Xem mẫu

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG……………….. LUẬN VĂN Vai trò của văn hoá kinh doanh trong đàm phán thương mại Việt - Nhật Mục lục -1-
  2. 1- Tính cấp thiết của đề tài: Thế giới đã và đ ang diễn ra những biến đổi to lớn và sâu sắc, một trong những biến đổi hết sức quan trọng đó là sự xích lại ngày một gần nhau của các quốc gia trên thế giới hơn. Hơn lúc nào hết, các hoạt động giao lưu trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là giao lưu kinh tế đang trở nên sôi động nhằm hướng tới hình thành ra một nền kinh tế thế giới thống nhất. Ngày nay, chẳng có gì là lạ khi các quốc gia “hăm hở” tìm kiếm các cơ hội làm ăn với những nền kinh tế lớn, còn “nóng hổi” dù cho họ chẳng biết gì về đất nước đó, lịch sử của nó, trào lưu tư tưởng, con người hay các tập quán kinh doanh thông thường. Trong trường hợp này, trước đây, cũng đã có nhiều học giả đã từng đưa ra những “lý thuyết phát triển” cho rằng các yếu tố văn hoá kể trên không có vai trò gì đ áng kể, rằng chúng chỉ là kết quả, là “sự thăng hoa” của nền kinh tế. Song trong bối cảnh nền kinh tế thế giới ngày nay đang diễn biến hết sức phức tạp, sự cạnh tranh để giành giật cơ hội thị trường, cơ hội kinh doanh ngày một gay gắt thì các yếu tố văn hoá thể hiện rõ trong kinh doanh của doanh nghiệp ngày một chứng tỏ vai trò hết sức quan trọng của nó. Đặc biệt, sự thông hiểu văn hoá của nước đối tác sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới thành công của một cuộc giao dịch đàm phán thương mại - vốn là giai đoạn đầu tiên quyết định tới việc hợp đồng có được thành lập hay không. Trong các nền kinh tế tại châu Á, Nhật bản là một quốc gia đi đầu trên mọi lĩnh vực. Việc có được cơ hội làm ăn với các đối tác Nhật bản sẽ tạo điều kiện cho các quốc gia tận dụng được các thành tựu khoa học hiện đại, các nguồn vốn để phát triển nền kinh tế quốc dân, và dần nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế. Tuy vậy, đây cũng là một trong những đối tác có những nền văn hoá kinh doanh rất đặc thù. Trong hoạt động giao dịch đ àm phán, nhà kinh doanh chuyên nghiệp cần tìm tòi để hiểu được những khác biệt cơ bản tiềm ẩn trong sự nhận thức giữa các nền văn hoá khác nhau, từ đó gác -2-
  3. lại các tiêu chuẩn giá trị của riêng mình mà có những cư xử và hành vi phù hợp với nền văn hoá Nhật bản. Hoạt động giao lưu kinh tế Việt nam - N hật bản đ ã trải qua 4 thế kỷ phát triển và ngày một được nâng cao cả về chất lẫn lượng. Rõ ràng Nhật bản - một nền kinh tế lớn với trình độ khoa học kỹ thuật cao, dân số xấp xỉ 125 triệu người là m ột đối tác hết sức quan trọng đối với Việt nam. Đây còn là một đối tác có nền văn hoá kinh doanh tiên tiến; mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc. Là một sinh viên hiện đang theo học tiếng Nhật, có cơ hội được gặp gỡ và làm việc với nhiều doanh nghiệp Nhật bản, trong bài khoá luận tốt nghiệp của mình, tôi mong muốn được đóng góp một vài ý kiến quanh vấn đề “Vai trò của văn hoá kinh doanh trong đàm phán thương mại Việt - Nhật”. 2- K ết cấu của khoá luận: Bài khoá luận được chia làm 3 chương: Chương I: Tổng quan về văn hoá kinh doanh và đàm phán thương mại quốc tế Chương II: Vai trò của văn hoá kinh doanh trong đàm phán thương mại V iệt – Nhật Chương III: Những biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng văn hoá kinh doanh trong giao dịch đàm phán với các đối tác Nhật bản thời gian tới. 3- Mục đích và phạm vi nghiên cứu: V ăn hoá kinh doanh là một đề tài rất rộng nên khoá luận chỉ tập trung nghiên cứu những lý luận cơ bản về văn hoá kinh doanh, đàm phán thương mại, và đánh giá vai trò của văn hoá kinh doanh đến đàm phán thương mại giữa các nhà kinh doanh Việt nam – Nhật bản. Trên cơ sở những kết luận rút ra trong quá trình nghiên cứu, khoá luận xin mạnh dạn đề xuất một số biện -3-
