Xem mẫu

  1. - - - - - - ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP Thực trạng, giải pháp phát triển ngành công nghiệp đóng tàu biển và vai trò của ngành này trong chuyên chở hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam những năm gần đây
  2. Trần Thị Hồng Bích – A7K38B LỜI MỞ ĐẦU Việt Nam là một quốc gia biển, có một nửa biên giới giáp với biển từ phía Đông, Nam và Tây Nam bao gồm 3.260km bờ biển từ Bắc vào Nam với nhiều vị trí phù hợp cho sự hình thành và phát triển một hệ thống cảng biển hiện đại. Đây là những tiềm năng to lớn mang tính chất chiến lược để chúng ta đẩy mạnh phát triển kinh tế biển. Vị trí nước ta cũng kề cận ngay bên nhiều tuyến hàng hải quốc tế, lại thuộc khu vực đang có tốc độ phát triển kinh tế cao và thị trường vận tải biển sôi động, tàu thuyền ra vào thuận tiện, giao lưu với các châu lục nhanh chóng, dễ dàng. Trong vận hội mới của đất nước, với tốc độ tăng trưởng kinh tế, ngoại thương được nâng cao, vận tải hàng hoá bằng đường biển ngày càng chiếm một tỷ trọng lớn, vai trò của ngành hàng hải, trong đó có ngành đóng tàu biển ngày càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Công nghiệp đóng tàu biển, hơn thế nữa, lại là một ngành công nghiệp lớn, một ngành công nghiệp tổng hợp, sử dụng nhiều sản phẩm của nhiều ngành công nghiệp khác nhau. Do đó, công nghiệp đóng tàu biển phải trở thành một ngành công nghiệp mũi nhọn, tạo thị trường cho các ngành công nghiệp khác phát triển, góp phần thực hiện thắng lợi đường lối công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Xuất phát từ tầm quan trọng và vị trí của ngành công nghiệp đóng tàu biển đối với quá trình phát triển kinh tế, đặc biệt là với chuyên chở hàng hoá xuất nhập khẩu, tác giả đã chọn viết khoá luận tốt nghiệp với đề tài “Thực trạng, giải pháp phát triển ngành công nghiệp đóng tàu biển và vai trò của ngành này trong chuyên chở hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam những năm gần đây”. Nội dung của khoá luận tốt nghiệp bao gồm 3 chương: 1
  3. Trần Thị Hồng Bích – A7K38B Chương I. Khái quát về ngành công nghiệp đóng tàu biển Việt Nam Chương II. Tình hình phát triển ngành công nghiệp đóng tàu biển và vai trò của ngành này trong chuyên chở hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam những năm gần đây Chương III. Chiến lược, giải pháp phát triển ngành công nghiệp đóng tàu biển Việt Nam và nâng cao hiệu quả của ngành này trong chuyên chở hàng hoá xuất nhập khẩu Thực hiện nội dung trên, tác giả khoá luận đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp phân tích tổng hợp, phân tích thống kê, đối chiếu, so sánh các số liệu, tài liệu, tư liệu thu thập được để làm sáng tỏ và giải quyết các yêu cầu mà đề tài đặt ra. Tác giả xin chân thành cảm ơn các cô chú, anh chị công tác tại Cục hàng hải Việt Nam và Tổng công ty công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam đã tạo điều kiện giúp đỡ trong việc thu thập tài liệu; xin chân thành cảm ơn tập thể các thầy cô giáo trường Đại học Ngoại thương đã truyền thụ những kiến thức bổ ích về chuyên môn nghiệp vụ; và đặc biệt là sự tận tình chỉ bảo và giúp đỡ của thầy Tô Trọng Nghiệp - giáo viên bộ môn Kinh tế Ngoại Thương - người đã trực tiếp hướng dẫn tác giả hoàn thành tốt khoá luận này. Hà Nội tháng 12/2003 2
