Xem mẫu

  1. LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Triển vọng và giải pháp đẩy mạnh hoạt động du lịch ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010
  2. MỤC LỤC Trang Lời nói đầu 1 CHƯƠNG I: ĐÔI NÉT KHÁI QUÁT VỀ DU LỊCH VIỆT NAM 3 I. Quá trình hình thành và phát triển Du lịch Việt Nam 3 1. Khái quát về sự ra đời và phát triển của ngành du lịch Việt Nam 3 2. Vị trí và vai trò của du lịch trong nền kinh tế quốc dân 4 II. Tiềm năng du lịch Việt Nam 6 1. Tài nguyên du lịch về mặt thiên nhiên 7 2. Tài nguyên du lịch về mặt nhân văn 10 3. Các di sản thế giới tại Việt Nam 16 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NGÀNH DU LỊCH VIỆT NAM THỜI GIAN QUA 19 I. Sản phẩm du lịch và chiến lược về du lịch 19 1. Sản phẩm du lịch 19 2. Những chủ trương phát triển du lịch và kết quả thu được trong giai đoạn 1990 đến nay 28 II. Thực trạng của ngành du lịch 34 1. Hiện trạng các cơ sở lưu trú 34 2. Nhân lực phục vụ phát triển ngành du lịch 35 3. Kết cấu hạ tầng phục vụ du lịch 36 4. Một số thành tựu cơ bản của ngành du lịch 39 5. Những yếu kém tồn tại và nguyên nhân 42 1
  3. CHƯƠNG III: TRIỂN VỌNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG DU LỊCH Ở VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2010 48 I. Triển vọng phát triển du lịch Việt Nam 48 1. Triển vọng phát triển du lịch trên thế giới và khu vực 48 2. Những cơ hội và thách thức đối với sự phát triển du lịch Việt 49 Nam 3. Chiến lược phát triển Du lịch đến năm 2010 51 II. Các giải pháp phát triển du lịch đến năm 2010 57 1. Các giải pháp cấp nhà nước 58 2. Các giải pháp của ngành du lịch 69 Kết luận 73 Tài liệu tham khảo 2
  4. LỜI NÓI ĐẦU Ngày nay, ở nhiều nước trên thế giới du lịch đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần quan trọng cho thu nhập kinh tế quốc dân, giải quyết nạn thất nghiệp đang có chiều hướng gia tăng. Theo đánh giá của Tổ chức Du lịch thế giới (WTO), trong những năm tới, viễn cảnh của ngành Du lịch toàn cầu nhìn chung rất khả quan. WTO đã dự báo, đến năm 2010, lượng khách du lịch quốc tế trên thế giới sẽ đạt gần một tỷ lượt người, thu nhập xã hội từ du lịch đạt khoảng 900 tỷ USD và sẽ tạo thêm khoảng 150 triệu chỗ làm việc trực tiếp, chủ yếu ở Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó khu vực Đông Nam Á (ASEAN) có vị trí quan trọng, chiếm khoảng 34% lượng khách và 38% du lịch của toàn khu vực. Trong những năm qua, hoạt động Du lịch Việt Nam đã có nhiều khởi sắc và đạt được những tiến bộ vững chắc. Theo Tổng cục Du lịch Việt Nam, năm 2002, đã có khoảng 2,6 triệu khách quốc tế đến Việt Nam, tăng hơn 11% so với năm 2001. Lượng khách nội địa cũng tăng đáng kể với 11.180.000 lượt khách, tăng 4,7% so với 2001. Tổng doanh thu từ du lịch trong năm 2002 của Việt Nam đạt 21.630 tỷ đồng, tăng 5%. Việt Nam vẫn được nhiều báo chí quốc tế bình chọn là "Điểm đến an toàn và thân thiện nhất". Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đã đạt được, ngành du lịch của nước ta còn bộc lộ nhiều hạn chế trước những yêu cầu mới khi hội nhập du lịch thế giới và khu vực là: trình độ phát triển còn thấp so với các ngành du lịch của nhiều nước trên thế giới và khu vực, trong khi tiềm năng về du lịch ở nước ta lại rất lớn và phong phú hơn so với một số nước khác. Trước sự cạnh tranh khốc liệt của một số nước trong khu vực có ngành du lịch hình thành lâu đời hơn và phát triển ở mức độ cao hơn, cùng với những diễn biến không ngừng của tình hình kinh tế, chính trị trên thế giới, vấn đề đặt ra cho ngành du lịch là phải xác định những điều kiện và những giải pháp chủ yếu để tập trung mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài nước phục vụ cho yêu cầu phát 3
