Xem mẫu

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG ----------------------- KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP Đề tài: DỊCH VỤ NGÂN HÀNG QUỐC TẾ – GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ PHÁT TRIỂN TRONG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI QUỐC DOANH VIỆT NAM Sinh viên : Hà Duy Tiến Lớp : A2-CN9 Giáo viên hướng dẫn : Phan Anh Tuấn Hà Nội năm 2003 68
  2. Lời mở đầu Trong thời đại toàn cầu hoá hoạt động kinh tế như hiện nay, yêu cầu cấp bách được đặt ra là mọi lĩnh vực, ngành nghề kinh tế phải được cải tổ cho phù hợp với đời sống kinh tế mới. Trong nền kinh tế phát triển, hoạt động và dịch vụ ngân hàng thương mại đi vào tận cùng những ngõ ngách của nền kinh tế và đời sống con người. Ngược lại, một nền kinh tế muốn phát triển thì phải có một hệ thống ngân hàng mạnh. Chính vì vậy, ưu tiên hàng đầu là nghiên cứu và phát triển các dịch vụ ngân hàng. Trong những năm gần đây, các nền kinh tế trên thế giới thường phải đối mặt với nhiều biến động trên thị trường tài chính dẫn đến suy thoái kinh tế nghiêm trọng. Các nhà kinh tế cũng như các nhà quản lý trên thế giới trên thế giới đặc biệt quan tâm, nghiên cứu đến lĩnh vực tài chính nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng.Việt Nam hiện nay đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế tiến tới công nghiệp hoá,hiện đại hoá. Đảng và nhà nước ta luôn có chủ trương huy động mọi nguồn lực, nguồn vốn phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội trong đó nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn ngoài nước là rất quan trọng, nguồn vốn hỗ trơ phát triển ODA cần được sự quan tâm đặc biệt. Đảng và nhà nước cũng chủ trương phát triển kinh tế hướng vào xuất khẩu. Tất cả cho thấy mối quan hệ kinh tế với nước ngoài là đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh ở nước ta. Mà mối quan hệ này muốn tồn tại và phát triển thì phải nhờ vào các dịch vụ ngân hàng quốc tế. Do vậy việc nghiên cứu về dịch vụ ngân hàng quốc tế ở các ngân hàng quốc doanh ở Việt nam là rất cần thiết. Khoá luận tốt nghiệp này tập trung vào hệ thống hoá vấn đề lý luận, làm rõ bản chất vai trò và lợi ích của dịch vụ ngân hàng quốc tế. Từ lý luận dẫn đến đánh giá khách quan hoạt động ngân hàng quốc tế ở các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt nam. Khoá luận này không tập trung vào việc mô tả qui trình nghiệp vụ, mà chủ yếu phân tích dữ liệu nhằm mục đích giải 69
  3. thích được vấn đề: Tại sao một số dịch vụ có tồn tại nhưng chưa phát triển, một số khác có phát triển nhưng chưa đạt được trình độ quốc tế, từ đó đưa ra những giải pháp kiến nghị nhằm hoàn thiện và phát triển hoạt động ngân hàng quốc tế ở các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam. Do hạn chế về khả năng và giới hạn của một khoá luận tốt nghiệp nên không thể nghiên cứu một cách tỉ mỉ tất cả các khía cạnh khác nhau của dịch vụ ngân hàng quốc tế mà chỉ tập trung nghiên cứu những dịch vụ ngân hàng quốc tế chủ yếu ở các ngân hàng thương mại quốc doanh qua nhưng năm gần đây. Đề tài: Dịch vụ ngân hàng quốc tế – giải pháp hoàn thiện và phát triển trong hệ thống các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam Bố cục của khoá luận ngoài phần mở đầu và kết luận gồm có ba chương Chương I: Những vấn đề cơ bản về dịch vụ ngân hàng quốc tế Chương II: Thực trạng dịch vụ ngân hàng quốc tế ở các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt nam Chương III: Những giải pháp hoàn thiện và phát triển dịch vụ ngân hàng quốc tế của các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt nam. 70
