Xem mẫu

  1. 1  Luận văn Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về chống tham nhũng và vận dụng vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay
  2. 2 MỤC LỤC Lời mở đầu ..................................................................................................... 3 SƠ LƢỢC VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU ...................................................... 5 1. Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................ 5 2. Mục tiêu, quan điểm về phòng chống tham nhũng .............................. 6 1.1. Mục tiêu......................................................................................... 6 1.2. Quan điểm ..................................................................................... 6 3. Phạm vi nghiên cứu .............................................................................. 6 3.1. Không gian nghiên cứu ................................................................. 6 3.2. Thời gian nghiên cứu .................................................................... 6 3.3. Lĩnh vực nghiên cứu ..................................................................... 6 Chƣơng I: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ THAM NHŨNG Ở NƢỚC TA TRONG THỜI GIAN QUA ...................................................................... 7 1. Thực trạng của tham nhũng ở Việt Nam .............................................. 7 2. Đặc điểm của tham nhũng ở Việt Nam ................................................ 8 3. Nguyên nhân của tham nhũng ở Việt Nam .......................................... 15 Chƣơng II: TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỐNG THAM NHŨNG VÀ VẬN DỤNG VÀO CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .............................................. 18 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham nhũng ..................................... 18 1.1 Đấu tranh, tố cáo nạn tham nhũng trong các chế độ thực dân, đế quốc, thuộc địa và chế độ tay sai bán nước để thức tỉnh quần chúng nhân dân, tiến hành vận động cách mạng .......................... 18 1.2. Đấu tranh chống tham nhũng trong lòng chế độ mới ................... 20 2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng chống tham nhũng trong giai đoạn hiện nay ................................................................................. 24
  3. 3 2.1. Xác định bản chất tham nhũng và chủ trương biện pháp phòng, chống tham nhũng ......................................................................... 24 2.2. Đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong những năm qua và định hướng của Đảng ta ................................................................ 26 3. Các giải pháp phòng chống tham nhũng hiện nay của Đảng ta............ 31 3.1. Đối với các cơ quan Đảng ............................................................. 32 3.2. Đối với cơ quan Nhà nước ............................................................ 34 3.3. Đối với các tổ chức xã hội, cơ quan báo chí và nhân dân............. 37 KẾT LUẬN ....................................................................................................40 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................41 ----------------
  4. 4 LỜI MỞ ĐẦU Theo Từ điển Tiếng Việt thì: “Tham nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu dân và lấy của”. Tham nhũng là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, vị thế xã hội của viên chức Nhà nước để làm trái pháp luật hoặc lợi dụng các sơ hở của pháp luật nhằm kiếm lợi cho bản thân, gây hại cho xã hội, cho công dân. Pháp lệnh chống tham nhũng ngày 26/02/1998 cũng ghi rõ trong điều 1: “Tham nhũng là hành vi của những ngƣời có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ và quyền hạn đó để tham ô, hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho tài sản Nhà nƣớc, tập thể và cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức. Tham nhũng là vật cản lớn nhất của tiến trình phát triển xã hội, là nguy cơ trực tiếp liên quan đến sự sống còn của các Nhà nƣớc”. Mặc dù được thể hiện theo những cách khác nhau, song tham nhũng được hiểu khá thống nhất trong văn hoá pháp lý ở các nước trên thế giới, đó là việc lợi dụng vị trí, quyền hạn thực hiện hành vi trái pháp luật nhằm trục lợi cá nhân, hay nói một cách khác, tham nhũng là việc sử dụng hoặc chiếm đoạt bất hợp pháp công quyền hay nguồn lực tập thể. Tham nhũng là một mối đe dọa đối với sự phát triển, dân chủ và ổn định. Tham nhũng gây nên cái nhìn sai lệch về thị trường, kìm hãm tăng trưởng kinh tế và gây e ngại cho các nhà đầu tư nước ngoài. Tham nhũng làm giảm chất lượng các dịch vụ công và gây xói mòn niềm tin của người dân vào các quan chức, cán bộ Nhà nước. Tham nhũng cũng góp phần gây nên các thiệt hại về môi trường và đe dọa sức khỏe cộng đồng qua việc tạo điều kiện cho các hành vi đổ trái phép vật liệu phế thải độc hại, sản xuất và phân phối dược phẩm giả. Tác hại của tham nhũng đã không dừng lại ở phương diện thiệt hại vật chất hàng ngàn tỷ đồng, hàng trăm triệu đô-la của Nhà nước mà còn là một nhân tố ảnh hưởng đến kinh tế – chính trị, gây mất đoàn kết nội bộ, làm suy giảm uy tín của Đảng và Nhà nước trước nhân dân. Ở nước ta, từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước Xã hội Chủ nghĩa là con đường hoàn toàn mới mẻ. Những năm qua Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách cởi mở, tạo điều kiện để các thành phần kinh tế phát triển. Tuy nhiên hệ thống pháp luật vẫn thiếu đồng bộ, một số văn bản pháp quy vừa mới ban hành đã sớm lạc hậu so với thực tiễn, tạo nhiều sơ hở, dễ bị lợi
  5. 5 dụng. Mặt khác, bước vào cơ chế mới, tâm lý nôn nóng làm giàu có mặt tích cực là động lực thúc đẩy xã hội phát triển, nhưng cũng có mặt tiêu cực là làm cho một số người bị tha hoá, đánh mất chính mình trong chủ nghĩa vị kỷ, hưởng lạc, trong khát vọng làm giàu bằng mọi giá, bất chấp pháp luật, đạo lý. Bộ máy Nhà nước của chúng ta trải qua các thời kỳ lịch sử khác nhau chưa đủ thời gian và kinh nghiệm để cải cách kịp thời, do đó khi bước vào thực hiện đường lối đổi mới của Đảng trên một số mặt đã bộc lộ không ít khuyết điểm. Tình hình đó cùng với hệ thống thủ tục hành chính rườm rà, bộ máy cồng kềnh, tạo môi trường dung dưỡng cho tệ quan liêu tham nhũng. Hệ thống cơ quan tư pháp, hành pháp, thanh tra, kiểm tra chất lượng và hiệu lực, hiệu quả chưa cao. Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa về kinh tế cùng quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, tham nhũng và chống tham nhũng đã trở thành vấn đề nhức nhối của toàn xã hội. Theo tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International – TI), chỉ số minh bạch của Chính phủ Việt Nam thấp và có chiều hướng đi xuống từ 2,8 (năm 1997) xuống còn 2,6 (năm 2005). Đảng và Nhà nước ta xác định, tham nhũng là “quốc nạn”, là một trong những nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ và coi chống tham nhũng là nhiệm vụ thường xuyên của tổ chức Đảng và cả hệ thống chính trị, từ đó yêu cầu chúng ta phải tích cực và chủ động chống tham nhũng có hiệu quả. Đảng, Nhà nước và Quốc hội đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị về việc này (Chỉ thị 15 của Bộ Chính trị; Nghị quyết 114 TTg của TT Chính phủ; Kế hoạch 493/Nc của Chính phủ;... ). Như vậy, Đảng, Nhà nước và nhân dân đều đồng tình kiên quyết chống tham nhũng, nhưng tệ tham nhũng vẫn chưa được đẩy lùi. Do vậy, việc phân tích Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham nhũng sẽ giúp chúng ta hiểu rõ bản chất của hiện tượng phức tạp này, trên cơ sở đó đề ra những biện pháp phòng, chống tham nhũng có hiệu quả trong tình hình hiện nay. Chính vì vậy em đã chọn đề tài: “Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về chống tham nhũng và vận dụng vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay”.