  5. triển ngành này thành một ngành ngành kinh tế mũi nhọn. Vì vậy, việc nghiên cứu những vấn đề thực tiễn phát triển du lịch là điều có ý nghĩa quan trọng. Chính vì vậy, tác giả đã lựa chọn "Triển vọng và giải pháp đẩy mạnh hoạt động du lịch ở Việt Nam giai đoạn 2001- 2010" làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình. Mục đích của luận văn này là tập hợp một cách có hệ thống những thông tin về điều kiện phát triển du lịch của nước ta, thực trạng của ngành du lịch trong những năm gần đây, những chủ trương của Đảng và Nhà nước nhằm thúc đẩy sự phát triển của ngành kinh tế quan trọng này trong những năm tới, nhằm làm nổi bật hai vấn đề cơ bản là triển vọng và giải pháp đẩy mạnh hoạt động du lịch ở Việt Nam giai đoạn 2001- 2010. Kết cấu của luận văn gồm ba phần chính như sau: Chương I: Đôi nét khái quát về du lịch Việt Nam Chương II: Thực trạng ngành du lịch Việt Nam thời gian qua Chương III: Triển vọng và giải pháp đẩy mạnh hoạt động du lịch ở Việt Nam đến năm 2010. 4
  6. CHƯƠNG I: ĐÔI NÉT KHÁI QUÁT VỀ DU LỊCH VIỆT NAM I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH VIỆT NAM 1. Sự ra đời của ngành du lịch Việt Nam Ngành du lịch Việt Nam đã có quá trình hoạt động từ những năm 1960. Nghị định số 26/CP ngày 9/7/1960 của Chính Phủ về “Thành lập Công ty du lịch Việt Nam” là mốc đánh dấu sự ra đời của ngành du lịch Việt Nam. Ngày 27/6/ 1978, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 282/NQ-QHK6 phê chuẩn việc thành lập Tổng cục Du lịch Việt Nam. Căn cứ vào nghị quyết trên, ngày 23/1/1979, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nghị quyết số 32/CP qui định về nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của cơ quan này, trong đó nêu rõ: “Tổng cục Du lịch Việt Nam là cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ, có trách nhiệm thống nhất quản lý Du lịch trong cả nước”. Năm 1990, cơ quan Tổng cục Du lịch Việt Nam được sát nhập vào Bộ Văn hoá, năm 1991 được chuyển sang Bộ Thương mại và được tách ra độc lập tháng 10/1992. Từ một tổ chức duy nhất là Tổng cục Du lịch quản lý và tham gia tổ chức hoạt động du lịch ngày đầu thành lập, cho đến nay, toàn bộ 61 tỉnh thành đều có Sở du lịch hoặc Sở Thương mại - Du lịch làm công tác quản lý du lịch. Nhằm ưu tiên cho phát triển du lịch, năm 1999 Chính phủ đã thành lập Ban chỉ đạo về phát triển du lịch do một phó thủ tướng đứng đầu. Từ ngày đầu thành lập, Công ty Du lịch Việt Nam với cơ sở vật chất là một vài khách sạn qui mô 20 phòng, đội ngũ cán bộ và nhân viên là 112 người chưa bao giờ được đào tạo về quản lý và kinh doanh du lịch. Đến nay, trên phạm vi toàn quốc hiện nay có khoảng 1.000 doanh nghiệp du lịch kinh doanh lữ hành, khách sạn, vận chuyển với khoảng 3.050 cơ sở lưu trú và 72,5 nghìn phòng. Số lao động trực tiếp trong ngành du lịch hiện nay lên đến 150 nghìn người. 5
  7. Trong thời kỳ 1960 - 1975, hoạt động du lịch chủ yếu phục vụ các đoàn khách của Đảng và Nhà nước, hoạt động kinh doanh du lịch chiếm một tỷ lệ không đáng kể. Sau năm 1975 cho đến cuối những năm 1980, về cơ bản, hoạt động kinh doanh du lịch vẫn chưa phát triển. Đối tượng phục vụ chính của ngành vẫn là cán bộ của Đảng và Nhà nước, một bộ phận công nhân, viên chức và các đoàn khách từ các nước Đông Âu và Liên Xô cũ. Kể từ những năm đầu của thập kỷ 90, do nền kinh tế đất nước có những chuyển biến nhất định và đời sống nhân dân được cải thiện nên nhu cầu về du lịch trong nước tăng lên. Cùng với những chính sách mở cửa, lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam ngày một tăng, nhiều dự án phát triển du lịch được đầu tư bằng nguồn vốn trong và ngoài nước. Đặc biệt trong những năm gần đây, lượng khách quốc tế đến Việt Nam tăng không ngừng đã mang lại cho ngân sách nhà nước một lượng ngoại tệ đáng kể. Đối tượng khách quốc tế đến từ khắp các châu lục, nhiều quốc gia khác nhau với mục đích cũng hết sức đa dạng. 2. Vị trí, vai trò của du lịch trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam 2.1. Vị trí Ở nhiều nước trên thế giới, du lịch ngày càng có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nhiều nhà kinh tế trên thế giới đưa ra dự đoán: Thế kỷ 21 là thế kỷ của ngành dịch vụ trong đó du lịch có vai trò hết sức to lớn. Thế giới ngày nay đang diễn ra hai xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế lớn. Xu hướng chuyển từ khu vực sản xuất vật chất sang khu vực dịch vụ diễn ra chủ yếu ở các nước công nghiệp tiên tiến nhất. Trong nền kinh tế của những nước này, tỷ trọng khu vực dịch vụ trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đã vượt hơn so với tỷ trọng khu vực sản xuất vật chất, thu hút phần lớn số lao động xã hội. Xu hướng này gắn liền với những điều kiện của một nền kinh tế phát 6