  4. CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DỊCH VỤ NGÂN HÀNG QUỐC TẾ I . TỔNG QUAN VỀ DỊCH VỤ NGÂN HÀNG QUỐC TẾ 1. Đôi nét về lịch sử ngân hàng và dịch vụ ngân hàng Thuật ngữ "ngân hàng" đã có từ lâu. Tại thành Athène (Hylạp), các nhà đổi tiền được gọi Trapezita - bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp "Trapeza"có nghĩa là cái bàn. Hoạt động mua bán, trao đổi, vay tiền được tiến hành trên các ghế dài gọi là Banca. Đây cũng là nguồn gốc tạo các từ Banque (Pháp), Bank (Anh, Mỹ, Đức), Banco (Italia)…. có nghĩa là ngân hàng sau này. Ngân hàng liên tục phát triển theo điều kiện kinh tế xã hội. Các nghiệp vụ ngân hàng đơn giản đã xuất hiện từ thời thượng cổ. Dưới thời Trung cổ, các hoạt động ngân hàng được mở rộng tại khắp các nước Châu Âu, Trung đông, Trung Hoa. Tuy hoạt động ngân hàng xuất hiện từ lâu, nhưng mãi đến đầu thế kỷ XV (1401), mới có một cơ quan trên thế giới được xem là một ngân hàng thực sự, đó là Banca di Barcelone ở Tây ban nha. Và sau đó ít năm, ngân hàng Banca di Valencia cũng đựơc thành lập ở Tây ban nha. Hai ngân hàng này được coi là hai ngân hàng đầu tiên trên thế giới đã thực hiện phần lớn các nghiệp vụ của ngân hàng hiện nay tuy qui mô và mức độ có khác nhau. Trước thế kỷ 17 hoạt động ngân hàng chỉ là buôn tiền, cho vay nặng lãi là chủ yếu và khách hàng chính là vua chúa và tầng lớp quí tộc giàu sang. Năm 1557 vua chúa các nước Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha nhất loạt tuyên bố không trả nợ làm cho hàng loạt ngân hàng phá sản Do không chịu mức lãi suất cao quá mức, các nhà tư bản nông, công, thương nghiệp hùn vốn với nhau lập ra các ngân hàng, hội tín dụng để cho vay vốn với mức lãi suất có thể chấp nhận được. Loại ngân hàng này xuất hiện ở Vienise (Italia) năm 1589, Milan (Italia) năm 1593, Asmterdam (Hà 71
  5. lan) năm 1600. Cuối thế kỷ 17 xuất hiện ngân hàng lớn nhất thế giới, ngân hàng Anh ở Luân đôn. Ngân hàng Anh là một công ty cổ phần lớn kinh doanh tín dụng tư bản với mức lãi suất thấp 6% năm và điều này buộc các ngân hàng cho vay nặng lãi phải hạ lãi suất theo và kinh doanh giống các ngân hàng tư bản. Trong suốt thế kỷ 18, các ngân hàng tư bản khác ở châu Âu lục địa, Bắc Mỹ lần lượt ra đời. Từ giữa thế kỷ 19 trở đi, các nước đế quốc mới thành lập các ngân hàng trên các nước phong kiến, thuộc địa, nửa thuộc địa như ngân hàng Đông Dương của Pháp thành lập năm 1875 tại Sài gòn (Việt nam). Trong thời đại hiện nay, việc kinh doanh tiền tệ không còn là độc quyền của các ngân hàng. Cùng với ngân hàng, các tổ chức tài chính khác như công ty bảo hiểm, các quỹ hưu trí, quỹ tín dụng, hội tín dụng cho vay. Tuy nhiên khi nghiên cứu lịch sử dịch vụ ngân hàng cho thấy rằng có dịch vụ ngân hàng vẫn là của riêng ngân hàng. Dịch vụ Ngân hàng Quốc tế đã trải qua các giai đoạn phát triển sau: Giai đoạn sơ khai, ngân hàng nhận bảo quản, giữ hộ tiền, gửi tiền và cho vay tiền và hoạt động này diễn ra trên chiếc bàn dài (tiếng Lating là Bancus). Hoạt