  4. Trần Thị Hồng Bích – A7K38B CHƯƠNG I KHÁI QUÁT VỀ NGÀNH CÔNG NGHIỆP ĐÓNG TÀU BIỂN VIỆT NAM I. Đặc điểm và vai trò của ngành công nghiệp đóng tàu biển Việt Nam 1. Đặc điểm ngành công nghiệp đóng tàu biển Việt Nam Việt Nam có hơn 3.260km bờ biển và trên 1 triệu km vùng đặc quyền kinh tế biển, có hàng vạn ki lô mét đường sông đổ ra biển, đó là một tiềm năng tạo ra ưu thế đối với khu vực để có thể phát triển kinh tế biển, đặc biệt là giao thông vận tải biển. Ngành công nghiệp đóng tàu biển Việt Nam là một ngành đã có truyền thống, nghề đóng và sửa chữa tàu đã sớm hình thành ở nước ta từ thời vua Minh Mạng (từ năm 1838-1839). Đặc biệt từ năm 1960, Đảng và Nhà nước đã quan tâm xây dựng và phát triển ngành công nghiệp đóng tàu biển. Ngày nay ngành đã có một lực lượng cơ sở vật chất kỹ thuật, lực lượng lao động đồng bộ, từng bước kế thừa và phát triển, góp phần không nhỏ vào quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá của đất nước. Tuy còn nhỏ bé và trang bị công nghệ còn lạc hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới, song ngành có một tiềm năng lớn - đó là đội ngũ công nhân lành nghề, đội ngũ cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý dày dặn kinh nghiệm hàng vạn người. Ngành có các cơ sở đào tạo là Trường đại học Hàng Hải, các trường trung cấp và trường công nhân kỹ thuật đóng tàu, có cơ quan khoa học công nghệ chuyên ngành luôn bổ sung cho ngành lực lượng khoa học công nghệ và và công nhân lành nghề. Lực lượng lao 3
  5. Trần Thị Hồng Bích – A7K38B động được xây dựng và trưởng thành khá đồng bộ, bao gồm từ khâu đào tạo, nghiên cứu thiết kế, thực nghiệm và giám định chất lượng đến chế tạo sản phẩm. Đây là những nhân tố để có thể tạo nên sự phát triển và bước những bước tiến mới của công nghiệp đóng tàu biển . Công nghiệp đóng tàu biển là ngành công nghiệp đã được thử thách và đã tích luỹ được kinh nghiệm sản xuất nhất định. Trong nhiều năm qua, đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, với những biện pháp và hình thức công nghệ khác nhau, ngành đã tạo ra những sản phẩm sửa chữa và đóng mới các loại phương tiện, thiết bị tàu thuỷ ngày càng có giá trị và chất lượng cao, thay thế được một phần hàng hoá nhập khẩu. Ngành công nghiệp đóng tàu biển Việt Nam là một ngành đóng tàu biển tổng hợp, một ngành công nghiệp mũi nhọn thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp đóng tàu biển sử dụng sản phẩm của hầu hết các ngành công nghiệp khác như: luyện kim chế tạo máy, hoá chất, điện, điện tử, vật liệu… Như vậy nếu đóng một con tàu, ngoài việc sử dụng hàng vạn công nhân của ngành còn phải cần đến lực lượng lớn hơn của các ngành khác phục vụ vệ tinh cho nó. Theo dự báo nhu cầu về phương tiện thuỷ của các ngành và mức độ tăng trưởng về cơ sở vật chất của các nhà máy đóng sửa chữa tàu, từ nay đến năm 2010 chúng ta có khả năng tạo ra một khối lượng hàng hoá đóng mới và sửa chữa đạt hàng tỷ USD, trong đó công nghiệp tàu thuỷ phải sử dụng hơn 70% giá trị các sản phẩm của các ngành khác trong và ngoài nước. 4
  6. Trần Thị Hồng Bích – A7K38B Công nghiệp đóng tàu biển Việt Nam là một ngành công nghiệp có thị trường trong và ngoài nước rất rộng lớn. Thị trường đó ngày càng được mở rộng và nhân lên bởi 2 yếu tố: - Sự phát triển và trình độ và công nghệ của nhiều ngành nghề trong nước. - Sự tăng trưởng về cơ sở vật chất, kỹ thuật, công nghệ, trình độ tay nghề của công nhân thuộc bản thân ngành công nghiệp đóng tàu. Có thể thấy ngành công nghiệp đóng tàu biển có khả năng hội nhập được vào thị trường quốc tế, có khả năng hình thành một ngành công nghiệp và dịch vụ quốc tế ngày một mở rộng, tạo ra một tiềm lực phát triển lâu bền cho đất nước. 2. Vai trò của ngành công nghiệp đóng tàu biển Việt Nam 2.1. Ngành đóng tàu biển với sự phát triển công nghiệp Việt Nam 2.1.1. Công nghiệp đóng tàu biển là ngành công nghiệp tạo nên năng lực trang thiết bị kỹ thuật chủ yếu