  8. triển cao nhất là do tác động của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật, công nghệ phát triển như vũ bão trên toàn cầu. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá diễn ra ở các nước đang phát triển. Trọng tâm của sự chuyển dịch ở đây chủ yếu là trong nội bộ khu vực sản xuất vật chất, theo hướng tăng sản xuất công nghiệp so với nông nghiệp. Quy luật có tính phổ biến của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên thế giới hiện nay là: giá trị ngành dịch vụ ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong tổng sản phẩm xã hội. Do vậy, các nhà kinh doanh đi tìm hiệu quả của đồng vốn, thì du lịch là một lĩnh vực kinh doanh hấp dẫn so với nhiều ngành kinh tế khác, du lịch đem lại tỷ suất lợi nhuận cao, vốn đầu tư vào du lịch tương đối ít so với ngành công nghiệp nặng, giao thông vận tải... thu hồi vốn lại nhanh, kỹ thuật cũng không quá phức tạp. Trong thời đại hiện nay, ngành du lịch nhìn chung có sự phát triển nhanh hơn việc xuất khẩu, về giá trị ngành du lịch thế giới chỉ sau xuất khẩu dầu lửa và ôtô. 2.2. Vai trò của ngành du lịch a. Về kinh tế Du lịch phát triển làm tăng thu ngân sách Nhà nước, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho xã hội, thúc đẩy nhiều ngành kinh tế có liên quan phát triển theo. Ở nhiều nước trên thế giới, ngành du lịch phát triển (du lịch quốc tế) đem lại cho ngân sách nguồn thu ngoại tệ lớn. Du lịch là một trong những nguồn thu quan trọng hàng đầu ở nhiều nước. Du lịch không những góp phần tích cực giải quyết việc làm cho người lao động, theo ước tính của Tổ chức Du lịch Thế giới (WTO) trung bình một phòng khách sạn (1-5 sao) tạo ra 1,3 chỗ làm trực tiếp và 5 chỗ làm gián tiếp, mà còn là nhân tố thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển như giao thông, xây dựng, bưu điện, hàng không, nông nghiệp, ngân hàng... Ngoài ra, du lịch còn giúp cho 7
  9. du khách biết được tiềm năng kinh tế của các nước, từ đó xây dựng kế hoạch phát triển các mối quan hệ hợp tác kinh tế giữa các nước. b. Về chính trị Du lịch (du lịch quốc tế) giúp cho du khách hiểu biết về đất nước, con người, lịch sử truyền thống dân tộc cũng như nền kinh tế, văn hoá - xã hội của các nước mà họ đến thăm. Trên cơ sở đó, du lịch đã tăng cường tình đoàn kết giữa các dân tộc vì hoà bình và sự phồn vinh của nhân loại. c. Về văn hoá - xã hội Mỗi dân tộc, mỗi quốc gia trên thế giới có nền văn hoá truyền thống riêng, được tích tụ từ lâu đời. Du lịch là một hình thức quan trọng để các dân tộc giao lưu nền văn hoá với nhau. Những yếu tố văn minh trong nền văn hoá nhân loại càng kích thích phát triển những nét độc đáo của văn hoá dân tộc và văn hoá dân tộc phát triển góp phần làm phong phú, đa dạng nền văn hoá nhân loại. Trong nền kinh tế thị trường, du lịch đóng vai trò quan trọng. Nhiều nước đã đạt được kết quả to lớn về kinh doanh du lịch. Tuy nhiên, khi đánh giá vai trò của một ngành kinh tế trong nền kinh tế thị trường của một đất nước nhất là một ngành có tính dịch vụ như du lịch, thì cần phải xem xét trên mặt kinh tế và xã hội, bởi vì du lịch có mặt "tích cực" và mặt "không tích cực". Đó là, việc kinh doanh du lịch (đặc biệt là du lịch quốc tế) nếu phát triển không đúng hướng có thể gây ra "ô nhiễm" môi trường kinh tế, văn hoá và xã hội, do yếu tố "tiêu cực" từ bên ngoài thâm nhập vào. Do vậy, cần phải có chiến lược phát triển du lịch đúng hướng, vừa phát triển kinh tế, vừa giữ gìn cảnh quan môi trường, lành mạnh quan hệ xã hội và đảm bảo an ninh quốc gia. II. TIỀM NĂNG DU LỊCH VIỆT NAM Tiềm năng du lịch của nước ta phong phú, da dạng có sức thu hút khách cao. Nằm ở vị trí cửa ngõ giao lưu quốc tế, Việt Nam có đủ điều kiện phát triển giao thông cả về đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng không nối 8