  6. 6 SƠ LƢỢC VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bước vào thế kỷ thứ 21, tất cả thế giới đang vận hành theo xu hướng mới: hoà bình, đối thoại, hội nhập và cùng phát triển. Các ranh giới ngăn cách về kinh tế, chính trị, tôn giáo, sắc tộc đang dần được xoá bỏ. Việt Nam cũng ở trong xu hướng chung đó. Là một nước đang phát triển, Việt Nam gặp phải nhiều vấn đề thách thức trong quá trình hội nhập, nhất là về kinh tế, khoa học – kỹ thuật và công nghệ. Bằng việc phát huy cao độ nguồn nội lực trong nước và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn hỗ trợ từ nước ngoài, Việt Nam đang cố gắng tiến những bước lớn trên con đường phát triển kinh tế. Nhưng có một thách thức lớn đang cản trở con đường ấy, đó là tệ nạn tham nhũng đang ngày càng gia tăng về mức độ phổ biến, quy mô và thủ đoạn. Có thể nói, tham nhũng là vấn đề toàn cầu. Các quốc gia công nghiệp hoá tất nhiên không hề miễn dịch trước tham nhũng và tất cả đều có trách nhiệm tham gia vào việc tìm ra giải pháp. Tuy nhiên, tham nhũng dường như xâm hại với tỷ lệ cao hơn ở các nước đang phát triển và có nền kinh tế đang chuyển đổi. Tham nhũng ngăn cản nhiều nước vượt qua những thách thức nghiêm trọng nhất của phát triển, cản trở đầu tư trong nước và nước ngoài, làm xói mòn niềm tin trong các tổ chức công cộng, niềm tin của nhân dân đối với Chính phủ, và làm tồi tệ thêm vấn đề ngân sách bằng cách lấy đi tài sản của Chính phủ thông qua các khoản thuế quan và thuế thu nhập đáng kể. Mặc dù tham nhũng là một vấn đề đã được đặt ra từ lâu, nhưng việc nghiên cứu và tìm ra các biện pháp phòng chống tham nhũng luôn là một vấn đề bức xúc đối với mọi quốc gia trên thế giới nói chung và đối với sự phát triển của nước Việt Nam nói riêng. Điều này đòi hỏi chúng ta phải tích cực và chủ động chống tham nhũng có hiệu quả. Đó là một nhiệm vụ cấp thiết đang đặt ra cho các nhà luật học nói chung và người nghiêm cứu khoa học luật hình sự nói riêng. Trong chuyên đề nghiên cứu này, chúng ta đi sâu vào việc nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham nhũng và vận dụng vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.
  7. 7 2. Mục tiêu, quan điểm về phòng chống tham nhũng 2.1. Mục tiêu: Ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí; tạo bước chuyển biến rõ rệt để giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế – xã hội; củng cố lòng tin của nhân dân; xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức kỷ cương, liêm chính. 2.2. Quan điểm: - Đảng lãnh đạo chặt chẽ công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của toàn dân; thực hiện đồng bộ các biện pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức hành chính, kinh tế, hình sự. - Phòng, chống tham nhũng, lãng phí phải phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế  xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, củng cố hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh. - Vừa tích cực, chủ động phòng ngừa vừa kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, trong đó phòng ngừa là chính. Gắn phòng, chống tham nhũng lãng phí với xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phát huy dân chủ, thực hành tiết kiệm, chống chủ nghĩa cá nhân, chống quan liêu. - Phòng, chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ vừa cấp bách vừa lâu dài; phải tiến hành kiên quyết, kiên trì, liên tục với những bước đi vững chắc, tích cực và có trọng tâm, trọng điểm. - Kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chú trọng tổng kết thực tiễn và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của nước ngoài. 3. Phạm vi nghiên cứu 3.1. Không gian nghiên cứu: Việt Nam. 3.2. Thời gian nghiên cứu: Hiện nay. 3.3. Lĩnh vực nghiên cứu: Tham nhũng ở Việt Nam.