động này là nghiệp vụ ngân hàng đầu tiên, tồn tại lâu đời nhất. Theo thời gian, cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội các nghiệp vụ ngân hàng ngày càng đa dạng, phát triển không ngừng. Giai đoạn phát triển thứ hai Trong vòng năm thế kỷ - từ thế kỷ thứ V đến thế kỷ thứ X, nhiều hoạt động mới được áp dụng và đạt được những bước tiến mới về nghiệp vụ ngân hàng như: ♦ Ngân hàng bắt đầu ghi chép và theo dõi hoạt động của thân chủ qua số hiệu tài khoản. ♦ Ngân hàng áp dụng phương pháp bù trừ. Những chủ nợ của cùng một loại tiền hay tài sản thì được thanh toán chuyển nhượng lẫn nhau trong mua bán giữa họ ở cùng một ngân hàng và kể cả đối tác ở ngân hàng khác, và nợ đáo hạn được bù trừ. 72
  6. ♦ Nghiệp vụ chuyển ngân, tức là chuyển tiền từ nơi này sang nơi khác cũng được áp dụng. ♦ Ngân hàng cũng làm nghiệp vụ bảo lãnh, là biểu hiện ban đầu của hình thức chấp nhận các thương phiếu trong nghiệp vụ ngân hàng hiện đại ♦ Ngân hàng đã áp dụng chiết khấu thương phiếu. Giai đoạn thứ ba: Ngân hàng đánh dấu sự phát triển vào giai đoạn thứ ba với việc mạnh dạn cho vay tiền, tạo ra các khoản tiền mới trong lưu thông. Ngân hàng từ lâu đã phát hành các chứng thư (như séc ngày nay) khi có người gửi vào ngân hàng bằng tiền vàng hoặc tiền đúc - 100 tiền ngân hàng thay cho 100 tiền vàng đúc. Tuy nhiên vào cuối thế kỷ XVII khi chứng thư được chấp nhận rộng rãi và nhu cầu tăng đột ngột, một số ngân hàng đã phát hành các chứng thư tự do (không có tiền vàng bảo đảm) và tiền ngân hàng ra đời. Tuy nhiên tiền ngân hàng (Bank notes) chỉ được lưu hành rộng rãi từ đầu thế kỷ XX sau khi nhà nước độc quyền phát hành giấy bạc pháp định. Ngày nay do sự phát triển về kinh tế, đặc biệt là khoa học công nghệ, dịch vụ ngân hàng đã phát triển về mọi mặt và ra đời những loại sử dụng công nghệ cao như thanh toán bằng thẻ điện tử, ứng dụng mạng SWIFT….. Do sự đa dạng của dịch vụ ngân hàng nên không thể có định nghĩa cụ thể, thống nhất về dịch vụ ngân hàng. Hiểu nôm na dịch vụ ngân hàng nói chung là tất cả những việc mà ngân hàng thường làm trong khuôn khổ nghề nghiệp của họ. 2. Lịch sử phát triển của dịch vụ ngân hàng quốc tế Trong lịch sử phát triển lâu dài của hoạt động ngân hàng như nêu ở phần trên, có xuất hiện mầm mống hoạt động ngân hàng quốc tế tại các nước ở châu Âu vào thế kỷ 13. Vào thế kỷ 19, các nước thực dân đã mở rộng vùng thuộc địa của mình, tìm kiếm thị trường ngoài lãnh thổ của mình. Các ngân hàng thương mại của Anh và Pháp đã thiết lập nhiều chi nhánh ở nước ngoài. Mạng lưới chi nhánh của họ bao trùm trên lãnh thổ châu Âu và các vùng lãnh 73
  7. thổ thuộc địa. Ngân hàng Đông Phương của Anh thành lập tại Trung Quốc, ngân hàng Đông Dương của Pháp thành lập ở Việt Nam. Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, các nước châu Âu rất cần tiền để tái thiết nền kinh tế bị huỷ hoại nặng nề bởi chiến tranh và Mỹ là nhà tài trợ chính. Ngoài ra sự tăng trưởng chưa từng có về đầu tư và thương mại quốc tế trên thế giới sau chiến tranh thế giới thứ II đã dẫn đến sự phát triển không ngừng các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế của các ngân hàng thương mại. Với các hiệp định “Land Bank”, “Marshall”, các ngân hàng Hoa kỳ đã cho nước ngoài vay hàng chục tỷ USD. Rất nhiều ngân hàng thương mại Hoa kỳ, trong