  10. liền Việt Nam với các quốc gia trên thế giới. Tiềm năng của các nguồn tài nguyên du lịch Việt Nam đa dạng, giàu bản sắc cả về thiên nhiên (bãi biển, hang động, nước nóng, suối nước khoáng, đảo, lớp phủ thực vật và thế giới động vật quí hiếm, nhiều cảnh quan tự nhiên độc đáo điển hình ...) lẫn nhân văn (các di tích lịch sử, nghệ thuật, những phong tục tập quán, các làng nghề và truyền thống văn hoá đặc sắc của các dân tộc ...) đã tạo điều kiện cho chúng ta phát triển được du lịch biển lẫn du lịch núi, du lịch dài ngày và ngắn ngày với nhiều loại hình du lịch khác nhau như tham quan, nghỉ dưỡng, thể thao, nghiên cứu khoa học, hội chợ, hội nghị, festival... Tài nguyên du lịch nước ta được phân bố thành từng cụm hình thành các môi trường du lịch điển hình trong toàn quốc. Môi trường du lịch có một sắc thái riêng, tạo nên các tuyến du lịch xuyên quốc gia, không lặp lại giữa vùng này và vùng khác làm nhàm chán khách du lịch. Mặt khác những tài nguyên du lịch này lại nằm gần các đô thị lớn, các cửa khẩu quốc tế quan trọng tạo thuận lợi cho du khách. Nhiều môi trường du lịch của Việt Nam nếu được qui hoạch và đầu tư thích đáng sẽ trở thành những trung tâm du lịch lớn có khả năng cạnh tranh với các nước khác trong vùng và trên thế giới. 1. Tài nguyên du lịch về mặt tự nhiên 1.1. Biển Việt Nam là đất nước của biển cả. Biển Việt Nam cũng là nguồn cung cấp muối cho sinh hoạt, công nghiệp và xuất khẩu. Với 3.260 km bờ biển, Việt Nam có 125 bãi biển trải suốt chiều dài đất nước, trong đó có tới 20 bãi tắm đẹp nổi tiếng như: Trà Cổ, Bãi Cháy (Quảng Ninh), Đồ Sơn (Hải Phòng), Sầm Sơn (Thanh Hoá), Cửa Lò (Nghệ An), Lăng Cô (Thừa Thiên Huế), Non Nước (Đà Nẵng), Nha Trang (Khánh Hoà), Vũng Tàu (Bà Rịa-Vũng Tàu)... Ngoài ra, vùng biển Việt Nam có khoảng 4 nghìn hòn đảo, trong đó riêng vịnh Bắc Bộ đã có 3 nghìn đảo lớn nhỏ. Gần bờ biển Trung Bộ có hàng trăm đảo lớn như Hòn Mê, Hòn Mát, Cồn Cỏ, Cù Lao Chàm, Cù Lao Xanh, Hòn Tre, Phú Quý... Xa hơn là các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Cách Vũng Tàu vài 9
  11. chục hải lý có 12 đảo lớn nhỏ lập nên huyện Côn Đảo (thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu). Ngoài khơi biển Kiên Giang có đảo Phú Quốc, xa hơn là quần đảo Thổ Chu... 1.2. Hang động Địa hình hang động thường tạo nên những điểm du lịch hấp dẫn. Kiểu địa hình này chiếm khoảng 50.000 km2 tập trung chủ yếu ở Bắc Bộ, Bắc trung Bộ và một phần nhỏ ở Kiên Giang gồm: - Loại hang động ngập nước: Vịnh Hạ Long, Bái Tử Long, Cát Bà với trên 3.000 hòn đảo, thu hút nhiều khách du lịch. - Loại hang động đồng bằng: Tam Cốc-Bích Động được coi như Hạ Long trên cạn ở Ninh Bình, và các hang động ở Hà Tây, Hoà Bình. - Loại hang động núi: là các khối đá vôi ở Cao Bằng, Bắc Sơn, Kẻ Bàng. . Có hơn 200 hang động rất đa dạng và có độ hang động hoá khác nhau cần được quan tâm khai thác cho ngành du lịch. Hang động trung bình dài 20 - 25m (44,6%), hang dài trên 100 m chiếm 10,7%. 1.3. Núi và rừng Vị trí địa lý cùng với lịch sử phát triển lãnh thổ lâu dài và phức tạp đã tạo cho Việt Nam một hoàn cảnh tự nhiên khá độc đáo. Ba phần tư diện tích đất liền là đồi núi nhưng chủ yếu là đồi núi thấp. Độ cao địa hình dưới 1.000 m (so với mực nước biển) chiếm tới 85%. Núi cao trên 2.000 m chỉ chiếm khoảng 1%. Căn cứ vào lịch sử phát triển của lãnh thổ thì các núi của Việt Nam đều là những núi già được trẻ lại. Trong số những đỉnh núi cao của Việt Nam có đỉnh Phanxipăng (Lào Cai) cao nhất, 3.143 m. Núi non đã tạo nên những vùng cao có khí hậu rất gần với ôn đới, nhiều hang động, ghềnh thác, hồ đầm phá, nhiều điểm nghỉ dưỡng và danh lam thắng cảnh như: Sa Pa (Lào Cai), Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Đà Lạt (Lâm Đồng), núi Bà Đen (Tây Ninh)...; động Tam Thanh (Lạng Sơn), động Từ Thức (Thanh Hoá), động Phong Nha (Quảng Bình)...; thác Bản Giốc (Cao Bằng), hồ Ba Bể (Bắc 10