để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển. Kinh tế biển bao gồm rất nhiều lĩnh vực hoạt động kinh tế xã hội phong phú và đa dạng. Đó là: Khảo sát và nghiên cứu biển, xây dựng các công trình biển, vận tải biển, khai thác và dịch vụ cảng, thăm dò khai thác tài nguyên biển, trước hết là thăm dò và khai thác dầu khí, nuôi trồng đánh bắt và chế biến hải sản, du lịch trên biển…Đó là những hoạt động kinh tế rộng lớn nhưng lại tiến hành trên biển - một môi trường hết sức khó khăn phức tạp, đòi hỏi những khối lượng cơ sở vật chất kỹ thuật lớn, có yêu cầu 5
  7. Trần Thị Hồng Bích – A7K38B kỹ thuật cao. Để đáp ứng được yêu cầu đó phải có một ngành công nghiệp mang tính hậu cần, đáp ứng yêu cầu làm chủ, tiến tới cung ứng và đổi mới được những trang bị kỹ thuật cần có, đó là ngành công nghiệp đóng tàu biển. 2.1.2. Công nghiệp đóng tàu biển là một ngành công nghiệp lớn, một ngành công nghiệp góp phần tạo nên thị trường cho các ngành công nghiệp khác Công nghiệp đóng tàu biển là ngành công nghiệp tổng hợp, sử dụng sản phẩm của nhiều ngành công nghiệp khác. Đồng thời, với tư cách là một ngành công nghiệp liên ngành chế tạo cơ khí, một khi đã phát triển, công nghiệp đóng tàu biển sẽ lại có khả năng trang bị và cung ứng kỹ thuật cũng như chia sẻ nhu cầu thị trường với các ngành công nghiệp khác như chế tạo các cấu kiện thép lớn của giàn khoan biển, các lò xi măng, dầm cầu lớn, các tổ hợp kết cấu thép mà các ngành cơ khí lắp ráp khác khó có điều kiện thực hiện được. 2.1.3. Công nghiệp đóng tàu biển là ngành công nghiệp chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước Công nghiệp đóng tàu biển tạo nên các đội tàu hoạt động ven biển, hải đảo, nối hai vùng đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long, đặc biệt nối các vùng kinh tế quan trọng của đất nước: Bắc có tam giác tăng trưởng Hà Nội-Hải Phòng-Quảng Ninh, Trung có trục tăng trưởng Huế-Đà Nẵng- Dung Quất; Nam có tam giác tăng trưởngthành phố Hồ Chí Minh-Vũng Tàu-Biên Hoà; nối các vùng sâu, vùng xa trong chiến lược phát triển kinh tế của đất nước. Công nghiệp đóng tàu biển đóng vai trò quan trọng trong 6
  8. Trần Thị Hồng Bích – A7K38B việc tạo nên các phương tiện phục vụ đường lối mở cửa của Đảng, cùng với các ngành khác của giao thông vận tải thực hiện nhiệm vụ đi trước một bước trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 2.1.4. Công nghiệp đóng tàu biển là ngành công nghiệp tập trung nhiều trình độ khoa học công nghệ tiên tiến của thế giới và thừa hưởng chúng từ các ngành công nghiệp nặng cũng như các ngành công nghệ cao khác. Ngành công nghiệp đóng tàu biển thúc đẩy nhiều lĩnh vực khoa học công nghệ khác phát triển nhanh chóng và khá đồng bộ từ nghiên cứu, chẩn đoán, kiểm định kỹ thuật và ứng dụng công nghệ mới. Do đó công nghiệp đóng tàu biển phát triển sẽ kéo theo sự phát triển đồng bộ của hầu hết các ngành khoa học công nghiệp, tạo điều kiện để công nghiệp Việt Nam không những có thể tiến kịp trình độ khoa học công nghiệp tiên tiến trên thế giới mà còn tạo điều kiện để có thể “đi tắt, đón đầu” cho nhiều ngành công nghiệp khác. 2.2. Ngành đóng tàu biển với phát triển kinh tế-xã hội Trước đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam, trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế- xã hội của đất nước, nhìn chung giao thông vận tải vẫn là một khâu yếu kém. Hoạt động của các đơn vị trong ngành mang tính chất bao cấp và ỷ lại, công nghiệp giao thông vận tải trì trệ, thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm tổ chức quản lý, các tổ chức trong ngành còn trùng lắp…Chính phủ phải thường xuyên trực tiếp can thiệp vào các khâu của toàn ngành. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra một bước ngoặt mới trong sự nghiệp cách mạng của nước 7