  4. pháp với hy vọng góp phần voà việc nâng cao hiệu quả sử dụng văn hoá kinh doanh trong giao dịch đàm phán với các đối tác Nhật bản trong thời gian tới. Có thể thấy đây là một đề tài khá phức tạp, cộng thêm những hạn chế nhất định của người viết nên bài luận văn này chắc chắn không thể tránh khỏi được các thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận được những lời nhận xét, góp ý từ phía thầy cô, bè bạn để có cơ hội ho àn thiện những nhận thức về vấn đề này. Cuối cùng, trước khi b ước vào phần trọng tâm của bài luận văn, tôi xin gửi lời cám ơn chân thành tới Tiến sỹ Phạm Duy Liên, người đã hết sức nhiệt tình giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi hoàn thành bài luận văn tốt nghiệp này. Hà nội, tháng 12 năm 2002 Trần Thị Bảo Ngọc -4-
  5. CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ VĂN HOÁ KINH DOANH VÀ ĐÀM PHÁN THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 1.1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HOÁ KINH DOANH 1.1.1 Mối quan hệ giữa văn hoá và kinh doanh 1.1.1.1 Khái niệm "văn hoá" Thuật ngữ Văn hoá bắt đầu xuất hiện vào cuối thế kỷ 18 (năm 1793). Đ ây là một thuật ngữ hết sức quen thuộc với đời sống thường nhật. Tuy vậy tới nay, các nhà khoa học vẫn chưa có cách hiểu thống nhất về khái niệm này. K ể từ khi xuất hiện cho tới nửa cuối thế kỷ 20, tức khoảng 2 thế kỷ, theo thống kê sơ bộ của một học giả người Pháp, tên là A. Mô lô trong tác phẩm “Tính xã hội của văn hoá”, đã có khoảng 250 định nghĩa về văn hoá [5,36]. N ăm 1952, Kroeber và Kluchohn đã thống kê được 164 định nghĩa về văn hoá [5,35]. Điều đáng chú ý là giữa các định nghĩa này lại thiếu sự thống nhất. Sở dĩ có nhiều cách nhìn nhận về cùng một vấn đề như thế là do các tác giả xem xét vấn đề từ nhiều góc độ tiếp cận khác nhau. Cùng với thời gian những định nghĩa này ngày càng được bổ sung và hoàn thiện, để từ đó chúng ta có thể hiểu đúng hơn về mối quan hệ biện chứng giữa văn hoá và phát triển. Vậy cần phải hiểu khái niệm này như thế nào ? Xét về mặt ngôn từ: Văn hoá xuất phát từ một thuật ngữ La tinh là “Cultus” có nghĩa là “trồng trọt”. Đây là một khái niệm rộng, gồm có 2 mặt: V ăn hoá vật chất - tức là trồng nên cây trái để giúp cho con người tồn tại và V ăn hoá tinh thần - tức giáo dục, cải tạo con người sống tốt đẹp hơn. Theo quan điểm của các nhà nhân loại học: "Văn hoá hay Văn minh xét theo nghĩa nhân loại học nói chung, là tổng thể bao gồm tri thức, tín -5-
  6. ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và bất cứ khả năng và thói quen nào mà con người thu nhận được với tư cách là thành viên của xã hội. Đ iều kiện Văn hoá trong các xã hội loài người khác nhau, ở một chừng mực có thể kiểm soát đ ược theo những nguyên tắc chung, là đối tượng thích hợp để nghiên cứu quy luật tư duy và hành động của con người" (Edward.B.Tylor) [12,23]. Đ ịnh nghĩa trên liệt kê một cách khá đầy đủ các yếu tố cấu thành nên khái niệm song lại ít quan tâm tới khái niệm văn hoá vật chất - vốn là m ột bộ phận khá phong phú trong kho tàng văn hoá nhân loại. Bách khoa toàn thư Anh (trang 741) cho rằng có thể coi Văn hoá và V ăn minh là hai từ đồng nghĩa. Từ đó có thể nói tất cả những biến đổi do con người tạo ra ở ngoài cơ thể được gọi là các thành tựu văn hoá, tập hợp các thành tựu ấy ta gọi là văn hoá, các thời kỳ đỉnh cao của văn hoá ta gọi là văn m inh [5,20]. Khái niệm này đã nhấn mạnh được hàm ý: nói đến văn hoá là phải nói đến con người, mà nói đến con người trước hết phải nói đến tư tưởng, tâm lý, tư duy, tình cảm... Đó là cốt lõi của văn hoá. Lịch sử văn hoá là lịch sử con người và loài người đã tạo nên văn hoá. Ngược lại, văn hoá làm cho con người trở thành người. Song định nghĩa này lại thiếu tính cụ thể với cách hiểu còn chung chung Trong lĩnh vực tâm lý học, các học giả lại định nghĩa "Văn hoá là hành vi, hành động, thái độ của con người" [5,20]. Vì vậy, bên cạnh giáo dục tri thức, kỹ năng, phải đặc biệt coi trọng giáo dục các thái độ mà chúng ta gọi chung là nhân cách văn hóa. Cách hiểu như vậy mới chỉ đề cập đến văn hoá tinh thần, còn thiếu tính cụ thể. Đ ứng trên bình diện kinh tế, các nhà khoa học lại đánh giá Văn hoá theo một cách khác. Czinkta cho rằng “Văn hoá là một hệ thống những cách -6-