  12. Kạn), hồ thuỷ điện Sông Đà (Hoà Bình), hồ thuỷ điện Trị An (Đồng Nai), hồ thuỷ điện Yaly (Kon Tum), hồ Thác Bà (Yên Bái)... Rừng của Việt Nam có nhiều loại cây gỗ quý: đinh, lim, sến, táu, cẩm lai, gụ, trắc, pơ mu... Tính chung, các loài thực vật bậc cao có tới 12.000 loài. Cây dược liệu có tới 1.500 loài. Lâm sản khác có nấm hương, mộc nhĩ, mật ong... Về động vật, ước tính ở Việt Nam có 1.000 loài chim, 300 loài thú, 300 loài bò sát và ếch nhái, chưa kể các loài côn trùng. Ngoài những loài động vật thường gặp như hươu, nai, sơn dương, gấu, khỉ... còn có những loài quý hiếm như tê giác, hổ, voi, bò rừng, sao la, công, trĩ, gà lôi đỏ... Việt Nam có những khu rừng quốc gia nổi tiếng với những bộ sưu tập phong phú về động thực vật nhiệt đới những vùng tràm chim và sân chim nổi tiếng thu hút hàng ngàn khách du lịch đến từ khắp mọi miền đất nước như: rừng quốc gia Cúc Phương, rừng quốc gia Cát Bà, rừng quốc gia Côn Đảo ... Sân chim Minh Hải có tới hơn 80 loài chim, vùng tràm chim Tam Nông (Đồng Tháp), nơi có chim Sếu đầu đỏ sinh sống, tại đây đã hình thành một trung tâm thông tin về chim Sếu do ngân quỹ bảo vệ chim quốc tế ở Bơ Rêm (Đức) tài trợ. 1.4. Khoáng sản Việt Nam có nguồn tài nguyên khoáng sản đa dạng: Than (trữ lượng dự báo khoảng trên 6 tỉ tấn); dầu khí (ước trữ lượng dầu mỏ khoảng 3 - 4 tỷ thùng và khí đốt khoảng 50-70 tỷ m3); U-a-ni (trữ lượng dự báo khoảng 200 - 300 nghìn tấn, hàm lượng U3O8 trung bình là 0,1%); kim loại đen (sắt, măng gan, titan); kim loại màu (nhôm, đồng, vàng, thiếc, chì...); khoáng sản phi kim loại (apatit, pyrit...). Việt Nam được xếp vào hàng những quốc gia có nguồn nước dồi dào. Diện tích mặt nước lớn và phân bố đều ở các vùng. Sông suối, hồ đầm, kênh rạch, biển... chính là tiền đề cho việc phát triển giao thông thuỷ; thuỷ điện; cung cấp nước cho trồng trọt, sinh hoạt và đời sống... Hệ thống suối nước nóng và nước khoáng, nước ngầm cũng rất phong phú và phân bố khá đều trong cả nước: Suối khoáng Quang Hanh (Quảng Ninh), 11
  13. suối khoáng Hải Vân (Bình Định), suối khoáng Vĩnh Hảo (Bình Thuận), suối khoáng Dục Mỹ (Nha Trang), suối khoáng Kim Bôi (Hoà Bình). Những vùng nước khoáng này đã trở thành những nơi nghỉ ngơi và phục hồi sức khoẻ được nhiều khách du lịch ưa chuộng. 1.5. Thuỷ hải sản Diện tích mặt nước kể cả nước ngọt, nước lợ và nước mặn là nguồn tài nguyên phong phú về tôm, cá... trong đó có rất nhiều loài quý hiếm. Chỉ tính riêng ở biển đã có 6.845 loài động vật, trong đó có 2.038 loài cá, 300 loài cua, 300 loài trai ốc, 75 loài tôm, 7 loài mực, 653 loài rong biển... Nhiều loài cá thịt ngon, giá trị dinh dưỡng cao như cá chim, cá thu, mực... Có những loài thân mềm ngon và quý như hải sâm, sò, sò huyết, trai ngọc... Ngoài việc cung cấp một khối lượng lớn cho ngành công nghiệp và xuất khẩu, thì thuỷ hải sản nước ta cũng có vai trò quan trọng đối với ngành du lịch. Đó được coi là những món ăn đặc sản nổi tiếng và hết sức hấp dẫn đối với biết bao thực khách nước ngoài khi đặt chân đến Việt Nam. 1.6. Khí hậu Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, chịu ảnh hưởng của gió mùa. Việt Nam có một mùa nóng, mưa nhiều và một mùa tương đối lạnh. Hàng năm có khoảng 100 ngày mưa cới lượng mưa từ 1.500 đến 2.000mm. Độ ẩm không khí trên dưới 80%. Trên nền chung đó, khí hậu của các tỉnh ở phía Bắc (từ đèo Hải Vân trở ra Bắc) thay đổi theo 4 mùa là xuân, hạ, thu, đông. Do ảnh hưởng của gió mùa hơn nữa sự phức tạp về địa hình nên khí hậu Việt Nam luôn thay đổi trong năm, giữa năm này với năm khác, giữa nơi này với nơi khác từ Bắc xuống Nam, từ thấp lên cao. Nhiệt độ trung bình năm từ 22 đến 27oC (Hà Nội: 23oC, Huế: 25oC, Thành phố Hồ Chí Minh: 26oC). Thời tiết khí hậu thích hợp nhất cho du lịch ở Việt Nam là vào mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4. Theo con số thống kê của Tổng cục Du lịch Việt Nam thì lượng du 12