  9. Trần Thị Hồng Bích – A7K38B ta, ngành giao thông vận tải đã nhanh chóng nắm bắt những quan điểm, chủ trương mới của Đảng vận dụng triển khai vào trong ngành với những chương trình hành động đồng bộ. Những năm tiếp theo, dưới ánh sáng của các Nghị quyết Đại Hội VII, VII ngành giao thông vận tải tiếp tục đổi mới, xây dựng, phát triển. Sự đóng góp của ngành giao thông đối với xã hội đã khẳng định vị trí của ngành trong quá trình phát triển, xây dựng đất nước. Trong đó có sự đóng góp đáng kể của công nghiệp đóng tàu biển Việt Nam. 2.2.1. Đối với tăng trưởng kinh tế Bằng việc tạo ra được những sản phẩm có tính năng kỹ thuật cao như tàu vận tải 6.500T, tàu cao tốc, tàu chuyên dụng, sửa chữa được 70% số tấn tàu biển ở trong nước và nhiều tàu nước ngoài, đã hình thành liên doanh đóng tàu biển lớn với Hàn Quốc…, ngành công nghiệp đóng tàu biển Việt Nam góp phần làm thay đổi diện mạo nền công nghiệp nước nhà với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trên 13% (kể từ 1995 đến nay). Trong cơ cấu đội tàu chuyên chở hàng hoá xuất nhập khẩu, đội tàu chở xăng dầu, số phương tiện được đóng ở trong nước ngày càng được tăng lên, thay thế cho phương tiện thuê, mua của nước ngoài. Điều này giúp quốc gia tiết kiệm được một lượng ngoại tệ đáng kể. 2.2.2. Đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Việc phát triển công nghiệp đóng tàu biển đã mang lại hiệu quả tích cực trong việc thực hiện Nghị quyết TW8 cũng như dự thảo nghị quyết TW9 đề ra về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Ngành công nghiệp đóng và sửa chữa tàu 8
  10. Trần Thị Hồng Bích – A7K38B được hình thành và phát triển thành 3 khu vực tương ứng với 3 vùng kinh tế lớn của đất nước: Hải Phòng – Quảng Ninh, miền trung và miền Nam. Mỗi khu vực tạo thành cụm công nghiệp đóng và sửa chữa tàu phù hợp với điều kiện tự nhiên của mỗi vùng, thuận tiện cho cho việc giao lưu kinh tế giữa các miền cũng như cũng như tạo điểm nút phát triển công nghiệp cơ khí. Tại khu vực Hải Phòng – Quảng Ninh có thể nói công nghiệp đóng tàu biển là ngành công nghiệp then chốt, mang lại nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước với các nhà máy đóng tàu biển chủ đạo ngành như: Đóng tàu Bạch Đằng , Sông Cấm, Hạ Long…Việc phát triển các cụm công nghiệp đóng tàu biển thúc đẩy phát triển kinh tế vùng đồng bằng Bắc Bộ châu thổ sông Hồng, sông Cửu Long, đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 2.2.3. Đối với việc giải quyết các vấn đề xã hội. Để tạo ra được một con tàu, ngoài lực lượng lao động của ngành công nghiệp đóng tàu biển còn cần tới một lực lượng không nhỏ của các ngành sản xuất bổ trợ như sản xuất các thiết bị nghi khí hàng hải, chế tạo động cơ tàu thuỷ…Do đó phát triển công nghiệp đóng tàu biển sẽ tạo ra việc làm cho khối lượng lao động lớn, giải quyết được một phần vấn đề thất nghiệp mà xã hội đang quan tâm. Trong xu thế chuyển dịch cơ cấu công – nông nghiệp – dịch vụ, các dịch vụ công nghiệp đóng tàu biển như phá dỡ tàu cũ, sản xuất thép đóng tàu biển, dịch vụ vận tải bằng những con tàu chế thử…đã mở ra hướng sản xuất mới, thu hút lao động được chuyển dịch từ nông nghiệp tại khu vực có các cơ sở đóng tàu biển sang. 9