  7. cư xử đặc trưng cho các thành viên của bất kỳ một xã hội nào. Hệ thống này bao gồm mọi vấn đề, từ cách nghĩ, nói, làm, thói quen, ngôn ngữ, sản phẩm vật chất, và nh ững tình cảm, quan điểm chung của các thành viên đó” [5,26] Nói tóm lại, khái niệm “Văn hoá” hàm ý về các hành vi, tư duy, tình cảm, các sản phẩm vật chất của các cộng đồng người riêng biệt, vốn đ ược đúc kết, lan truyền và chia xẻ từ đời này sang đời khác, được truyền bá từ nơi này sang nơi khác. Một điều cần làm sáng tỏ khi đề cập tới khái niệm này đó là: hiện nay, trên thế giới, trong bối cảnh các hoạt động giao lưu kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội... đang diễn ra hết sức nhộn nhịp, thì các quốc gia hầu hết là quốc gia đa văn hoá, đa dân tộc, với nhiều tôn giáo, nhiều ngôn ngữ khác nhau. Ấn độ là một quốc gia đa văn hoá điển hình với nhiều tôn giáo khác nhau: đạo Phật, đạo Hindu, đạo Sikls, đạo Hồi... Về ngôn ngữ, ở Ấn độ, nói 20 ngôn ngữ chính. Thuỵ sĩ cũng là nước đa ngôn ngữ với 75% dân số nói tiếng Đức, 20% nói tiếng Pháp, 3-4% nói tiếng Ý, 1% nói tiếng Roman. Quản lý một quốc gia đa văn hoá là một việc làm không hề dễ dàng. Phải mất 600 năm, Thuỵ sĩ mới thiết lập được một chiến lược quản lý trên một đất nước có nhiều nền văn hoá, ngôn ngữ khác nhau như vậy. Do đó hiểu đúng về khái niệm văn hoá cũng như hiểu được nội hàm phức tạp của khái niệm này sẽ cho chúng ta cơ sở quan trọng để tìm hiểu khái niệm “văn hoá kinh doanh”. 1.1.1.2 Khái niệm "kinh doanh" * Đ ịnh nghĩa K inh doanh là một hoạt động cơ bản của xã hội loài người. Hoạt động này xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện của nền sản xuất hàng hoá. Ngay từ thời cổ đại, kinh doanh đ ã mang tư cách là một ngành nghề với sự góp sức của tầng lớp doanh nhân. -7-
  8. V ậy “kinh doanh” là gì ? Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên định nghĩa về kinh doanh như sau: Kinh doanh tức là “dùng công sức, tiền tài mà tổ chức các hoạt động để kiếm lời như buôn bán, m ở nhà máy” [20,573]. Định nghĩa này rõ ràng là còn thiếu, còn chung chung, chưa nêu được bản chất của hoạt động kinh doanh. Từ điển Từ và ngữ Việt nam của Nguyễn Lân giải thích: "kinh doanh là tổ chức hoạt động về mặt kinh tế để sinh lời” [21,994]. Định nghĩa này chỉ làm nổi bật được mục đích tối thượng của kinh doanh, còn vẫn thiếu tính cụ thể. Học giả Đỗ Minh Cương trong cuốn “Văn hóa kinh doanh và Triết lý kinh doanh” đã đưa ra một số định nghĩa về khái niệm này như sau:  Kinh doanh là một dạng thức của kinh tế với mục đích chính là đạt được lợi nhuận cho chủ thể.  Kinh doanh là tất cả nhứng hoạt động có mục tiêu cơ bản là đạt được lợi nhuận cho chủ thể.  Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi [19,994]. Trong ba định nghĩa trên về “kinh doanh”, có thể thấy định nghĩa thứ ba là đầy đủ và cụ thể nhất. Với cách hiểu này, có thể thấy kinh doanh giữ một vai trò hết sức quan trọng trong đời sống xã hội: Kinh doanh là tác nhân đồng thời là điều kiện và phương tiện thúc đẩy nền khoa học kỹ thuật và công nghệ phát triển, tạo ra sự thoả mãn ngày càng cao nhu cầu của xã hội loài người trên tất cả mọi lĩnh vực. * Đặc điểm -8-
  9.  Các yếu tố cấu thành nên hoạt động kinh doanh bao gồm:  Chủ thể kinh doanh là những người làm kinh do anh, gồm các cấp độ như cá nhân, nhóm và tổ chức, cả tầng lớp doanh nhân.  Khách thể kinh doanh là khách hàng của chủ thể, bao gồm người tiêu dùng (cá nhân hoặc tập thể), các nhà kinh doanh khác...  Đối tượng kinh doanh thì tuỳ thuộc vào các lĩnh vực kinh doanh, hình thức kinh doanh... mà có thể là khác nhau. Ví dụ như: kinh doanh thương mại (bao gồm mua bán, trao đổi, lưu thông), kinh doanh sản xuất, kinh doanh dịch vụ (du lịch, tư vấn, giáo dục, y tế, viễn thông...) hoặc kinh doanh trên cả ba lĩnh vực: thương mại, sản xuất, dịch vụ... Trong số các loại hình trên, có thể nói kinh doanh thương m ại là phổ biến nhất. Lịch sử đã từng chứng kiến những kiểu kinh doanh thương mại đỉnh cao như việc bỏ tiền đút lót để “buôn vua” của Lã Bất Vi thời Chiến quốc tại Trung quốc.  