  14. khách đến Việt Nam đông nhất là thời điểm này, mặt khác đây cũng là mùa diễn ra các lễ hội truyền thống ở Việt Nam. 2. Tài nguyên du lịch về mặt nhân văn Việt Nam có lịch sử hơn 4.000 năm văn hiến với nền văn minh lúa nước truyền thống, cùng với lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, tạo nên những công trình văn hoá, kiến trúc, những di tích lịch sử, nghệ thuật, những phong tục tập quán, nhiều thể loại văn hoá nghệ thuật dân gian, tôn giáo, lễ hội, nghề thủ công đặc sắc... phong phú, đa dạng. Tất cả những di sản đó đều là tài nguyên du lịch nhân văn, đang được nhiều du khách nước ngoài ưa thích. 13
  15. 2.1. Di tích - Danh thắng Các di tích, danh thắng, các công trình lịch sử, văn hoá là tài nguyên quan trọng hàng đầu của du lịch Việt Nam. Đến nay, trên toàn quốc có khoảng 4.000 di tích lịch sử văn hoá, trong đó có 2.250 di tích được Nhà nước xếp hạng. Đặc biệt có 4 điểm du lịch nổi tiếng đã được UNESCO công nhận là Di sản Văn hoá Thế giới, đó là: khu di tích Cố đô Huế (Thừa Thiên Huế), Phố cố Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn (Quảng Nam) và Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh). Ngoài ra, còn một số di tích khác đang được đề nghị UNESCO xếp hạng như di tích Hương Sơn (Hà Tây) và Cố đô Hoa Lư (Ninh Bình). Phân bổ rải rác ở khắp 61 tỉnh, thành phố còn có khoảng 7.300 di tích khác. Bình quân mỗi tỉnh từ 200 - 400 di tích, mật độ trung bình 2,2 di tích /100km2. Riêng Hà Nội mật độ lên tới 42,8 di tích/100km2. Hàng ngàn di tích lịch sử gắn với những chiến công oanh liệt trong các cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm giành lại độc lập, tự do cho dân tộc, như: Điện Biên Phủ, Thành cổ Quảng Trị, Địa đạo Củ Chi, các nhà tù...rồi các đền chùa, nhà thờ, các công trình văn hoá, các tác phẩm nghệ thuật đều là những điểm tham quan du lịch đầy hấp dẫn thu hút nhiều khách du lịch, các nhà nghiên cứu về lịch sử, nhân chủng học, xã hội học, chính trị trong và ngoài nước. 2.2. Văn hoá - nghệ thuật Việt Nam có 54 dân tộc. Mỗi dân tộc đều có một truyền thống văn hoá riêng. Kho tàng văn hóa truyền thống của Việt Nam thể hiện sự đa dạng muôn hình muôn vẻ của các dân tộc cùng sống trên dải đất này. a. Mỹ thuật Mỹ thuật cổ truyền Việt Nam là một phạm trù rất rộng, bao gồm nhiều thể loại, sản phẩm lại phong phú, đa dạng và được sáng tạo ở nhiều thời đại khác nhau. Những sản phẩm đó tồn tại dưới nhiều thể loại khác nhau: gốm sứ, hội hoạ, tranh thêu, tranh vẽ... bằng nhiều chất liệu khác nhau: đất, đá, đồng, sắt, gỗ, giấy... 14
  16. Hiện vật còn lưu giữ đến nay cho ta thấy từ xa xưa, người Việt Nam đã sớm có một nền mỹ thuật truyền thống: Các hình chạm trong một hang ở Hoà Bình cách ngày nay khoảng 10.000 năm; chiếc muôi đồng được tìm thấy ở Hải Phòng, lưỡi mác bằng đồng tìm thấy ở Thanh Hoá có từ thế kỷ 4 trước Công nguyên; các hình chạm trên mặt các trống đồng v.v.. đều là những sản phẩm với những đường nét, hình khối hàm chứa những giá trị thẩm mỹ của nghệ thuật cổ truyền Việt Nam. b. Điêu khắc Trong di sản nghệ thuật truyền thống, điêu khắc có một lịch sử phát triển liên tục và cô đúc hình ảnh con người Việt Nam từng miền, từng thời, dù dưới dạng thần linh hay con người thế tục. Tính chất cát cứ từng xuất hiện trong lịch sử của một đất nước hình thành lâu dài, sự đa dân tộc, bên cạnh khối dân tộc Việt chiếm đại đa số khiến cho hình ảnh của nền điêu khắc rất đa dạng có thể thấy các bộ phận điêu khắc như sau: 1. Điêu khắc vương quốc Phù Nam và Chân Lạp ở Nam Bộ; 2. Điêu khắc Champa ở Trung Nam Bộ; 3. Điêu khắc Đại Việt ở Bắc Bộ; 4. Điêu khắc nhà mồ ở Tây Nguyên. Nghệ thuật điêu khắc được duy trì và phát triển cùng với các triều đại phong kiến, tiêu biểu là điêu khắc thời Lý (1010 - 1225). Các trung tâm Phật giáo ở Quảng Ninh, Nam Định và đặc biệt ở Bắc Ninh được xây dựng đồ sộ theo kiểu kiến trúc Đông Nam Á. Các kiến trúc tiêu biểu của thời này kéo theo một nền điêu khắc Phật giáo có thể thấy ở Tượng A Di Đà chùa Phật Tích làm năm 1057 là tác phẩm đầu tiên của thế giới Phật giáo vĩnh hằng ở Bắc Bộ, các tượng Kim Cương chùa Long Đọi, tượng đầu người mình chim, chạm khắc chùa Bà Tấm, chùa Chương Sơn… Bên cạnh mảng điêu khắc đó, còn có kho tàng khổng lồ các tác phẩm điêu khắc dân gian có mặt ở khắp đó đây trên đất nước. Đó là sản phẩm điêu khắc của những người thợ trong kiến trúc nhà cửa, vật dụng, đồ thờ, công cụ... 15