  8. 8 CHƢƠNG I THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ THAM NHŨNG Ở NƢỚC TA TRONG THỜI GIAN QUA 1. Thực trạng của tham nhũng ở Việt Nam Qua hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn về mọi mặt. Những kết quả đạt được từ việc đổi mới hệ thống chính trị, cơ chế quản lý kinh tế, cải cách hành chính, cải cách tư pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật và hội nhập quốc tế tạo ra tiền đề quan trọng cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Tuy nhiên, cùng với những thành tựu đạt được, công cuộc đổi mới đất nước đang p hải đối mặt với nhiều nguy cơ, trong đó có tệ tham nhũng. Tham nhũng thực ra không phải chuyện mới lạ ở Việt Nam, trong thời chiến chúng ta cũng đã từng có, từng xử nhiều vụ tham nhũng lớn. Tuy nhiên, kể từ thời kỳ đổi mới, nền kinh tế xã hội nước ta có những bước phát triển mạnh mẽ thì cũng đồng thời với một sự đánh đổi là tham nhũng xảy ra nhiều hơn với mức độ ngày càng nghiêm trọng hơn. Tham nhũng có ở mọi nơi, mọi lúc, nó len lõi đến mọi ngõ ngách, mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân; làm giảm uy tín của Đảng và Nhà nước, cản trở công cuộc phát triển đất nước của chúng ta. Ở nhà thấy tham nhũng (tin tức trên báo chí, ti-vi), ra đường gặp tham nhũng, vào bệnh viện, đến trường học, đến cơ quan công quyền... đâu đâu cũng có thể chứng kiến tham nhũng. Đó là những vụ nhỏ lẻ, còn có những vụ rút ruột công trình xây dựng (được cho là thất thoát trung bình từ 30 – 40%), mua sắm trang thiết bị, những vụ tham nhũng theo “mô hình tập đoàn"… mà các vụ được phát hiện càng về sau cứ “lớn nhất từ trước đến nay”. Tham nhũng xuất hiện trong mọi khâu, mọi lĩnh vực, ở mọi ngành, mọi cấp. Từ các cơ quan quản lý, các đơn vị hành chính sự nghiệp tới các doanh nghiệp nhà nước, hiệp hội, tổ chức... Tham nhũng không loại trừ các cơ quan bảo vệ pháp luật (tòa án, viện kiểm sát, quân đội, cảnh sát...) và thậm chí ngay cả ở cơ quan chống tham nhũng. Đến nay chúng ta chưa có những nghiên cứu toàn diện và bài bản để đánh giá, đo lường mức độ tham nhũng. Tuy nhiên, trên thế giới đã có một tổ chức làm việc đó, đó là Transparency International (TI – Tổ chức Minh bạch
  9. 9 Quốc tế). Hàng năm, tổ chức này tiến hành các công trình khảo sát nghiên cứu ở các quốc gia (do các viện nghiên cứu độc lập triển khai), tổng hợp kết quả, tính toán chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI) và đưa ra bảng xếp hạng minh bạch các quốc gia. Mức độ tham nhũng càng cao nếu chỉ số CPI càng thấp. Năm 2008, tổ chức TI tiến hành khảo sát 180 quốc gia và vùng lãnh thổ, kết quả xếp hạng: Việt Nam đứng thứ 121, cải thiện được hai bậc so với năm 2007 với chỉ số CPI là 2,7 điểm. Xét trong khu vực Đông Á, Việt Nam đứng thứ 9; còn Singapore với chỉ số CPI là 9,2 điểm, đứng đầu khu vực về độ trong sạch (đứng thứ 4 trong số 180 quốc gia và vùng lãnh thổ), theo sau là Hồng Kông và Nhật. Đáng buồn là Việt Nam luôn đứng ở nhóm cuối trong bảng xếp hạng này và không những thế còn có xu hướng “rớt hạng”. Nhận thức sâu sắc về tác hại của tham nhũng, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách, pháp luật về vấn đề này, bên cạnh đó đã tham gia tích cực các diễn đàn quốc tế về phòng, chống tham nhũng. Sau khi Luật phòng, chống tham nhũng có hiệu lực (01/06/2006) đã tác động đến nhận thức và hành động của các cấp các ngành trong việc đấu tranh chống tham nhũng và tạo ra bước chuyển biến khá tích cực. Tuy nhiên tình trạng tham nhũng vẫn diễn biến khá phức tạp trên nhiều lĩnh vực, nhất là trong quản lý, sử dụng đất đai, đầu tư xây dựng, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước, gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, tiềm ẩn các xung đột lợi ích, phản kháng về xã hội, làm tăng thêm khoảng cách giàu nghèo. Tham nhũng trở thành vật cản lớn cho thành công của công cuộc đổi mới, cho sức chiến đấu của Đảng, đe dọa sự tồn vong của chế độ. 2. Đặc điểm của tham nhũng ở Việt Nam Ở Việt Nam, các nhà khoa học pháp lý nhìn nhận tham nhũng trên các bình diện: chính trị, kinh tế, pháp lý, đạo đức, truyền thống… và đặc biệt là bằng công cụ của tội phạm học để ghi nhận tính chất, đặc điểm và mức độ của tham nhũng. Thứ nhất, chủ thể của tham nhũng phải là những người có chức vụ quyền hạn làm việc trong bộ máy Nhà nước ở các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp từ Trung ương đến địa phương, cán bộ Đảng và các đoàn thể.