Mục đích chính của hoạt động kinh doanh thường là đạt được, đem lại lợi nhuận cho chủ thể kinh doanh. Dĩ nhiên cũng có trường hợp trong một vài vụ giao dịch kinh doanh, lợi nhuận không là mục đích chính như biểu diễn nghệ thuật để quyên tiền ủng hộ đồng b ào bị bão lụt... Song đây là những trường hợp cá biệt không có tính chất lâu dài, và không thể hiện được bản chất của hoạt động kinh doanh.  Bản chất của quan hệ kinh doanh được thể hiện trong mối quan hệ trao đổi, ràng buộc lẫn nhau giữa chủ thể và khách thể. Người kinh doanh phải căn cứ vào nhu cầu, thị hiếu, sở thích của các khách hàng m ục tiêu mà anh ta nhắm vào để cung cấp cho họ một lượng hàng hoá, dịch vụ nào đó, nhằm thu một lượng tiền với một mức lợi nhuận nhất định. Ngược lại, khách hàng có quyền chấp nhận hàng hoá và trả tiền hay không, qua đó thực hiện việc có bỏ phiếu hay không cho sự thành đạt của doanh nghiệp. -9-
  10.  Nguyên tắc cơ bản của kinh doanh là đôi bên (chủ thể và khách thể) cùng có lợi. Trên đây, chúng ta vừa tìm hiểu hai khái niệm là khái niệm “văn hoá” và khái niệm “kinh doanh”. Hiểu đúng về hai khái niệm sẽ giúp chúng ta nắm được mối quan hệ biện chứng, hữu cơ giữa hoạt động kinh doanh và các yếu tố văn hoá. 1.1.1.3 Mối quan hệ giữa văn hoá và kinh doanh Thứ nhất, "Kinh doanh có văn hoá" tạo cơ sở cho một sự phát triển bền vững Từ trước tới nay, văn hoá thường bị liệt vào lĩnh vực “sản xuất phi vật chất”, luôn phụ thuộc vào lĩnh vực kinh tế. Kinh tế có phát triển thì mới có điều kiện vật chất để phát triển văn hoá.Tuy nhiên, “Khi các mục tiêu tăng trưởng kinh tế được đặt ra mà tách rời môi trường văn hoá thì kết quả thu đưọc sẽ rất khập khiễng, mất cân đối cả về kinh tế lẫn văn hoá, đồng thời tiềm năng sáng tạo của mỗi dân tộc sẽ bị suy yếu đi rất nhiều” (Tổng G iám Đốc UNESCO F.Mayor) [5,33]. Điều này là dễ hiểu vì bản chất của hoạt động kinh doanh là lợi nhuận: “Với một lợi nhuận thích đáng thì tư bản trở nên can đảm. Đ ược bảo đảm 10% lợi nhuận thì người ta có thể dùng tư bản vào đâu cũng được; được 20% thì nó ho ạt bát hẳn lên; được 50% thì nó trở nên thật sự táo bạo; được 100% thì nó chà đạp lên mọi luật lệ của loài người; được 300% thì không còn tội ác nào là nó không dám phạm, dù có nguy cơ bị treo cổ”(C.Mác) [19,22]. V ề vấn đề này, những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu cho thấy: Sự thành công và năng động của các quốc gia Châu Á - Thái Bình D ương là do có sự bắt nguồn từ các yếu tố truyền thống, trong đó tính cộng đồng và ý thức dân tộc thể hiện rất cao trong quan hệ làm ăn, kinh doanh, sự - 10 -
  11. ham học hỏi, ham hiểu biết, sự cần cù vươn lên và tính nghiêm túc, kỷ luật cao trong công việc đã được nhấn mạnh. N ền kinh tế Việt nam cũng đã có một bước tiến đáng kể. Nguyên nhân thành công thực ra không phải do sự thúc đẩy tự động của các nhân tố kinh tế đơn thuần (như vốn, công nghệ, thông tin...) mà trước hết, là nhờ ở đổi mới tư duy trên cơ sở “lấy dân làm gốc”, đặt con người vào vị trí trung tâm của mọi chủ trương, chính sách và kế hoạch phát triển, khơi dậy và nhân lên các tiềm năng sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân bắt nguồn từ những giá trị truyền thống của dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại. Các nhân tố văn hoá có tác động tích cực tới kinh doanh thì ngược lại, kinh doanh có phát triển bền vững cũng tạo các tiền đề vật chất hỗ trợ phát triển các hoạt động văn hoá. Chẳng hạn như ngày nay, một số doanh nghiệp thành đạt vẫn thường tài trợ cho các ho ạt động văn hoá, thể thao. Một số công ty lớn còn lập các quỹ tài trợ cho các lĩnh vực phát triển văn hoá, giáo dục, và khoa học như quỹ Ford, quỹ Rốc cơ p hen lơ, quỹ Toyota, quỹ học bổng của Sumitomo... Đương nhiên, đây cũng được coi như một thủ thuật Marketting của các hãng, song qua đó ta cũng thấy được sự tác động của kinh doanh đối với các hoạt động văn hoá. N hư vậy, chỉ có trên cơ sở mối quan hệ hài hoà giữa kinh doanh và văn hoá thì các quốc gia mới mong đạt tới sự phát triển năng động, có hiệu quả và chất lượng cao về mọi mặt của đời sống. Thứ hai, Bản thân văn hoá cũng là m ột ngành kinh doanh Mỗi một dân tộc đều có những nét riêng biệt về văn hoá trên từng lĩnh vực, gọi là bản sắc văn hoá. Khi các giá trị văn hoá truyền thống ấy trở thành đối tượng kinh doanh, doanh nghiệp sẽ vừa thu được lợi nhuận lại vừa có thể quảng bá bản sắc văn hoá của dân tộc mình ra tầm thế giới. - 11 -
