này. Việc áp dụng các loại thuế phòng vệ
đang được thực hiện theo quy định tại các pháp
lệnh chống bán phá giá, Pháp lệnh chống trợ cấp,
Pháp lệnh về tự vệ.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, các nội dung về
thuế áp dụng đối với hàng hóa XK, NK phải được
quy định thống nhất tại Luật Thuế XK, thuế NK
để đảm bảo sự nhất quán, xuyên suốt, nhằm phát
huy vai trò là công cụ bảo vệ sự lành mạnh của môi
trường kinh tế, bảo vệ hàng hóa sản xuất trong nước
trong điều kiện phải cắt giảm thuế NK theo các cam
kết quốc tế gần như xuống 0% trong thời gian tới;
mặt khác, nâng quy định pháp lý từ Pháp lệnh lên
thành Luật và việc hợp nhất các nội dung về các
biện pháp phòng vệ đối với hàng hóa XK, NK tại
Luật Thuế XK, thuế NK phù hợp với quy định của
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, tạo sự
rõ ràng, minh bạch trong quá trình hoàn thiện pháp
luật Việt Nam.
Để phát huy công cụ bảo vệ này, trong phạm vi
điều chỉnh, Luật thuế XK, thuế NK (sửa đổi) đã bổ
sung các biện pháp phòng vệ về thuế áp dụng đối
với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu gồm: Thuế
chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế tự
vệ. Mặt khác, trong phần giải thích từ ngữ, Luật
đã bổ sung giải thích một loạt cụm từ ngữ có liên

quan về 3 loại thuế phòng vệ được chuyển nguyên
trạng từ quy định tại các Pháp lệnh chống bán
phá giá, Pháp lệnh chống trợ cấp, Pháp lệnh về tự
vệ, bao gồm: “Gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại
đáng kể cho ngành sản xuất trong nước”; “Ngăn
cản sự hình thành của ngành sản xuất trong
nước”; “Ngành sản xuất trong nước”; “Trợ cấp”;
“Nhập khẩu hàng hoá quá mức”... Cùng với đó,
tại chương III (từ Điều 12 đến Điều 15) Luật quy
định về nội hàm của từng biện pháp phòng vệ
thuế như điều kiện, nguyên tắc, thời hạn áp dụng
biện pháp phòng vệ và thẩm quyền áp dụng các
loại thuế này. Các nội dung này về cơ bản kế thừa
quy định tại 3 Pháp lệnh hiện hành và có bổ sung
thẩm quyền của Bộ Tài chính về việc quy định kê
khai, thu, nộp, hoàn trả số tiền thuế phòng vệ. Cụ
thể về thẩm quyền quyết định việc áp dụng thuế
chống bán phá giá; thuế chống trợ cấp; thuế tự
vệ, Luật quy định: (i) Bộ Tài chính quy định việc
kê khai, thu, nộp, hoàn trả thuế bán phá giá, thuế
chống trợ cấp, thuế tự vệ; (ii) Bộ Công Thương
quyết định việc áp dụng thuế chống bán phá giá,
thuế chống trợ cấp, thuế tự vệ; (iii) Trường hợp lợi
ích của Việt Nam bị xâm hại hay vi phạm, căn cứ
vào các điều ước quốc tế, Chính phủ báo cáo Quốc
hội quyết định áp dụng biện pháp thuế phòng vệ
khác phù hợp.
Về các nội dung liên quan đến trình tự thủ tục,
hồ sơ để thực hiện các biện pháp phòng vệ về thuế,
khiếu nại và xử lý vi phạm hiện đang được quy định
tại Pháp lệnh chống bán phá giá, Pháp lệnh chống
trợ cấp, Pháp lệnh về tự vệ, sẽ không quy định cụ
thể tại Luật này mà quy định tại Nghị định hướng
dẫn Luật. Ngoài ra, Luật cũng bỏ các nội dung liên
quan đến khiếu nại và xử lý vi phạm tại Luật này để
thực hiện theo Luật khiếu nại và các pháp luật khác
có liên quan. Điều này nhằm đảm bảo tính linh hoạt,
chủ động cho đơn vị chủ trì triển khai quyết định áp
dụng các biện pháp tự vệ về thuế.
Luật thuế XK, thuế NK sửa đổi có nhiều điểm
mới đáp ứng được yêu cầu phát triển, hội nhập,
đồng thời cải cách thủ tục hành chính tạo thuận lợi,
hỗ trợ DN giảm giá thành sản xuất, nâng cao khả
năng cạnh tranh; đảm bảo cơ sở pháp lý để thực
hiện cam kết TPP, các FTA đang thực hiện hoặc vừa
ký kết. Luật thuế XK, thuế NK sửa đổi chính thức có
hiệu lực kể từ ngày 01/9/2016.
Tài liệu tham khảo:
1. Quốc hội, Luật Thuế XK, thuế NK số 45/2005/QH11 ngày 14/6/2005;
2. Chính phủ, Tờ trình về dự án Luật Thuế XK, thuế NK (sửa đổi);
3. Quốc hội, Luật Thuế XK, thuế NK số 107/2016/QH13 ngày 6/4/2016.
19

nguon tai.lieu . vn