  10. 10 Thứ hai, người có chức vụ, quyền hạn đã thực hiện hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn, lợi dụng địa vị công tác được giao để không làm hoặc làm trái với công vụ mà mình phải thực hiện và thực hiện đúng qui định của pháp luật, gây thiệt hại chung cho lợi ích của Nhà nước, xã hội và công dân. Thứ ba, người có chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi với động cơ vụ lợi cho bản thân, cho người khác hoặc một nhóm người mà mình quan tâm. Về bản chất, tham nhũng là một hiện tượng xã hội phản ánh các yếu tố chính trị, kinh tế, văn hoá, truyền thống, tập quán của một dân tộc, một quốc gia; tham nhũng bao gồm những hành vi nguy hiểm ở mức độ cao cho xã hội, nhà nước và nhân dân. Hậu quả do tham nhũng gây ra cực kỳ lớn cho xã hội, hậu quả này không chỉ phải là những thiệt hại về vật chất với nhiều tỷ đồng, mà điều quan trọng hơn, nó làm tha hoá một bộ phận của cán bộ, công chức của bộ máy Nhà nước, trong tổ chức Đảng và các đoàn thể xã hội, làm xói mòn lòng tin của nhân dân vào bộ máy Nhà nước, gây nên sự bất bình, oán thán trong nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội, làm giảm hiệu lực quản lý của Nhà nước, đe doạ sự tồn vong của quốc gia dân tộc. Tham nhũng là tệ nạn mang tính chất toàn cầu, tuy nhiên không phải ở bất kỳ nơi nào trên thế giới biểu hiện, tính chất, phạm vi của tham nhũng cũng giống nhau mà ở mỗi quốc gia đều có sự khác nhau do đặc điểm về kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau. Qua nghiên cứu, có thể thấy được tham nhũng ở Việt Nam có những đặc điểm sau: Thứ nhất, về tính chất của tham nhũng ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay chưa ở mức đặc biệt nghiêm trọng so với khu vực và thế giới. Khi nói đến tính chất của hành vi vi phạm hoặc hành vi phạm tội, người ta thường xác định ở mức độ gây ra thiệt hại của hành vi (thiệt hại về vật chất và phi vật chất) và quan hệ xã hội được bảo vệ bị hành vi đó xâm hại. Xét cả trên hai bình diện này thì tham nhũng ở Việt Nam chưa đến mức trầm trọng như tham nhũng ở một số nước trên thế giới bởi những lý do sau: - Theo thống kê và báo cáo của các cơ quan có trách nhiệm đấu tranh chống tham nhũng thì những thiệt hại về vật chất do tham nhũng gây ra ít hơn rất nhiều so với những thiệt hại do các loại vi phạm khác gây ra, hàng năm thiệt hại do tham nhũng gây ra khoảng vài trăm tỷ đồng trong khi đó thiệt hại do những vi phạm và tội phạm khác gây ra là hàng trăm nghìn tỷ đồng. Mặt khác, theo báo cáo của cơ quan công an thì các tội tham nhũng trong những
  11. 11 năm qua có xu hướng giảm, chẳng hạn: Năm 1997 cơ quan điều tra các cấp đã phát hiện, khởi tố 3856 vụ án kinh tế (tăng 5,6% so với năm 1996), trong đó các tội về tham nhũng tăng đáng kể: tham ô 594 vụ (tăng 14%), lừa đảo chiếm đoạt tài sản Xã hội Chủ nghĩa (có liên quan đến cán bộ trong các cơ quan Nhà nước) 273 vụ (tăng 37,1%); lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Xã hội Chủ nghĩa 350 vụ (tăng 3,2%). Năm 1998, khởi tố 3546 vụ án kinh tế (giảm 8,1% so với năm 1997), trong đó tham ô 534 vụ, lừa đảo 217 vụ, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Xã hội Chủ nghĩa 284 vụ. Năm 1999, khởi tố 3016 vụ án kinh tế (giảm 15,% so với năm 1998), trong đó: tham ô 465 vụ; lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Xã hội Chủ Nghĩa 169 vụ... - Chưa có tham nhũng chính trị ở Việt Nam với những biểu hiện như đầu cơ chính trị, buôn bán chức quyền trong bộ máy cơ quan Nhà nước... vì thế tham nhũng chưa xâm hại đến sự tồn tại của chế độ , đến nền độc lập và chủ quyền quốc gia của dân tộc. Đồng thời tham nhũng ở Việt Nam chưa có nguy cơ gây khủng hoảng nền kinh tế, chính trị và xã hội. - Lâu nay ở Việt Nam, khi đánh giá tham nhũng thường theo quan điểm của cơ quan điều tra, thường lấy số lượng các vụ án kinh tế để chứng minh nạn tham nhũng. Do vậy, những con số về thiệt hại do tham nhũng của các cơ quan có trách nhiệm chưa đúng với bản chất của tham nhũng nên cách nhìn nhận và đánh giá đó chưa chuẩn xác vì: các bị can, bị cáo về kinh tế, không phải tất cả họ đều bị xét xử về tội tham nhũng mà phần nhiều họ bị chịu trách nhiệm về hành vi thiếu trách nhiệm hoặc cố ý làm trái… tội phạm không có động cơ vụ lợi hoặc không do lợi dụng chức vụ quyền hạn để vụ lợi. Các cán bộ bị kỷ luật hành chính liên quan đến các vụ án cũng là do phải chịu trách nhiệm về hành vi quản lý (chủ quan, buông lỏng quản lý, năng lực quản lý yếu kém mà thực chất là quan liêu) chứ không phải do hành vi tham nhũng. Chẳng hạn: Những vụ án gần đây như Tân Trường Sanh, Minh Phụng – EPCO… trừ một số cán bộ cấp phòng, sở, cục của hai ngành Hải quan và Ngân hàng bị truy tố về các tội tham nhũng còn đa phần các cán bộ khác, kể cả những cán bộ chủ chốt của hai ngành đó chỉ bị xử lý về trách nhiệm quản lý, dễ dãi trong quan hệ, chứ không phải tham nhũng. Hoặc trong vụ án được coi lớn nhất trong lịch sử tư pháp Việt Nam được xét xử tại Thành phố Hồ Chí Minh – Vụ án Trương Văn Cam và đồng bọn có liên quan đến rất nhiều quan chức trong ngành tư pháp từ Trung ương đến địa phương, nhưng tài sản có được do tham nhũng không nhiều (vài chục ngàn đô-la và những bữa tiệc