  12. Ai cũng biết rằng, ở Nhật bản có văn hoá “uống trà”, vốn được gọi là trà đạo. Trình tự, động tác pha trà hầu như ở nơi nào mà chả giống nhau. Thế nhưng, văn hoá “uống trà” ấy của Nhật bản vẫn thu hút biết bao du khách tới N hật để mong được một lần được dự một bữa tiệc trà và được thưởng thức một htú vui tao nhã. Tiệc trà Huế cũng lịch lãm không kém. Nước pha trà phải là sương đêm đọng trên lá sen. Trà phải ướp trong hoa sen qua đêm cho ngấm hương. Và do cái nếp pha trà đó, mà nhiều vị khách người nước ngoài đã kiên nhẫn ngồi với một tiệc trà Huế hàng mấy tiếng đông hồ. Một trong những cơ hội kinh doanh rõ rệt nhất bắt nguồn từ văn hoá là du lịch. Tại Châu Á ngày nay, du lịch là một thị trường đầy triển vọng. Sự phát triển ngoạn mục của ngành du lịch là một trong những thay đổi đáng kể nhất trong thương mại quốc tế vào nửa sau thế kỷ 20. Doanh thu của hoạt động du lịch quốc tế tăng tới 18 lần từ năm 1970 đến 1993, từ 18 tỷ USD lên 324 tỷ USD. Năm 1996, ngành du lịch chiếm gần 10% hoạt động thương mại quốc tế [24,1]. Ngoài nguồn lợi xét về mặt thương mại ra, ngành du lịch còn có một vai trò rất lớn trong việc truyền bá các giá trị văn hoá, truyền thống của một quốc gia với thế giới. Tuy nhiên, điều làm cho các quốc gia đang đau đầu hiện nay là liệu sự phát triển này có là bền vững trong tương lai mà không làm xuống cấp các tài sản văn hoá vô giá đó. Số lượng du khách ngày càng tăng đòi hỏi phải mở rộng thêm cơ sở vật chất mà có nguy cơ biến những nơi yên ả, thanh bình, đ ầy nét truyền thống và mang đậm bản sắc hấp dẫn trở thành những nơi họp chợ ồn ào, rẻ tiền, và bẩn thỉu. Do nhiều nước ra sức mở rộng nhanh chóng cơ sở vật chất để phát triển du lịch ồ ạt kiểu con buôn nên tính xác thực của yếu tố văn hoá truyền thống bản địa đang bị chết dần, chết mòn. Mỉa mai là chính yếu tố văn hoá và các phong tục truyền thống xác thực lại là cái mà các khách du lịch muốn xem khi thăm di tích. - 12 -
  13. V ấn đề này đã được bàn đến tại Việt nam trong Hội thảo do Trung tâm di sản Thế giới của UNESCO và Ủy ban Quốc gia UNESCO của Việt nam tổ chức tại Huế về “Du lịch b ền vững và sự phát triển di sản văn hoá”. Một trong những khía cạnh quan trọng nhất cuả cuộc Hội thảo nói trên là làm sáng tỏ vai trò tiềm năng của ngành du lịch trong việc bảo tồn và duy trì di sản văn hoá có thể làm tăng hiểu biết và lòng tự hào vủa người dân về lịch sử và nền văn minh của mình. N goài các hình thức kinh doanh kể trên, văn hoá cũng có thể trở thành một lĩnh vực đem lại lợi nhuận thông qua việc mua bán các sản phẩm thủ công mỹ nghệ hay qua việc biểu diễn các bộ môn nghệ thuật truyền thống... Có thể thấy rằng: văn hoá là cái vĩnh cửu, trường tồn của dân tộc. Bởi thế, nếu các doanh nhân chịu khó tìm hiểu kho tàng văn hoá dân tộc và suy nghĩ về nó trên góc độ kinh doanh thương mại, sẽ thấy ngay rằng chúng ta thừa sức làm giàu b ằng chính nội lực văn hoá của minh. Thứ ba, Văn hoá và kinh doanh là hai lĩnh vực có các ngành chuyên biệt phục vụ mục đích của nhau Trong kinh doanh đã có một nền văn hoá kinh doanh thể hiện ở sự vận dụng khoa học và kỹ thuật, tổ chức và quản lý kinh doanh, ở nhứng cách thức giao tiếp và ứng xử trong kinh doanh, thương m ại. Ngoài ra, có những ngành thuộc lĩnh vực văn hoá cũng có những bộ phận làm công việc kinh doanh. Công việc kinh doanh giúp cho các ngành đó có thêm điều kiện phát triển bản thân ngành mình, làm nghĩa vụ đối với Nhà nước và phục vụ nhân dân một cách rộng rãi và có chất lượng cao hơn. Mặt khác, cũng có những ngành văn hoá và khoa học đứng ngoài công việc kinh doanh song có khả năng phục vụ sự nghiệp kinh doanh bằng các công trình nghiên cứu khoa học và những hoạt động chuyên môn của mình. - 13 -