  11. Trần Thị Hồng Bích – A7K38B II. Vài nét về quá trình phát triển của ngành công nghiệp đóng tàu biển Việt Nam từ 1955 đến 1990 Trong các loại hình vận tải, vận tải thuỷ là loại hình vận tải kinh tế nhất vì vậy các quốc gia có ưu thế về đường sông biển đều muốn phát triển loại hình vận tải này. Việt Nam từ bao đời nay là một quốc gia biển. Đảng, Chính phủ luôn chú trọng phát triển vận tải thuỷ. Và để phát triển vận tải thuỷ khâu then chốt là phải phát triển các phương tiện vận tải. Quá trình phát triển các loại phương tiện vận tải thuỷ gắn liền với quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Chúng ta có thể điểm lại các giai đoạn đó như sau: 1. Thời Kỳ 1955 - 1960 Đất nước vừa ra khỏi chiến tranh. Trên các tuyến sông biển toàn miền Bắc, phương tiện vận tải hết sức nghèo nàn, lạc hậu, chỉ có một ít ca nô, sà lan cũ chạy trên một vài tuyến đi Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định…, trong khi yêu cầu vận tải phục vụ công cuộc khôi phục kinh tế đặt ra bao nhiêu vấn đề cần giải quyết. Nhiệm vụ của ngành đóng tàu trong giai đoạn này chỉ là lắp ráp các phân đoạn, tổng đoạn sà lan, tàu lai, tàu cuốc có sẵn từ Liên Xô (cũ), Trung Quốc, CHDC Đức (cũ) chuyển sang. Cơ sở sản xuất của ngành chỉ gồm 4 Xưởng đóng tàu biển và Xưởng cơ khí Hải Phòng (tiền thân của nhà máy đóng tàu biển Bạch Đằng ngày nay) đợt đầu chuẩn bị khởi công. Bộ phận thiết kế tàu thuỷ mới bắt đầu được thành lập theo đúng “bài bản” của công nghệ đóng tầu mới mà ta đã bước đầu tiếp thu từ Liên Xô, Trung Quốc. Đây là thời kỳ tập dượt của công nghiệp đóng tàu biển Việt Nam . 2. Thời kỳ 1961 - 1970 10
  12. Trần Thị Hồng Bích – A7K38B Giai đoạn này công nghiệp đóng tàu biển vẫn chủ yếu là sửa chữa, khôi phục tàu cũ. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ GTVT, Cục vận tải thuỷ bộ, các xưởng đóng tàu biển tiếp tục sửa chữa khôi phục một số tàu khách ta trục vớt được như tàu Đà Nẵng, tàu Mỹ Tho chạy trên tuyến Hải Phòng – Cẩm Phả, Hải Phòng – Nam Định, phục vụ đắc lực công tác vận chuyển hành khách ở vùng đồng bằng trong suốt một thời gian dài. Tàu cuốc Đình Vũ theo thiết kế khôi phục của ta cũng được các xưởng hợp tác khôi phục lại, tiếp tục nạo vét tuyến đồng bằng duyên hải. Hai sản phẩm đầu tiên của ngành đóng tàu biển Việt Nam do chúng ta tự thiết kế và thi công là tàu lai 135 Cv, mớn nước 1,25m và Ca nô lai phà vỏ gỗ đã ra đời vào thời kỳ này. Nó đánh dấu bước đi chập chững đầu tiên của ngành đóng tàu biển Việt Nam . Và chỉ sau một thời gian ngắn, ngành đóng tàu biển Việt Nam đã có sự chuyển mình rõ nét. Bắt đầu từ việc sản xuất các sà lan 200T Việt Kiến, ca nô Thái Mèo và hàng loạt sà lan, tàu lai khác, chúng ta đã dần dần chấm dứt việc nhập các phân tổng đoạn có sẵn, tiến tới tự thiết kế và chế tạo các phương tiện. Những năm đầu của thập kỉ 60 là thời kỳ cả nước thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng III: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Cùng với guồng máy sản xuất công nghiệp cả nước, ngành cơ khí GTVT đang tự vươn lên với nhịp độ ngày càng sôi động nhằm khôi phục lại đất nước. Những con tàu vận tải đủ các loại đã lần lượt được bổ sung vào các đơn vị vận tải, đơn vị giao thông, xí nghiệp công nghiệp trên toàn miền Bắc. Và để đáp ứng với yêu cầu của cách mạng miền Nam, từ 1961 – 1962 chúng ta đã cho ra đời những chiếc 11