  17. c. Kiến trúc Cũng như nhiều ngành văn hoá nghệ thuật khác, kiến trúc Việt Nam đã sớm ra đời, có thể xuất hiện từ thời vua Hùng dựng nước (cách nay khoảng 4.000 năm). Mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ lại có những đặc điểm, những nét kiến trúc khác nhau. Kiến trúc xưa từ thế kỷ 1 - thế kỷ 12 bao gồm các loại hình thành quách, mộ táng, dinh lũy, cung điện, lâu đài, đình, chùa, tháp và đền thờ bên cạnh kiến trúc nhà ở dân gian. Một số công trình nổi bật như tháp Bình Sơn (Vĩnh Phúc), chùa và tháp Phổ Minh (Nam Định), chùa Thái Lạc (Hưng Yên)… Hình thức kiến trúc, trang trí và điêu khắc thời kỳ này đều nói lên bàn tay khéo léo và kỳ công trong lao động nghệ thuật và sự gần gũi với các chủ đề thuộc về con người. Kiến trúc cuối thế kỷ 19 bị ảnh hưởng của kiến trúc phương Tây. Mỗi công trình kiến trúc thời kỳ này đều hàm chứa sự chuyển hoá, hoà trộn giữa hai trường phái kiến trúc Pháp và kiến trúc truyền thống Á Đông. Nhiều công trình đã được pha lẫn với bóng dáng đình chùa và những nét kiến trúc truyền thống của Việt Nam, mà tiêu biểu nhất là nhà thờ Phát Diệm và các nhà thờ đạo Thiên Chúa ở Sài Gòn, Huế, Hà Nội. Từ sau 1975 đến nay kiến trúc Việt Nam phát triển khá mạnh mẽ. Nhiều công trình kiến trúc bề thế, hiện đại, có giá trị cao về nghệ thuật lần lượt mọc lên. Khi đất nước mở cửa về kinh tế, bạn bè bốn phương cũng mang đến cho bức tranh kiến trúc nước nhà sự đa dạng bởi văn hoá nhiều màu sắc. c. Nghệ thuật biểu diễn Trải qua bao biến thiên, ngày nay tại Việt Nam còn lưu giữ nhiều loại nhạc khí như đàn đá, cồng chiêng, các loại khèn, sáo ở Tây Nguyên, các loại đàn khác như đàn đáy, đàn bầu, đàn nguyệt…. Ngoài ra, các loại hình nghệ thuật biểu diễn như chèo, tuồng, cải lương, các thể loại ca nhạc như hát quan họ, hát văn, các làn điệu dân ca, các điệu hò, điệu lý, v.v…, và những điệu múa truyền thống mang đặc trưng văn hoá tộc người, văn hóa vùng, miền, thể hiện tư tưởng, tình cảm của con người bằng ngôn ngữ biểu cảm riêng mang tính thẩm mỹ và chức năng giáo dục đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống của người 16
  18. Việt Nam và đều có một sức hấp dẫn đến kỳ lạ đối với nhiều du khách quốc tế. Đặc biêt, nghệ thuật múa rối nước của Việt Nam là một loại hình sân khấu dân tộc cổ truyền được ưa chuộng trong nước và được giới thiệu ở rất nhiều nước trên thế giới. d. Nghề thủ công truyền thống Việt Nam có hàng trăm các làng nghề truyền thống với những sản phẩm độc đáo, đa dạng về chủng loại, phong phú về màu sắc, mang tính nghệ thuật cao. Nhiều mặt hàng thủ công truyền thống của nước ta đã trở nên không thể thiếu trên thị trường trong nước và quốc tế. Chẳng hạn như nghề gốm sứ cổ truyền có ở nhiều nơi trên đất nước: Bắc Giang có Thổ Hà, Phù Lãng; Vĩnh Phúc có Hương Canh; Quảng Ninh có Đông Triều; Thanh Hoá có Lò Chum; Hội An có Thanh Hà; Đồng Nai có Biên Hoà v.v.. Nhưng có lịch sử lâu đời nhất thì phải là Bát Tràng ở Hà Nội. Gốm sứ Bát Tràng nổi tiếng không chỉ trong nước mà cả ở nước ngoài. Rồi nghề dệt lụa Vạn Phúc ở Hà Tây, Phương Thành - Trực Ninh ở Nam Định. Lụa Việt Nam đã theo chân các thương gia lên tàu biển đi tới bè bạn xa gần bốn phương. Đặc biệt là nghề mây tre đan và sơn mài xuất hiện từ hàng ngàn năm nay, cha truyền con nối có ở Hà Tây (Ninh Sở, Nhị Khê), Thanh Hoá (Quảng Xương, Quảng Phong). Và ngoài ra còn rất nhiều các nghề thủ công nổi tiếng khác như đúc đồng Phước Kiều ở Quảng Nam, chạm khắc đá ở Đà Nẵng, nghề làm nón ở Hà Tây, ở Huế, tranh Đông Hồ ở Hà Nội, chạm gỗ La Xuyên ở Nam Định v.v… Đó còn là những điểm dừng chân hấp dẫn cho những du khách muốn khám phá, tìm hiểu về đất nước con người Việt Nam. Hàng năm, các làng nghề truyền thống đó thu hút hàng trăm, hàng ngàn khách du lịch đến từ khắp mọi nơi trên thế giới. d. Nghệ thuật ẩm thực Ai đã có dịp đến thăm Việt Nam, đi dọc chiều dài đất nước, hẵn sẽ không thể quên những món ăn bình dị, dân dã nhưng cũng hết sức độc đáo, tinh tế. Mỗi 17