  14. Ví dụ như các ngành kinh tế học, xã hội học, tâm lý học, giáo dục và đào tạo, các phương tiện truyền thông đại chúng. Tại các nước công nghiệp phát triển đã có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về các công ty, xí nghiệp, các tập đoàn kinh doanh, về tiếp thị, về những lý thuyết toán học, về những đặc trưng và cấu trúc của kinh doanh, về chiến lược kinh doanh, về đ ào tạo, về mặt văn hoá cho các ngành kinh doanh. N gành kinh tế học đóng góp trực tiếp hơn và sâu hơn do chức năng của nó. Song nghiên cứu về văn hoá và kinh doanh, nghiên cứu về văn hoá như một động lực thúc đẩy của kinh doanh, một chỗ dựa của kinh doanh.cũng sẽ cho chúng ta những triết lý về kinh doanh bổ ích. Thứ tư, Văn hoá ảnh hưởng mạnh mẽ tới tư duy, tình cảm, hành vi của các doanh nhân Mỗi một con người trong chúng ta đều luôn được đặt trong tổng ho à của các mối quan hệ x ã hội. Chính các mối quan hệ mang đậm bản sắc văn hoá của từng cộng đồng ấy đã có ảnh hưởng sâu sắc đến từng cá nhân trong xã hội. Nó quyết định tới mọi hành vi, tư duy tình cảm của con người. Mặt khác, chính con người lại là chủ thể của mọi hoạt động. Như vậy, các cá nhân thuộc các nền văn hoá khác nhau thì có cách tiến hành hoạt động khác nhau. Một ví dụ điển hình đó là: tại các nước phương Tây, con người luôn có thói quen đặt cái tôi lên trước. Ngược lại, ở phương Đông, nhân sinh quan của con người là hướng về cộng đồng. Một nhà kinh doanh được coi là tài ba sẽ không chỉ là một con người tháo vát, biết làm giàu cho bản thân mình, mà còn phải là một con người có “tâm”, biết làm giàu cho cả xã hội. Điều này lý giải tại sao ở các nước phương Tây, mại dâm lại được coi là một thứ nghề, có thể được công khai kinh doanh. Trong khi đó, người dân các nước phương Đông lại khó chấp nhận được tình trạng này bởi nó đi ngược lại thuần phong mỹ tục, chà - 14 -
  15. đạp lên các giá trị tôn trọng hạnh phúc gia đình, tôn trọng mối quan hệ giữa vợ chồng, con cái. Ngày nay, trong bối cảnh làn sóng toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ, cạnh tranh kinh tế ngày một trở nên gay gắt..., đương nhiên không thể tránh khỏi những đổi thay trong hệ tư tưởng, quan điểm của mỗi dân tộc. Thái Lan - m ột quốc gia châu Á tươi đẹp - vốn có truyền thống coi trọng gia đình, coi trọng cộng đồng, thì giờ đây, đã trở thành một quốc gia với tỷ lệ gái mại dâm, và tỷ lệ người bị nhiễm HIV khá cao so với các nước khác trên thế giới. Ngay tại Việt nam, cũng từng có thời người ta đặt ra vấn đề có nên coi mại dâm là một nghề kinh doanh có kiểm soát hay không. Trên đây, chúng ta đã làm rõ mối quan hệ biện chứng, hữu cơ giữa văn hoá và kinh doanh. Như vậy, có thể thấy: kinh doanh tạo ra các điều kiện cơ sở vật chất làm phong phú thêm đ ời sống văn hoá của dân tộc. Và ngược lại. văn hoá cũng có sức chi phối mạnh mẽ đến hoạt động kinh doanh. Đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang có nhiều xáo trộn như hiện nay, hơn lúc nào hết, các doanh nhân muốn phát triển bền vững được phải tiến hành kinh doanh có văn hoá, hay nói cách khác phải xây dựng một nền văn hoá kinh doanh cho riêng mình. 1.1.2 Khái niệm "văn hoá kinh doanh" X uất phát từ quan hệ biện chứng, hữu cơ giữa văn hoá và kinh doanh, trong kho tàng từ ngữ của nhân loại đã xuất hiện thêm một thuật ngữ mới, đó là “văn hoá kinh doanh” (Business Culture). Có thể nói đây là một thuật ngữ mới xuất hiện gần đây. Trước đây, khi b àn về vấn đề này, người ta thường chỉ nói “kinh doanh có văn hoá”, hoặc “văn hoá trong kinh doanh”. Sự xuất hiện thuật ngữ “văn hoá kinh doanh”, đồng thời việc đây trở thành một vấn đề bình luận nóng bỏng trên báo chí trong thời gian gần đây, cho thấy một sự đổi thay sâu sắc về các yếu tố văn hoá trong mọi mặt hoạt động của một doanh nghiệp - 15 -