  13. Trần Thị Hồng Bích – A7K38B “tàu không số” phục vụ cho đường mòn Hồ Chí Minh trên biển, chuyển quân, lương tiếp sức cho đồng bào miền Nam đánh Mỹ. Khi giặc Mỹ gây ra chiến tranh phá hoại miền Bắc thì nhiệm vụ của người công nhân đóng tàu nặng nề hơn. Đó là việc đảm bảo giao thông. Có thể nói đây là thời kỳ nẩy nở nhiều sản phẩm minh chứng cho trí tuệ Việt Nam, chứng minh cho ý chí tự lực tự cường trong việc chiến tranh không cân sức nhằm đảm bảo giao thông, chi viện cho tiền tuyến. Trong giai đoạn này chúng ta phải tập trung phần lớn năng lực phục vụ cho việc sản xuất các phương tiện vận tải thuỷ thời chiến, đồng thời phải chuẩn bị cho nhu cầu phương tiện vận tải thuỷ thời bình. Một số sản phẩm tiêu biểu cho thời kỳ này như: Tàu cao tốc phóng lôi cho Hải Quân, các loại sản phẩm rút gọn kích thước cho phù hợp với thời chiến (ca nô lai phà, ca nô con cóc, ca nô con nòng nọc…), các loại sà lan 30 – 100T, thuyền vận tải biển gắn máy 50 tấn… làm tiền đề cho việc chế tạo loạt tàu “Tự lực” hơn 500 chiếc sau này. Đặc biệt các sản phẩm đảm bảo giao thông trên các bến phà, bến sông được thiết kế và chế tạo hết sức đa dạng. Đó là máy kéo lội nước, phà ghép, phà truyền lực, sariô truyền lực…được thử nghiệm và đưa vào hoạt động ở ngoài địa phương, nhất là trên tuyến lửa Khu IV. Hàng loạt tàu khách (trên 100 khách), hàng loạt ca nô, tàu lai trong sông và lai phà ra đời. Nhìn chung, trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, hàng trăm sản phẩm mang nặng nét đặc trưng về trí tuệ và mang lòng dũng cảm do những người kỹ sư, công nhân ngành đóng tàu sáng tạo ra và góp sức cùng toàn dân, toàn quân ta chiến thắng kẻ thù trên mặt trận GTVT với ý chí quyết thắng “Địch phá ta cứ đi”. 12
  14. Trần Thị Hồng Bích – A7K38B Trong giai đoạn này, tổng sản lượng mà ngành đóng góp cho đất nước còn quá nhỏ bé, chủ yếu là phục vụ cho sự nghiệp GTVT thời chiến. Chất lượng sản phẩm chưa được coi trọng, công nghệ còn thô sơ. Tuy nhiên, số cơ sở sản xuất đã được tăng lên: Nhà máy đóng tàu Bạch Đằng đã bắt đầu đưa vào sử dụng; một số xưởng đóng tàu được nâng cấp lên thành nhà máy đóng tàu như: Nhà máy đóng tàu Tam Bạc, Nhà máy đóng tàu Sông Cấm, Nhà máy đóng tàu Sông Lô… 3. Thời kỳ 1971 - 1980 Chiến tranh phá hoại lần thứ hai của Mỹ ra miền Bắc với quy mô và cường độ cao hơn đặt ngành GTVT trước thử thách mới. Một lần nữa các phương tiện GTVT thời chiến được huy động. Nổi bật nhất trong thời kỳ này, lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật ngành đóng tàu biển và các ngành liên quan cùng với các công nhân bậc cao của nhà máy đóng tàu biển Tam Bạc đã sáng chế ra ca nô phóng từ không người lái “T5” để rà phá bom từ trường, triệt phá thuỷ lôi của Mỹ. T5 đi đế đâu, thuỷ lôi nổ đến đó. Sau hiệp địng Pari nhà máy đóng tàu biển Bạch Đằng đã sản xuất hàng loạt ca nô T5, và cùng với lực lượng rà phá bom mìn của ngành GTVT, Hải quân nhân dân Việt Nam , T5 đã hoàn thành việc rà quét hàng vạn trái bom mìn trên các tuyến đường thuỷ ở miền Bắc. Sau khi nước nhà thống nhất (1975) hoạt động công nghiệp đóng tàu biển bước sang thời kỳ hoà bình – xây dựng với nhiệm vụ chính trị là : nghiên cứu, thiết kế chế tạo các loại phương tiện thuỷ phục vụ yêu cầu của sự nghiệp phát triển ngành GTVT nói riêng và nền kinh tế nói chung. Thành quả của thời kỳ này là hàng loạt sản phẩm đã được thiết kế và cho ra đời phục vụ sản xuất trên suốt chiều dài đất nước; các sản phẩm ngày 13
  15. Trần Thị Hồng Bích – A7K38B càng đa dạng về chủng loại, tăng dần về quy mô và trình độ kỹ thuật hiện đại. Nhiều loại tầu đã và đang được thiết kế có trọng tải khác nhau. Những sản phẩm điển hình trong giai đoạn này là : Tàu hàng cỡ nhỏ 70 -400T chạy ven biển, tàu khách đi sông và tàu du lịch các loại, tàu lai, tàu kéo đẩy các loại, đội sà lan với nhiều chủng loại được bổ sung thêm để thích ứng với hiện trường, các loại âu nổi, các loại thuyền, xuồng phục vụ yêu cầu vận tải – du lịch đường thuỷ, phục vụ chống lụt, phục vụ công tác khác, tàu cao tốc bằng thép cường độ cao và hợp kim nhôm… Số lượng sản phẩm trong giai đoạn này được tăng lên rõ rệt, tuy tổng sản phẩm mà