  12. 12 tại các nhà hàng sang trọng cho mỗi quan chức) và có nhiều quan chức chỉ bị truy cứu trách nhiệm về hành vi thiếu trách nhiệm trong quản lý mà không bị truy cứu trách nhiệm về các hành vi tham nhũng mà điển hình là bị cáo Bùi Quốc Huy, nguyên Giám đốc Công an Thành phố Hồ Chí Minh, nguyên thứ trưởng Bộ Công an, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng... Cũng cần phải nói thêm là, số tài sản bị thất thoát trong các vụ án ki nh tế không phải đều là tài sản bị tham nhũng mà phần nhiều là do làm ăn thua lỗ hoặc là hậu quả của phương thức làm ăn sai lầm của các doanh nghiệp. Từ sự phân tích trên có thể nhận định về tính chất tham nhũng ở Việt Nam chưa đến mức trầm trọng như lâu nay chúng ta vẫn nghĩ. Nhận thức đúng thực trạng tham nhũng tránh được cho chúng ta hai khuynh hướng tiêu cực: hoặc quá bi quan về nạn tham nhũng hoặc quá lạc quan về sự trong sạch của đội ngũ cán bộ trong các cơ quan Nhà nước và tổ chức xã hội. Vì vậy, vấn đề nhận thức đúng bản chất của thực trạng tham nhũng có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc hoạch định các chính sách và biện pháp đấu tranh phòng ngừa tham nhũng trong tình hình hiện nay, đặc biệt trong việc tuyên truyền đến nhân dân về tham nhũng và đấu tranh chống tham nhũng trên các phương tiện thông tin đại chúng. Thứ hai, tham nhũng ở nước ta chưa có các tổ chức theo kiểu Maphia Theo cách hiểu thông thường của các quốc gia và tổ chức quốc tế về đấu tranh chống tội phạm thì Maphia là những băng nhóm phạm tội có tổ chức chặt chẽ, có sự phân công phối hợp khi hành động phạm tội, đồng thời việc thực hiện tội phạm mang tính chất chuyên nghiệp (Luật hình sự gọi với các tên: Tổ chức phạm tội, tập đoàn phạm tội, băng nhóm phạm tội...) và có sự tham gia cấu kết của các quan chức chính phủ. Diễn giải theo công thức thì Maphia = Tội phạm có tổ chức + Sự cấu kết của quan chức chính phủ. Ở những nước khác, tham nhũng không còn chỉ là những hiện tượng đơn lẻ của cá nhân các quan chức mà đã thành một đường dây với sự tham gia của hệ thống quan chức các cấp, các ngành cùng với sự chỉ đạo, bày mưu, tính kế của các quan chức cấp cao trong bộ máy Nhà nước, kể cả những người đứng đầu chính phủ, đứng đầu Nhà nước. Vì thế, các hoạt động tội phạm được thực hiện thống nhất, trắng trợn chiếm đoạt tài sản công, bòn rút tiền viện trợ, giao cho con cháu, họ hàng thân thích quản lý những tập đoàn kinh tế lớn với các ưu đãi đặc biệt trong hoạt động kinh tế. Điều tồi tệ hơn là những hành vi tham nhũng đó của các quan chức được sự hỗ trợ của các băng nhóm xã hội đen để
  13. 13 gây áp lực với đối thủ, giết người để bịt đầu mối hoặc thực hiện những tội ác man rợ khác... Chúng ta đã biết nhiều đến Maphia Italia với mẫu hình này và hiện đang nổi lên Maphia của Nga trong thời Boris Ensin và hiện nay... Trên cơ sở quan niệm này, đối chiếu với thực trạng của tình hình tham nhũng ở Việt Nam thời gian qua thì ở nước ta chưa có tham nhũng theo kiểu Maphia vì: Những năm qua chúng ta chưa xử lý (hoặc chưa phát hiện được) những cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước về hành vi tham nhũng, nhất là những cán bộ giữ các vị trí chủ chốt trong các cơ quan Đảng, Quốc hội, Chính phủ mà chúng ta mới chỉ phát hiện và xử lý một số cán bộ trong các ngành Hải quan, Ngân hàng, Công an, Viện Kiểm sát... nhưng họ chỉ là những cán bộ sơ, trung cấp. Chúng ta cũng kỷ luật vài Đảng viên và chính quyền một số cán bộ cao cấp nhưng phần lớn những người đó không phải bị chịu trách nhiệm về tham nhũng mà họ chỉ phải chịu trách nhiệm về công tác quản lý mà họ không hoàn thành hoặc chủ quan, lơi lỏng mất cảnh giác trong khi thực thi nhiệm vụ. Điều quan trọng hơn để khẳng định ở nước ta chưa có tham nhũng theo kiểu Maphia là những cán bộ bị xử lý về tham nhũng đều không phải là những người chủ động, bày mưu tính kế, đều không phải là những người tổ chức, chỉ huy, cầm đầu trong các vụ án mà chỉ là những kẻ tha hoá, biến chất, đồng lõa, bị những kẻ phạm tội từng bước lôi kéo vào làm vai trò giúp sức cho chúng. Vụ án Trương Văn Cam và đồng bọn mặc dù là vụ án lớn, có nhiều quan chức tham gia nhưng tất cả họ đều chỉ là những người bị Trương Văn Cam lôi kéo, lợi dụng, từ Dương Minh Ngọc, Nguyễn Mạnh Trung đến Trần Mai Hạnh, Phạm Sỹ Chiến, Bùi Quốc Huy... không một ai trong số họ là người chủ động tham gia băng nhóm tội phạm này. Như vậy, nhìn nhận một cách khách quan thì ngoài một số cán bộ sơ, trung cấp, còn lại thì tuyệt đại bộ phận cán bộ và đặc biệt là cán bộ cao cấp trong Bộ máy Đảng và Nhà nước ta là những người có đạo đức phẩm chất tốt, nhiệt tình, tâm huyết với sự nghiệp cách mạng, không cầm đầu hoặc tham gia các đường dây tham nhũng, không chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, không đồng lõa tiếp tay cho cho bọn tội phạm, không vòi vĩnh nhận hối lộ khi thi hành công vụ. Ở những người này, họ luôn rèn luyện cho mình đạo đức cách mạng, năng lực chuyên môn để phục vụ tốt cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, họ tự biết có những thu nhập ngoài lương (nếu có) thì như thế nào cho trong sạch, thanh thản, biết tự kiềm chế mình trước cám dỗ vật chất, tỉnh táo và giữ được lương tâm của mình trước những diễn biến phức tạp của đời sống
  14. 14 kinh tế thị trường. Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể quá lạc quan mà mất cảnh giác, lơ là việc chăm lo giáo dục phẩm chất và tư cách đạo đức của đội ngũ cán bộ, công chức ở nước ta. Những phẩm chất tốt đẹp này là “tài sản” quý giá của sự nghiệp cách mạng, của Đảng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vì vậy, chúng ta phải luôn có biện pháp thích hợp giáo dục bồi dưỡng tư cách đạo đức, phẩm chất cách mạng cho cán bộ, có những biện pháp quản lý có hiệu quả không để cán bộ sa ngã, tham nhũng, đi theo tiếng gọi của đồng tiền, đồng lõa với những kẻ phạm tội. Mặt khác, việc chưa phát hiện được cán bộ câu kết, chủ động tham gia chỉ huy, điều hành các đường dây phạm tội không đồng nghĩa với việc cán bộ không có những biểu hiện đó. Do đặc điểm nhân thân của các hành vi tham nhũng nên việc phát hiện nó vô cùng khó khăn. Việc đó càng khó khăn khi có các quan chức cấp cao tham gia nên phần tội phạm ẩn của tham nhũng rất lớn. Trong khi đó cơ chế, tổ chức, phương tiện, kinh nghiệm điều tra phát hiện loại tội phạm này còn nhiều hạn chế, vì vậy chúng ta không nên quá lạc quan mà nên có thái độ khách quan đón nhận sự việc một cách bình tĩnh. Thứ ba, tham nhũng ở nước ta mang tính phổ biến, nhỏ nhặt xảy ra ở tất cả các cấp, các