  16. nói riêng, của toàn nền kinh tế nói chung. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập vào nền kinh tế tri thức, văn hoá kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng trở thành mối quan tâm, chú ý đặc biệt của doanh nghiệp. Có thể dự báo đây sẽ là m ột nguồn lực, một tài sản lớn của doanh nghiệp trong nền kinh tế tri thức. Theo Giáo sư Hoàng Trinh: Văn hoá kinh doanh (hay kinh doanh có văn hoá) có nghĩa là hoạt động kinh tế có hiệu quả, đạt năng suất, sản lượng, giá trị cao, giá thành thấp, sản phẩm đạt chất lượng cao, tiêu thụ được sản phẩm trên th ị trường trong n ước và ngoài nước, làm đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước [12,30]. Đ ịnh nghĩa trên có phần nhấn mạnh tới kết quả của hành động kinh doanh có văn hoá. Ta có thể tham khảo thêm một định nghĩa khác như: Văn hoá kinh doanh là phương pháp kinh doanh bằng cách nắm bắt thông tin, ra sức cải tiến kỹ thuật, công nghệ, tiết kiệm nguyên liệu, nhiên liệu, quan tâm thích đáng đến đời sống vật chất và tinh thần của ng ười lao động, bồi dưỡng và phát huy tiềm năng sáng tạo của họ trong việc tạo ra nh ững hàng hoá và dịch vụ có chất lượng tốt, h ình thức đẹp, giá cả hợp lý, đáp ứng được nhu cầu của thị trường, giữ được chữ tín với ng ười tiêu dùng trong nước và ngoài nước [5,61]. Đây là cách kiếm lời nhanh nhất trên cơ sở đảm bảo kết hợp được cả cái đúng, cái tốt, cái đẹp - vốn là những giá trị cốt lõi của văn hoá với cái lợi là mục đích trực tiếp của kinh doanh. Nói tóm lại, xuất phát từ bản chất của hoạt động kinh doanh đồng thời xem xét các tác động của yếu tố văn hoá, trong phạm vi bài luận văn này, chúng ta thống nhất định nghĩa "Văn hoá kinh doanh là việc sử dụng các nhân tố văn hoá vào trong hoạt động kinh doanh của chủ thể, là cái văn hoá - 16 -
  17. mà các ch ủ thể kinh doanh tạo ra trong quá trình kinh doanh hình thành nên nh ững kiểu kinh doanh ổn định và đặc thù của họ" [19,66]. 1.1.3 Đ ặc điểm của "văn hoá kinh doanh" “Văn hoá kinh doanh” là một khái niệm nằm trong khái niệm “văn hoá”. V ì thế ngoài những đặc điểm riêng có do có sự xuất hiện của yếu tố kinh doanh, thì khái niệm này còn mang các đặc trưng chung của khái niệm “văn hoá”. 1.1.3.1 Đặc điểm chung Thứ nhất, Văn hoá là sản phẩm hoạt động lao động sáng tạo của con người, cộng đồng loài người Có thể nói hoạt động sáng tạo là hoạt động đặc trưng của loài người. Kể từ khi người vượn - tổ tiên của loài người xuất hiện, phải mất hàng triệu năm, người vượn mới tiến hoá lên thành người trí tuệ. Lúc này con người mới biết chế tạo các công cụ lao động. Văn hoá, Văn minh bắt đầu có từ đó, cuối thời Đ á cũ, đầu thời Đá mới. Như vậy có thể thấy, Văn hoá ra đời gắn liền với ho ạt động sáng tạo ra các công cụ lao động của con người. Đó là quá trình con người dựa vào tự nhiên, tìm cách thích ứng với thiên nhiên mà tồn tại. Lao động này của con người đã được C.Mác mô tả là “sự khác biệt giữa lao động của kiến trúc sư và việc làm của một con ong". Thứ hai, Văn hoá phản ánh hành vi, phong cách sống có tính xã hội của một cộng đồng người V ăn hoá là sản phẩm sáng tạo của con người. Song loài người chưa phát triển tới mức các giá trị văn hoá của từng khu vực, địa phương có điều kiện giao thoa hình thành nên một nền văn hoá chung của nhân loại. Mỗi một nền văn hoá, văn minh được hình thành và phát triển trong một cộng đồng người - 17 -
  18. nhất định có các mối quan hệ ràng buộc nhau. Các cộng đồng này có những chênh lệch nhau về trình độ phát triển, sự khác biệt về điều kiện tự nhiên tại nơi cư trú... nên họ xây dựng ra một nền văn hoá riêng mang bản sắc của dân tộc mình. Trên thế giới có những nền văn hoá, văn minh nổi bật như là văn minh Trung quốc, văn minh Ấn độ, văn minh Cận đông, văn minh Hy lạp, văn minh La mã... kéo dài khoảng vài thiên niên kỷ trước công nguyên cho tới vài thiên niên kỷ sau công nguyên. Ngày nay, người dân thuộc những nền văn hoá khác nhau như vậy sẽ có những suy nghĩ khác nhau về cùng m ột sự vật. Chẳng hạn về vấn đề sống thử trước hôn nhân, với người Châu Âu, người Mỹ đó là một việc làm rất đỗi bình thường. Song với các quốc gia Châu Á, là những nơi vốn có truyền thống coi trọng gia đình thì đ ây là một điều khó có thể chấp nhận được. Thứ ba, Văn hoá là nh ững tập quán được sự thừa nhận rộng rãi của mọi người trong cộng đồng V ăn hóa là sản phẩm chủ quan, được phản ánh vào những hành vi