  19. món ăn lại có hương vị đặc biệt riêng của nó. Đó là các món ăn cổ truyền của dân tộc Việt Nam như báng chưng, bánh dày, giò lụa, nem rán, bánh cuốn, bún, phở… Ngoài ra, mỗi vùng, mỗi địa phương lại có những món ăn, đặc sản ngon, thu hút biết bao thực khách trong và ngoài nước như tôm chua, cơm hến Huế, cao lầu Faifo, bò tái Cầu Mống (Quảng Nam - Đà Nẵng), hủ tiếu Mỹ Tho, yến sào (Khánh Hoà)… 2.3. Lễ hội truyền thống Việt Nam là một dân tộc đã có hàng nghìn năm lịch sử. Cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới, Việt Nam có một nền văn hoá mang bản sắc riêng. Chính những nét riêng đó đã làm nên cốt cách, hình hài và bản sắc của dân tộc Việt Nam. Trong kho tàng văn hoá của dân tộc Việt Nam, sinh hoạt lễ hội là loại hình văn hoá rất đặc trưng ở Việt Nam. Lễ hội là sinh hoạt văn hóa dân gian có mặt hầu như ở khắp mọi miền đất nước. Nhiều lễ hội ra đời cách ngày nay hàng nghìn năm nhưng vẫn được gìn giữ và duy trì. Lễ hội ở Việt Nam bao giờ cũng hướng tới một đối tượng thiêng cần suy tôn là nhân thần hay nhiên thần. Xét đến cùng cội rễ thì đó chính là hình ảnh hội tụ những phẩm chất cao đẹp nhất của con người. Giúp con người nhớ về nguồn cội, hướng thiện và nhằm tạo dựng cho mỗi con người một cuộc sống tốt lành, yên vui. Lễ hội truyền thống của Việt Nam chính là dịp để con người giao lưu cộng cảm, trao truyền những đạo lý, tình cảm, mỹ tục và khát vọng cao đẹp. Nó mang lại cho con người sự thanh thản nơi tâm linh, gạt bỏ hay quên đi những lo toan thường nhật để về với cội nguồn, với thiên nhiên mà thêm yêu đất nước. Hầu hết lễ hội ở Việt Nam thường diễn ra vào mùa xuân và mùa thu là hai mùa đẹp nhất trong năm, đồng thời cũng là lúc nhà nông có thời gian nhàn rỗi. Trong số các lễ hội lớn ở Việt Nam phải kể đến những lễ hội chi phối hầu hết các gia đình trên mọi miền đất nước, đến mọi dân tộc, tôn giáo, đó là Tết Nguyên Đán, rằm tháng bảy và tết Trung thu. Còn những lễ hội khác diễn ra ở từng địa phương, từng vùng sẽ được giới thiệu ở phần các tỉnh. 18
  20. Với tiềm năng du lịch phong phú, đa dạng, độc đáo như thế, mặc dù còn nhiều khó khăn trong việc khai thác, những năm gần đây ngành Du lịch Việt Nam cũng đã thu hút hàng triệu khách du lịch trong và ngoài nước, góp phần đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Hơn thế, bằng tiềm năng và sản phẩm du lịch của mình, ngành Du lịch đang tạo điều kiện tốt cho bè bạn khắp năm châu ngày càng hiểu biết và yêu mến đất nước Việt Nam. Với tiềm năng du lịch phong phú, đa dạng, độc đáo như thế, mặc dù còn nhiều khó khăn trong việc khai thác, những năm gần đây ngành Du lịch Việt Nam cũng đã thu hút hàng triệu khách du lịch trong và ngoài nước, góp phần đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Hơn thế, bằng tiềm năng và sản phẩm du lịch của mình, ngành Du lịch đang tạo điều kiện tốt cho bè bạn khắp năm châu ngày càng hiểu biết và yêu mến đất nước Việt Nam. 3. Các di sản thế giới tại Việt Nam Từ bao lâu nay, hình ảnh Việt Nam được tô đậm như một đất nước anh dũng, kiên cường đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc. Nay xứ sở này lại thêm quyến rũ bao du khách bốn phương bởi những di sản thiên nhiên và văn hoá quí giá được thiên nhiên ban tặng và được tạo dựng bởi hàng ngàn năm lịch sử: nào vịnh Hạ Long, nào quần thể di tích văn hoá Huế, Mỹ Sơn và Hội An... 3.1. Vịnh Hạ Long Đến vịnh Hạ Long, ta không khỏi ngây ngất bởi vẻ đẹp thần tiên của non nước mây trời nơi đây. Từ trên cao nhìn xuống, vịnh Hạ Long như một bức tranh thuỷ mặc khổng lồ vô cùng sống động với hàng ngàn đảo đá. Chỗ thì quây quần, tụ lại xúm xít chen chân; chỗ lại tách rời riêng biệt tạo nên những nét chấm phá cực kỳ tài nghệ. Dưới bàn tay khéo léo, tài hoa của tạo hoá, các đảo đá vô tri, tĩnh lặng trở thành những nhân vật sống động, thân thuộc với con người. Đảo thì giống như đôi gà chọi nhau chờn vờn trên sóng nước, đảo lại giống một chú rùa khổng lồ lim dim ngủ hay như một vị sư già đang chắp tay hướng ra mặt biển tụng kinh 19
nguon tai.lieu . vn