ngành, các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Do những điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội, đạo đức truyền thống mà nạn tham nhũng ở nước ta trong thời kỳ hiện nay không to, không mang tính chất đặc biệt nghiệm trọng như các quốc gia khác (như đã nói ở phần đặc điểm thứ nhất), mà nhỏ nhặt (vụ lớn cũng chỉ vài trăm ngàn đôla), thậm chí nó còn nhỏ nhặt tới mức tiền hoặc tài sản của đương sự hối lộ cho các quan chức chỉ trên mức quà biếu thông thường một chút mà xã hội có thể chấp nhận được, nhưng nó lại mang tính phổ biến. Và điều nguy hại nhất của tệ nạn tham nhũng ở nước ta lại nằm ở chính đặc điểm này, nó cũng chính là nguyên nhân của việc đấu tranh chống tham nhũng của các cơ quan chức năng kém hiệu quả, làm cho thói quen nhận hối lộ của quan chức và việc đưa hối lộ của người dân khi có việc trở thành bình thường trong đời sống hằng ngày, thậm chí còn co i là văn hoá ứng xử khi đến làm việc tại cơ quan công quyền và chính việc nhận và đưa hối lộ trở thành bình thường đã dẫn đến việc tham nhũng ở nước ta mang tính phổ biến. Vì vậy, không có giải pháp tích cực nó sẽ phát triển trở thành một qui luật trong hoạt động công quyền thì hậu quả sẽ khó lường cho sự phát
  15. 15 triển của đất nước, của dân tộc. Tính phổ biến của tham nhũng Việt Nam được biểu hiện trên các mặt sau: - Tham nhũng bao trùm tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, ở mọi cấp mọi ngành, ở đâu người ta cũng thấy có tham nhũng và không có tiền lót tay sẽ không giải quyết được công việc, ngay cả khi đã đầy đủ các điều kiện và thủ tục pháp luật qui định. Nạn quà cáp biếu xén khi đến cửa quan đã trở thành “tập quán”, phong tục trong xã hội ta. Chúng ta có thể gặp hiện tượng này ở bất kỳ đâu nơi có hoạt động công quyền, chẳng hạn như đến Ủy ban Nhân dân xã, phường làm giấy khai sinh cho con, chứng nhận giấy tờ... cũng phải có quà cho cán bộ, vào cơ quan cũng phải xu nịnh bảo vệ... Đặc điểm này đã gây nhức nhối, làm băng hoại đạo đức của cán bộ công quyền, đe doạ sự tồn tại của Nhà nước, sự bền vững của chế độ và sự lãnh đạo của Đảng. - Tham nhũng không chỉ xảy ra ở cơ quan hành pháp mà còn xảy ra nhiều ở cơ quan thanh tra, kiểm tra, cơ quan tiến hành tố tụng (cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Toà án, thi hành án). Sự tham nhũng ở các cơ quan này đã làm cho vi phạm và tội phạm không bị phát hiện hoặc không được xử lý, bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội với những hậu quả vô cùng nặng nề. Sau khi có Nghị Quyết 08 của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp, trong báo cáo của ngành Toà án năm 2002 đã công khai những trường hợp làm oan người vô tội (những người các cấp xét xử của toà án tuyên không phạm tội), tổng số 58 trong đó: Sơ thẩm cấp huyện 27 người; sơ thẩm cấp tỉnh 28 người; phúc thẩm cấp tỉnh 4 người, phúc thẩm tối cao 12 người; giám đốc thẩm cấp tỉnh 3 người; giám đốc thẩm cấp tối cao 4 người. Đó là chưa kể các quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án vì lý do không có tội của cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát. - Tham nhũng xảy ra trong một bộ phận cán bộ quân đội, nhất là số làm kinh tế, phụ trách tài chính  hậu cần có trách nhiệm cấp phát trang, thiết bị cho Quân đội. Đây là lĩnh vực tương đối khép kín, các cơ quan chuyên trách kiểm tra, thanh tra của Nhà nước không vào được do đặc điểm bí mật quân sự. - Ở nước ta khi chuyển sang cơ chế thị trường có một dạng tham nhũng đặc thù là một số kẻ lợi dụng các quan hệ với các quan chức để mưu lợi riêng, như chạy thầu, chạy vốn, chạy dự án cho nhà đầu tư, cho doanh
  16. 16 nghiệp, chạy chức quyền cho người cơ hội, dùng tiền để phân hoá, g ây mất đoàn kết nội bộ cơ quan. - Tham nhũng trong một bộ phận làm báo chí (phóng viên, biên tập viên, người có trách nhiệm của các báo và quản lý hoạt động báo chí). Do tư lợi mà những người này dùng báo chí để dọa dẫm, vòi vĩnh doanh nghiệp và quan chức, dùng báo chí để phục vụ mưu đồ của người này, người kia, muốn hại ai thì dùng tiền để đưa lên báo chí gây rối xã hội. - Tham nhũng đã xuất hiện trong đông đảo cán bộ cấp cơ sở, những “quan lại” mới ở nông thôn bớt xén tiền do dân đóng góp, tiền từ đầu tư của Nhà nước, tiền thuế, tiền viện trợ nhân đạo của các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước. 3. Nguyên nhân của tham nhũng ở Việt Nam Thực trạng trên do nhiều nguyên nhân, có nguyên nhân thuộc về khách quan, có nguyên nhân chủ quan. Có thể khái quát bao gồm những nguyên nhân sau: Thứ nhất, hệ thống chính sách, pháp luật chƣa đồng bộ: Đây là nguyên nhân đầu tiên, quan trọng, có tính quyết định. Sự nghiệp đổi mới mà trọng tâm là đổi mới quản lý kinh tế với việc xác định phát triển nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa đã đặt ra yêu cầu hết sức quan trọng là phải xây dựng một hệ thống cơ chế chính sách pháp luật đầy đủ và từng bước hoàn thiện. Trong khi đó, mặc dù chúng ta có nhiều cố gắng nhưng việc xây dựng thể chế pháp luật vẫn không theo kịp, mặt khác chưa phản ánh và điều chỉnh kịp thời những vấn đề đang đặt ra trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường có định hướng. Cơ chế chính sách pháp luật trong thời kỳ đổi mới chưa được hoàn thiện, thiếu cụ thể, còn có sơ hở và thiếu nhất quán. Việc phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa phương, việc phân biệt giữa quản lý Nhà nước và quản lý sản xuất kinh doanh còn chưa được tách bạch, rõ ràng. Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước còn diễn ra chậm và thiếu sự kiểm soát chặt chẽ. Cơ chế quản lý tài sản công, quản lý vốn và tài sản trong doanh nghiệp Nhà nước chưa chặt chẽ dẫn đến tình trạng “vô chủ”, thiếu trách nhiệm... Những nhược điểm đó làm nảy sinh tệ quan liêu, tham nhũng và thiếu kỷ cương, tạo điều kiện cho tệ hối lộ, lạm dụng công quỹ, nhũng nhiễu cấp dưới và nhân dân.