thập niên 60, tăng lên nhanh chóng về quy mô đã đưa đến chủ trương mở rộng nghiệp vụ ngân hàng ra nước ngoài (cả các nước công nghiệp phát triển và các nước đang phát triển), đó là phản ứng tự nhiên của việc phát triển nghiệp vụ ngân hàng trong nước và đáp nhu cầu tham gia vào thị trường tài chính quốc tế và những đổi mới trong lĩnh vực này đã tạo ra rất nhiều nghiệp vụ ngân hàng mới. Lịch sử phát triển ngân hàng gọi đây là làn sóng phát triển dịch vụ ngân hàng quốc tế thứ nhất. Một vài thập kỷ sau thế chiến thứ II kết thúc, bên cạnh sự phát triển kinh tế vượt bậc của Mỹ, các quốc gia châu Âu như Anh, Pháp, Đức... các nước tư bản khác như Canada và đặc biệt là Nhật cũng giành được những thành tựu kinh tế quan trọng. Lẽ tất yếu khi kinh tế phát triển kéo theo việc các ngân hàng của các quốc gia công nghiệp hoá, đặc biệt là ngân hàng các nước Canada, Nhật bản, Đức, Anh, Pháp cũng theo gương của các Ngân hàng Hoa kỳ ra sức mở rộng nghiệp vụ của mình ra nước ngoài trong thập kỷ 70. Lịch sử ngân hàng gọi đây là làn sóng phát triển dịch vụ ngân hàng quốc tế thứ hai. Bên cạnh làn sóng phát triển dịch vụ ngân hàng ồ ạt của các nước tư bản, có một làn sóng phát triển dịch vụ ngân hàng thứ ba của các nước đang phát triển diễn ra bình lặng vào cuối thập kỷ 70. Làn sóng phát triển dịch vụ ngân hàng thứ tư bắt đầu bằng sự kiện ra 74
  8. đời đạo luật nhất thể hoá châu Âu ban hành vào năm 1986; trong đó Cộng đồng Châu Âu xoá bỏ mọi rào chắn đối với luồng vốn quốc tế. Điều này tạo điều kiện cho dịch vụ ngân hàng quốc tế phát triển mạnh mẽ về chất lượng và số lượng và vì vậy các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế mang tính toàn cầu hoá. 75
  9. 3. Bản chất dịch vụ ngân hàng quốc tế 3.1. Định nghĩa dịch vụ ngân hàng quốc tế Phần trên đã cho thấy một bức tranh tổng quát về dịch vụ ngân hàng và dịch vụ ngân hàng quốc tế nói chung, nhưng để xây dựng định nghĩa dịch vụ ngân hàng quốc tế cần: ♦ Căn cứ phân biệt nghiệp vụ ngân hàng quốc tế và nghiệp vụ ngân hàng trong nước là loại hoạt động kinh doanh mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng của họ có tính quốc tế hay không. Điều này được giải thích bởi ba lý do sau ♦ Thứ nhất, nghiệp vụ ngân hàng quốc tế là loại hoạt động trợ giúp cho hoạt động xuất nhập khẩu của khách hàng thông qua hoạt động tài trợ thương mại quốc tế. Điều này có nghĩa là nghiệp vụ ngân hàng trong trường hợp này gắn bó chặt chẽ với thương mại quốc tế. ♦ Thứ hai, nghiệp vụ ngân hàng quốc tế là loại hoạt động đáp ứng nhu cầu trao đổi ngoại tệ của khách hàng nhằm thực hiện các giao dịch thương mại và đầu tư qua biên giới quốc gia. ♦ Thứ ba, vì các ngân hàng hoạt động kinh doanh quốc tế có điều kiện thuận lợi kinh doanh ngoại tệ, họ cũng thường kinh doanh ngoại tệ cho chính số tiền của họ. ♦ Một căn cứ nữa để phân biệt nghiệp vụ ngân hàng quốc tế và nghiệp vụ ngân hàng trong nước của ngân hàng thương mại là nghiệp vụ ngân hàng quốc tế diễn ra giữa hai hay nhiều quốc gia; còn nghiệp vụ ngân hàng trong nước chỉ diễn ra trong nội bộ quốc gia và đối tượng khách hàng là pháp nhân, thể nhân của quốc gia đó. Như vậy ta có thể đưa ra định nghĩa dịch vụ ngân ngân hàng quốc tế: Dịch vụ ngân hàng quốc tế là các giao dịch ngân hàng liên quan tới một hoặc nhiều bên đối tác ở ngoài biên giới nước có trụ sở chính của ngân hàng cung cấp dịch vụ 76