ngành tạo ra cho xã hội chiếm một tỷ trọng không lớn. Lực lượng lao động tăng cả về chất lượng và số lượng : Đội ngũ cán bộ KHKT, công nhân lành nghề được đào tạo tại các nước có nền công nghiệp đóng tàu biển phát triển trong khối XHCN được bổ sung cho ngành ngày một nhiều. Trong giai đoạn này, nhà máy đóng tàu biển Hạ Long có quy mô đóng mới đến tàu 3.000T do Ba Lan giúp ta xây dựng cùng với đội ngũ thợ lành nghề do Bạn đào tạo đã đi vào sản xuất. Nhà máy sữa chữa tàu biển Phà Rừng do Phần Lan giúp đỡ đã bắt đầu khởi công xây dựng. Các cơ sở đóng tàu biển ở miền Nam tuy còn khá khiêm tốn nhưng đã được củng cố và bước đầu bắt nhịp với tiến triển chung của toàn ngành. 4. Thời kỳ 1981 - 1990 Đây là thời kỳ khó khăn nhất của nền công nghiệp Việt Nam nói chung và của ngành công nghiệp đóng tàu biển nói riêng, nhất là giai đoạn từ 1985 khi “cơn bão” giá lương tiền báo hiệu cuộc khủng hoảng kinh tế toàn diện của đất nước. Sau các chỉ thị, Nghị định 25CP, 217, 176…là sự thay đổi cơ chế, thay đổi tổ chức, sắp xếp lại đội ngũ và thay đổi chế độ 14
  16. Trần Thị Hồng Bích – A7K38B tiền lương. Vốn cho sản xuất công nghiệp lâm vào tình trạng bế tắc, ngành cơ khí hầu như hoạt động cầm chừng. Tuy vậy ngành công nghiệp đóng tàu biển cũng đã sản xuất được một số sản phẩm với tiến bộ vượt bậc: tàu khách 220 chỗ ngồi, tàu hàng 1.000T – 3.850T, tàu chở xăng dầu 400, các loại tàu kéo, tàu kéo đẩy, tàu lai, tàu khảo sát, các loại phà chở khách, phà qua sông, phà tự hành… 15
  17. Trần Thị Hồng Bích – A7K38B CHƯƠNG II. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP ĐÓNG TÀU BIỂN VÀ VAI TRÒ CỦA NGÀNH NÀY TRONG CHUYÊN CHỞ HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY I. Tình hình phát triển ngành công nghiệp đóng tàu biển Việt Nam trong những năm gần đây Nền kinh tế Việt Nam bước sang trang mới: Kinh tế thị trường với sự năng động và sáng tạo của từng thành viên tham gia vào nền kinh tế đó. Dựa vào nhu cầu của ngành hàng hải, đầu khí, của các địa phương, của quốc phòng…, ngành công nghiệp đóng tàu biển đã thiết kế và chế tạo được một khối lượng lớn phương tiện thuỷ với chất lượng ngày càng hoàn thiện. Việc chế tạo các loại phương tiện thuỷ không chỉ phục vụ phát triển đội tàu trong nước mà còn vươn tới các nước trong khu vực. Nhà máy đóng tàu biển Tam Bạc, Hạ Long, Sông Cấm đã đóng mới những con tàu chở hàng, chở khách cho nước bạn Lào, Căm Pu Chia. Và nhằm khai thác, tận dụng nguyên vật liệu đã qua sử dụng, ngành đã thành lập các cơ sở nhập khẩu tàu cũ về phá dỡ lấy tôn thép đặc chủng cung cấp cho ngành, cho xuất khẩu phế liệu. Từ 1996, sau khi củng cố lại tổ chức, các đơn vị đóng tàu biển của ngành GTVT và một số địa phương được sắp xếp lại và nằm trong Tổng công ty công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam. Tổng công ty công nghiệp tàu thuỷ đã cho ra đời hàng chục con tàu từ 1.000T đến 4.000T với chất lượng ngày càng cao, phục hồi được những tàu hút biển có tính năng phức tạp và công sức lớn như tàu hút Long Châu, tàu trần Hưng Đạo. Chế tạo thành 16
  18. Trần Thị Hồng Bích – A7K38B công tàu hút biển 300m/h, lắp ráp tàu hút tới 4.000HP. Đóng mới và đưa vào vận hành sà lan cần cẩu nổi 600T cùng hệ sà lan có khả năng tự chìm, nổi sức nâng 2.000T. Đóng hàng chục tàu vận tải quân sự cho Bộ Quốc Phòng có sức chở từ 450T đến 1200T. Đóng thành công tàu hàng khô 3.850T, tàu khách biển 200 khách có giường nằm riêng biệt, đầy đủ tiện nghi. Đóng thành công tàu đánh cá xa bờ 600HP, phà tự hành có hệ thống phun xoay, tàu cao tốc vỏ thép cường độ cao và tàu vỏ nhôm 28 – 30 hải lý, tàu nghiên cứu biển hiện