  17. 17 Thứ hai, việc kiện toàn các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị chƣa theo kịp sự phát triển của đời sống kinh tế – xã hội: Đây là một nguyên nhân rất quan trọng của những yếu kém và bất cập trong quá trình đổi mới đất nước, trong đó có tệ nạn tham nhũng. Một quốc gia quản lý tốt phải có bộ máy Nhà nước tốt. Ở nước ta, sự quản lý, lãnh đạo điều hành đất nước là sự thống nhất và phối hợp giữa vai trò lãnh đạo của Đảng, trách nhiệm quản lý của Nhà nước và sự tham gia tích cực của các tổ chức chính trị – xã hội, đoàn thể quần chúng. Các yếu tố trong hệ thống chính trị phải thực hiện đúng vai trò của mình thì mới phát huy được tác dụng. Hiện nay, sự lẫn lộn giữa các yếu tố trong hệ thống chính trị vẫn chưa được khắc phục, làm giảm hiệu quả lãnh đạo quản lý điều hành xã hội, gây ra nhiều tệ nạn trong đó có tham nhũng. Thứ ba, một bộ phận cán bộ, công chức thiếu tính chuyên nghiệp, ý thức tu dƣỡng, rèn luyện kém về tƣ tƣởng chính trị, đạo đức lối sống còn thấp: Trước tác động của mặt trái của cơ chế thị trường, nhiều cán bộ, công chức do không tự giác rèn luyện, tu dưỡng đã chạy theo các lợi ích riêng trước mắt dẫn đến vi phạm pháp luật, nảy sinh tham nhũng. Giá trị đạo đức “cần, kiệm, liêm, chính” nhiều lúc bị chủ nghĩa thực dụng, cá nhân lấn át. Công tác quản lý, giáo dục, kiểm tra cán bộ, công chức bị buông lỏng, yếu kém, không theo kịp với tình hình. Việc sử dụng, quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ chưa được thường xuyên bồi dưỡng, đào tạo nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, trau dồi phẩm chất chính trị. Nhiều tổ chức Đảng, thủ trưởng cơ quan quản lý cán bộ, Đảng viên còn lỏng lẻo, chế độ sinh hoạt, kiểm điểm công tác bị bỏ bê hoặc mang tính hình thức, sức chiến đấu của các chi bộ, Đảng bộ bị hạn chế, công tác phê bình và tự phê bình kém. Một số cán bộ chủ chốt các cấp chưa tự giác tự phê bình và phê bình, chưa làm gương cho cán bộ, Đảng viên trong đấu tranh chống tham nhũng. Còn tình trạng e dè, nể nang hoặc vì lợi ích cục bộ mà không dám đấu tranh với các vi phạm của cán bộ, Đảng viên trong chi bộ, tổ chức của mình. Việc xử lý cán bộ vi phạm còn chậm trễ, thiếu nghiêm khắc, nương nhẹ, thậm chí còn bao che lẫn nhau, vẫn còn có những vụ việc có biểu hiện “trên nhẹ, dưới nặng”, không xử lý hoặc xử lý không nghiêm về trách nhiệm đối với người đứng đầu nơi để xảy ra những vụ tiêu cực, tham nhũng lớn. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khoá X) nhận định “Công tác cán bộ nói chung và việc quản lý, giáo dục cán bộ,
  18. 18 Đảng viên, công chức nói riêng còn yếu kém. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, Đảng viên, công chức suy thoái về tƣ tƣởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống. Không ít cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, các ngành, kể cả cán bộ lãnh đạo cao cấp, còn thiếu gƣơng mẫu trong việc giữ gìn phẩm chất đạo đức; chƣa đi đầu trong cuộc sống đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và thực hành tiết kiệm”. Thứ tƣ, việc tổ chức thực hiện các chủ trƣơng, giải pháp về phòng, chống tham nhũng đƣợc đề ra trong những năm qua chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu, hiệu quả chƣa cao: Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng, phổ biến. Đánh giá về hệ thống chính sách pháp luật về phòng, chống tham nhũng của nước ta có thể nói đã khá tiến bộ (đánh giá của nhiều tổ chức quốc tế), tuy nhiên, hiệu quả thực hiện chưa đáp ứng được mong muốn của các tầng lớp nhân dân. Việc tổ chức thực hiện ở nhiều nơi, nhiều lúc còn mang tính phong trào, chưa tạo được ý thức tự giác, thường xuyên của các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực. Qua các cuộc thanh tra trách nhiệm thực hiện Luật phòng, chống tham nhũng cho thấy ngoài ý thức thực hiện của các cơ quan, đơn vị còn có những khó khăn khác về điều kiện vật chất, con người trong việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức về các quy định phòng, chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước, nhằm tạo tiền đề cho việc triển khai có hiệu quả trong thực tiễn. Thứ năm, thiếu một chƣơng trình, kế hoạch phòng, chống tham nhũng tổng thể, dài hạn: Trước khi Chính phủ ban hành Chiến lược quốc gia về phòng, chống tham nhũng đến năm 2020, chúng ta chưa xây dựng được một chương trình, kế hoạch phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng thống nhất đồng bộ, vừa có tính chiến lược lâu dài, vừa có trọng tâm, trọng điểm trong từng giai đoạn nhằm huy động và phối hợp sức mạnh của toàn thể bộ máy trong phòng, chống tham nhũng.