  10. Trên phương diện phân loại nghiệp vụ ngân hàng quốc tế là một dạng hoạt động kinh doanh quốc tế thì nghiệp vụ ngân hàng quốc tế của ngân hàng thương mại có thể được coi là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình hoạt động đầu tư và cung ứng dịch vụ tiền tệ và tài chính quốc tế trên thị trường trong nước và quốc tế nhằm mục đích sinh lời. Việc thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế, các ngân hàng thương mại tổ chức bằng hai phương thức sau: Tiến hành các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế tại nước ngoài bằng cách thiết lập các chi nhánh, công ty con, văn phòng đại diện. v.v ở nước ngoài. Tổ chức một bộ phận kinh doanh quốc tế được chuyên môn hoá tại trụ sở chính để thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế. 3.2. Đặc điểm nghiệp vụ ngân hàng quốc tế Mặc dù ngày nay dịch vụ ngân hàng quốc tế của ngân hàng thương mại phát triển đa dạng về hình thức cũng như nội dung, tuy nhiên sau khi nghiên cứu về học thuật cũng như quá trình vận động phát triển của nó, chúng ta rút ra những đặc điểm chung như sau: Xu thế gia tăng nhanh hơn mức tăng tiềm lực sản xuất: Như đã trình bày trong phần lịch sử phát triển, ngày nay xu thế quốc tế hoá hoạt động ngân hàng đang diễn ra mạnh mẽ. Trong lĩnh vực kinh doanh và sản xuất hàng hoá cũng diễn ra xu thế toàn cầu hoá nhưng thực tế cho thấy mức độ thấp hơn của thị trường tài chính. Hàng ngày, lượng tiền tệ lưu chuyển trên thị trường tài chính thế giới cao gấp 30 lần khối lượng hàng hoá lưu chuyển trên phạm vi toàn cầu. Đối với các nước đang phát triển, chỉ trong 8 năm (1990- 1997), dòng vốn đầu tư tư nhân đổ vào tăng hơn 5 lần. Trong khi mậu dịch quốc tế của giai đoạn này chỉ tăng 5%/năm thì dòng vốn tư nhân lưu chuyển tăng 30%/ năm. 77
  11. Dịch vụ ngân hàng quốc tế đề cao nhân tố con người: Đặc điểm này do đặc điểm kinh doanh quốc tế hiện nay tạo ra. Ngày nay, do sự phát triển mạnh mẽ về khoa học công nghệ và kinh tế cũng như sự phức tạp của bối cảnh toàn cầu hoá, kinh doanh dịch vụ ngân hàng quốc tế đòi hỏi các nhà hoạt động ngân hàng phải: - Hiểu biết sâu sắc về hoạt động kinh doanh, cả kinh doanh trong nước lẫn khinh doanh đối ngoại, có kiến thức rộng và thường xuyên cập nhật về thị trường trong nước và quốc tế, ngoài ra phải có kiến thức sâu rộng về tài chính quốc tế. - Hiểu biết và áp dụng thành thạo các ứng dụng của khoa học công nghệ. Ngày nay, hầu hết các ngân hàng kinh doanh quốc tế đều sử dụng mạng toàn cầu Swift, mạng giao dịch kinh doanh toàn cầu Reuter, và ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý và kinh doanh. Do vậy việc sử dụng thành thạo các tiện ích ngân hàng, máy tính và công nghệ thông tin là bắt buộc - Phải hiểu biết thông thạo ít nhất một ngoại ngữ, tiếng Anh là bắt buộc. Do là kinh doanh quốc tế nếu không thông thạo ngoại ngữ thì không làm việc được - Do bối cảnh hoạt động kinh doanh đòi hỏi rất nhiều về trình độ của nguồn nhân lực, nên việc tập trung vào phát triển và bồi dưỡng nguồn nhân lực là điều tất yếu Nghiệp vụ ngân hàng quốc tế có tính rủi ro cao: Do sự phức tạp của kinh doanh quốc tế nên thường xảy ra việc tăng, giảm đột ngột về ngoại tệ, lãi suất, trục trặc trong thanh toán quốc tế, biến động chính trị….Vì vậy nghiệp vụ ngân hàng quốc tế có mức độ rủi ro cao hơn nghiệp vụ ngân hàng ở trong nước. Tuy nhiên, rủi ro càng cao lợi nhuận càng lớn nên các ngân hàng vẫn phát triển hoạt động kinh doanh quốc tế để có cơ hội và tiềm năng phát triển lâu dài. Nghiệp vụ ngân hàng quốc tế chịu ảnh hưởng nhiều bởi luật pháp quốc tế và thông lệ quốc tế: Đặc điểm này do tính quốc tế của dịch vụ 78