đại, tàu hoa tiêu. Đặc biệt đã đóng mới thành công tàu hàng 6.500T cho Công ty vận tải biển Việt Nam . Hiện nay tổng công ty tàu thuỷ Việt Nam đang gấp rút hoàn thiện ụ nổi 8.500T, tàu dầu 3.500T. Năm 2000 nhà máy đóng tàu biển Bạch Đằng đã đóng mới tàu hàng 6.500T số 2 và tàu biển 11.500T, Nhà máy đóng tàu biển Hạ Long chuẩn bị đóng tàu biển 6.500T. Để có thể đáp ứng với nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước ngành công nghiệp đóng tàu biển Việt Nam đã triển khai các công ty liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài như Công ty HYUNĐAI – VINASHIN sau khi hoàn thành thi công giai đoạn một có năng lực sửa chữa tàu trọng tải đến 400.000T. Công ty liên doanh đang tích cực chuẩn bị đầu tư giai đoạn 2 để tạo ra năng lực đóng mới tàu biển có trọng tải đến 100.000T vào những năm gần đây. 1. Sản phẩm và năng lực sản xuất 1.1. Đóng mới Trong những năm qua, các nhà máy và cơ sở đóng tàu biển của ngành công nghiệp đóng tàu biển đã đóng mới được khoảng 320 phương tiện, chủ 17
  19. Trần Thị Hồng Bích – A7K38B yếu là các tàu hàng cỡ nhỏ, tàu lai, tàu đẩy, sà lan…với tổng trọng tải 127.292DWT, tổng công suất khoảng 407.551cv, tuổi bình quân khoảng 6,5 tuổi. Ngành công nghiệp đóng tàu biển trong nước đến nay chỉ mới đáp ứng chưa đầy 20% nhu cầu cần đóng mới các phương tiện thuỷ. (Xem bảng 1) Qua thống kê cho thấy sản phẩm của ngành công nghiệp đóng tàu biển Việt Nam ngoài mục đích phục vụ an ninh quốc phòng thì sản phẩm đóng mới cung cấp cho thị trường theo hướng phục vụ vận tải đường biển của kinh tế Việt Nam. Trong tổng sản lượng đóng mới hàng năm, lượng tàu phục vụ cho vận chuyển hàng hoá bằng đường biển chiếm khoảng 20% tổng sản lượng. Phương tiện chở sản phẩm dầu nhập khẩu, dầu thô khai thác trong nước chưa được chú trọng mặc dù nhu cầu thị trường này là rất lớn. Hiện nay việc vận chuyển dầu thô được thực hiện với các phương tiện vận chuyển chủ yếu thuê của nước ngoài, điều này làm giảm nguồn lợi nhuận chúng ta thu được qua việc khai thác dầu khí. Bảng 1. Một số sản phẩm chính của ngành 1995 – 2000 Đơn vị tính : chiếc STT Sản phẩm Số lượng 1 Tàu hàng: - Đến 1.200T 10 - 3.850T 1 - 6.500T 1 2 Tàu kéo đẩy: - Tàu kéo đẩy 540 cv – 1200cv 5 18
  20. Trần Thị Hồng Bích – A7K38B - Tàu kéo cảng đến 3.200 cv 1 3 Tàu công tác, tàu chuyên dụng: - Tàu chở dầu 3.500T 1 - Tàu hút bùn 4 - Tàu tuần tra trên sông 5 - Tàu thả phao 4 - Cần cẩu nổi tự hành 600T. 1 4 Tàu phục vụ an ninh _ quốc phòng: - Tàu tuần tra cao tốc. 4 - Tàu vận tải quân sự có sức chở 400 -600T 25 - Tàu vận tải quân sự có sức chở trên 1.000T 12 - Tàu cao tốc vỏ thép cường độ cao. 3 - Tàu vận tải đổ bộ. 3 5 Sà lan các loại: - Sà lan chở hàng tự hành đến 400T 35 - Sà lan chở dầu 300 – 600T. 6 - Sà lan mặt boong. 26 6 Tàu, phà chở khách: - Phà tự hành dưới 100T. 4 - Phà tự hành 100T. 8 - Tàu khách đến 220 chỗ. 5 - Tàu du lịch trên sông. 2 Nguồn : Bộ GTVT, Viện khoa học công nghệ tàu thuỷ Việt Nam Năm 2002 là năm đánh dấu nhiều thành công mới của ngành đóng tàu biển Việt Nam. Trong năm 2002, Tổng công ty công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam đã thu được những kết quả khả quan trong sản xuất kinh doanh: giá trị tổng sản lượng đạt trên 4626 tỷ đồng, giá trị doanh thu đạt trên 3735 tỷ đồng, trong đó khối các doanh nghiệp hạch toán độc lập và phụ thuộc đạt 110.6% kế hoạch, tăng 87.7% so với năm 2001 về giá trị doanh thu.1 Trong năm vừa qua, cả nước đã được chứng kiến những sản phẩm đóng tàu biển tiêu biểu-niềm tự hào của ngành đóng tàu biển Việt Nam. 1 Kim Chi - Đóng tàu Việt Nam những bước tiến mới 19
nguon tai.lieu . vn