  19. 19 CHƢƠNG II TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỐNG THAM NHŨNG VÀ CÔNG CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về chống tham nhũng Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham nhũng là bộ phận hợp thành quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh. Nét đặc sắc và nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham nhũng đã và đang được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta vận dụng vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong giai đoạn hiện nay. Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ, là chiến sĩ lỗi lạc của phong trào giải phóng dân tộc ở thế kỷ 20, đồng thời cũng là lãnh tụ, là chiến sĩ tiên phong chống tham nhũng – một vấn đề mang tính toàn cầu. Bởi vì hiếm có một lãnh tụ nào, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình lại kiên trì, liên tục và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng như Hồ Chí Minh. Người luôn lên án nạn tham nhũng ở các chế độ thực dân, đế quốc, thuộc địa, tay sai trước kia và cả trong chế độ mới của chúng ta. Sự thống nhất tuyệt đối giữa nói và làm, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng và tự mình nêu tấm gương sáng nhất về đạo đức cách mạng “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” đã làm nên nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và trong tư tưởng chống tham nhũng nói riêng. Tư tưởng chống tham nhũng của Người thể hiện qua những nội dung cơ bản sau: 1.1. Đấu tranh, tố cáo nạn tham nhũng trong các chế độ thực dân, đế quốc, thuộc địa và chế độ tay sai bán nƣớc để thức tỉnh quần chúng nhân dân, tiến hành vận động cách mạng Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, khi còn đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã viết rất nhiều bài báo, phóng sự tố cáo nạn tham nhũng trong các loại quan chức chính quyền thực dân ở Đông Dương, coi tham nhũng là hiện tượng bản chất của chế độ này, Người viết: “Trong cái xứ này, do thiếu sót hay nói đúng hơn do ý định của Chính phủ, nên đâu đâu từ trên xuống dƣới cũng đều có nạn tham nhũng mua quan bán tƣớc” (1). ______________________________ (1) Báo L’ Populaire, ngày 04/09/1919; Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 1, tr.12 – 13.
  20. 20 Trong “Bản án chế độ thực dân Pháp”, viết bằng tiếng Pháp, xuất bản tại Paris năm 1925, Nguyễn Ái Quốc đã dành hẳn một chương để viết về nạn tham nhũng trong bộ máy cai trị, của những kẻ tự xưng là “quan phụ mẫu” của dân. Người vạch ra các thủ đoạn phung phí tiền của dân cho việc tham quan, triển lãm, tiếp khách, giải trí, mua sắm biệt thự, xe cộ, các thủ đoạn rút tiền từ việc nhận thầu các công trình xây dựng, làm đường, khai man để rút tiền công quỹ, chi tiêu sử dụng cho riêng mình. Tệ tham ô cùng các thủ đoạn bóc lột làm cho gánh nặng thuế khoá đè lên vai người dân thuộc địa. Trong bài báo “Văn minh Pháp ở Đông Dương” viết bằng tiếng Đức, đăng trên tập san Inprekorr, số 17 (1927), với bút danh A.P, Người đã tố cáo sự thối nát của thực dân Pháp qua thú nhận của tờ L' Impartial của Pháp ở Đông Dương rằng viên thống đốc Cônhắc đã phạm một loạt hành động tham nhũng. Cả người “Đảng viên xã hội” Varen cũng tham gia hăng hái vào việc tham nhũng vì chỉ “vài tháng sau khi tới Đông Dương, ông ta đã gửi về Pháp 74 hòm tặng phẩm có trọng lượng 4.810 kg và kích cỡ là 30 mét khối”. Trong bài báo “Phong trào nông dân tỉnh Quảng Đông” viết bằng tiếng Anh ngày 16/10/1925, với bút danh Nilôpxki, Người cũng tố cáo nạn tham nhũng trong bộ máy chính quyền cũ ở Trung Quốc. Trong tập thơ “Nhật ký trong tù” viết bằng chữ Hán, Người tố cáo nạn tham nhũng trong nhà tù của chế độ Tưởng Giới Thạch, qua bài Lai Tân: “Ban trƣởng nhà lao chuyên đánh bạc. Giải ngƣời, cảnh trƣởng kiếm ăn quanh. Chong đèn, huyện trƣởng làm công việc. Trời đất Lai Tân vẫn thái bình” (2). Sau Cách mạng tháng Tám 1945, trong bài “Công lý của Mỹ” đăng trên báo Cứu quốc, số 1877, ngày 06/08/1951, ký bút danh Đ.X. Người tố cáo chế độ xã hội Mỹ nhân danh công lý, tự do, dân chủ, nhân quyền, nhưng “Quốc hội Mỹ đã thừa nhận những tổ chức chính trị, kinh tế, tài chính, pháp luật, báo chí của Mỹ thông đồng với lũ trộm cƣớp để ăn hối lộ và để trị những công nhân và công chức giác ngộ. Và vì vậy nên Mỹ không trị những bọn trộm cƣớp đó” (3). Trong bài “Tâm lý của binh sĩ Hoa Kỳ” đăng báo Nhân Dân, số 4384, ngày 07/04/1966, với bút danh Chiến Sĩ, Người đã nêu bức thư của một binh sĩ Mỹ ở Nam Việt Nam gửi bạn ở Hoa Kỳ biểu thị thái độ phản chiến vì phải chiến đấu để bảo vệ chế độ tham nhũng làm tay sai Mỹ. Bức thư có đoạn: _____________________________ (2) Hồ Chí Minh, Nhật ký trong tù, Nxb. Phổ thông, Hà Nội, 1960. (3) Báo Cứu quốc, số 1877, ngày 06/08/1951.
nguon tai.lieu . vn