và phong cách sống của mỗi một cộng đồng. N ên đương nhiên văn hoá phải được sự xẻ chia chung của mọi người trong cộng đồng đó. Nhiều khi sự thừa nhận những tập quán đó là quá phổ thông tới mức con người vẫn tiếp tục bám vào nó cho dù nó có phản khoa học hay đạo đức. Có thể thấy rõ điều này qua việc người Trung quốc ở một số địa phương vẫn còn duy trì tục lệ bó chân con gái như trước. Hay người Việt nam ngày nay vẫn còn quen ăn gan gà xào giá cho dù khoa học đã chứng minh được cách nấu này có thể làm xuất hiện các độc tố trong thực phẩm. Thói quen này phát sinh từ những tập quán nấu nướng trong các đám giỗ, cỗ bàn trước đây. Thứ tư, Văn hoá tồn tại lâu đời, được truyền từ đời này sang đời khác và không ngừng được bổ sung, làm mới - 18 -
  19. Văn hoá ra đời đi liền với thuở bình minh của nhân loại. Cùng với thời gian, mỗi một thế hệ lại tự cộng thêm những đặc trưng riêng của thế hệ mình vào nền văn hoá của dân tộc trước khi truyền lại cho thế hệ sau. Trong mỗi một thế hệ, thời gian qua đi, những cái mới được thêm vào, những cái cũ có thể bị loại trừ. Bởi thế văn hoá là m ột đối tượng không bao giờ tĩnh tại và bất biến mà ngược lại, văn hoá luôn luôn thay đổi và năng động. Văn hoá biết cách tự điều chỉnh cho phù hợp với tình hình mới, trình độ mới. Có thể thấy rõ điều này qua sự phát triển của văn hoá phương Tây bắt đầu từ Cận đông. Tại đó, cách đây khoảng 4000 năm trước công nguyên, con người đã sống trong làng ấp, đã biết dệt vải, làm đồ gốm, dùng súc vật để cày bừa, trồng ngũ cốc, có các kiến trúc vĩ đại (như Kim tự tháp...) rồi dần dần đi từ một nền văn hoá nông nghiệp lên nền văn hoá đô thị. Ban đầu ở Cận đông có sử dụng các dấu chữ viết Trung quốc, song không theo hình tự, mà đ ể chỉ âm của vần, sau đó qua người Do thái, tới người Hy lạp, người La mã... mà ta có mẫu tự chữ viết A,B,C như ngày nay. Chữ số Ả rập từ con số Ấn độ đã chuyển sang hệ thống số từ 0 đến 9 như hiện nay. Biết nói, biết đọc, biết viết, biết tính toán là một chỉ số văn hoá rất tiêu biểu của từng con người và của cả dân tộc. Khoa học cũng từ đó mà p hát triển theo như toán học giải tích, lượng giác, triết lý, văn chương (như truyện “Nghìn lẻ một đêm”...). N ếu xem xét văn minh nhân loại nói chung, ta có thể thấy văn hoá luôn có tính kế thừa và thay đổi liên tục. Xét theo lịch đại, nhân loại đã chứng kiến tất cả ba nền văn hoá: - Văn hoá, văn minh Cổ đại. - Văn hoá, văn minh Phục hưng. - Văn hoá, văn minh Hiện đại. - 19 -
  20. Ở tầm vi mô, những biểu hiện của văn hoá cũng không ngừng thay đổi. Chẳng hạn như ở Afganistan, dưới thời Taliban, phụ nữ phải mặc trang phục truyền thống, phải trùm khăn kín từ đầu đến chân. Tới nay, khi chế độ Taliban sụp đổ, số phụ nữ từ bỏ trang phục này ngày một nhiều. Thứ năm, Văn hoá có thể được học hỏi Mỗi một cộng đồng người thường xây dựng cho riêng mình một bản sắc văn hoá dân tộc. Song như phân tích ở trên, yếu tố văn hoá thay đổi không ngừng. Điều này một phần là do sự học hỏi, tiếp thu từ những nền văn hoá khác. Chẳng hạn như quê hương của nhạc Rock vốn là các nước châu Âu.Đây là một dòng nhạc dường như còn khá lạ lẫm với người dân châu Á. Nhưng sự thành công vang dội của chương trình nhạc Rock do nhóm Bức tường biểu diễn thu hút tới 7000 khán giả vào ngày 8-11 vừa qua đã phần nào chứng minh về sự thay đổi khẩu vị trong số các thính giả Việt nam. Trên đây là một số các đặc trưng cơ bản của văn hoá nói chung và văn hoá kinh doanh nói riêng. Đối với khái niệm “văn hoá kinh doanh”, ngoài các đặc điểm chung kể trên, còn có các đặc điểm khác như sau: b, Đặc điểm riêng Thứ nhất, Văn hoá kinh doanh là một bộ phận, song lại là cái đặc thù so với văn hoá chung của dân tộc N hư đã nói ở trên, văn hoá kinh doanh là một khái niệm nằm trong khái niệm “văn hoá”. Tuy vậy, không thể đồng nhất văn hoá kinh doanh với nền văn hoá chung của dân tộc, cũng như không thể không phân biệt các “tiểu văn hoá” đặc thù mà các doanh nghiệp khác nhau tạo ra. Thứ hai, Văn hoá kinh doanh xuất hiện cùng sự xuất hiện của hàng hoá và thị trường - 20 -
nguon tai.lieu . vn