  12. ngân hàng quốc tế quyết định. Do sự phức tạp trong môi trường hoạt động kinh doanh quốc tế, do sự không thống nhất về luật pháp giữa các quốc gia, do trình độ phát triển không đồng đều mà đòi hỏi phải có luật pháp quốc tế, thông lệ quốc tế tạo điều kiện thuận lợi và an toàn cho các ngân hàng thực hiện dịch vụ ngân hàng quốc tế. 3.3 Động cơ tiến hành dịch vụ ngân hàng quốc tế Động cơ dễ hiểu nhất là mong muốn theo đuổi các khách hàng khi các khách hàng của họ thực hiện hoạt động ra nước ngoài. Đây là một nguyên lý Marketing truyền thống “theo chân khách hàng”. Các công ty của Mỹ những năm 60, 70 của Nhật và châu Âu trong thập niên 70 hăng hái mở rộng hoạt động ra nước ngoài thì các ngân hàng của họ cũng theo sau. Động cơ này có phần mang tính phòng vệ, bởi vì các ngân hàng muốn duy trì và củng cố các mối quan hệ với các khách hàng và muốn chứng tỏ một điều là họ có kiến thức và chất lượng phục vụ cao hơn các ngân hàng địa phương. Động cơ khác thúc đẩy các ngân hàng mở rộng ra quốc tế là nhằm đa dạng hoá cơ sở kinh doanh của họ. Các ngân hàng đầu tư vào các khoản cho vay có đặc tính khác với các khoản vay nội địa. Loại nhu cầu về các khoản vay nước ngoài có thể bù đắp các biến động về nhu cầu khoản vay nội địa vì vậy có tác dụng làm bình ổn thu nhập của ngân hàng. Hơn thế nữa nhờ đa dạng hoá kinh doanh mà làm thu nhập ngân hàng tăng, khả năng cạnh tranh mạnh, phân tán được rủi ro, thiết lập nhiều quan hệ kinh doanh tạo tiền đề thực hiện đầu tư kinh doanh sau này. 4. Các hình thức tổ chức nghiệp vụ ngân hàng quốc tế và vai trò của các trung tâm tài chính quốc tế 4.1. Các hình thức tổ chức nghiệp vụ ngân hàng quốc tế Như chúng ta đã biết, nét đặc trưng để phân biệt dịch vụ ngân hàng quốc tế với dịch vụ ngân hàng trong nước đó là tính quốc tế. Xét về mặt không gian thì khoảng cách địa lý giữa các đối tác là lớn, vượt ngoài phạm vi 79
  13. biên giới quốc gia. Chính vì vậy ngân hàng thương mại ngoài trụ sở chính còn phải sử dụng nhiều hình thức khác như : Văn phòng đại diện: là đơn vị dịch vụ nhỏ do ngân hàng mẹ thành lập ở nước ngoài nhằm trợ giúp cho các công ty trong nước kinh doanh ở nước ngoài, là đối tác nước ngoài của ngân hàng mẹ, trong việc quan hệ với các ngân hàng đại lý. Các văn phòng này thường có ít nhân viên, không nhận tiền gửi, và chủ yếu thực hiện các công việc chuẩn bị cơ bản cho các khoản vay đối với người đi vay từ trụ sở chính, phát triển hoạt động kinh doanh… Việc thiết lập văn phòng đại diện ở nước ngoài thường là bước đầu tiên trong quá trình phát triển hoạt động kinh doanh ở nước ngoài. Chi nhánh ngân vỏ bọc: là các văn phòng nước ngoài được thiết lập nhằm tham gia vào các thị trường tiền tệ châu Âu để dành các khoản nợ đồng đô la châu Âu hay thực hiện các khoản vay ngân hàng nước ngoài. Chúng nằm chủ yếu ở những nơi có nền tài chính chủ yếu, như Bahamas, nơi chúng hoạt động mà không phải chịu thuế; họ không quan tâm đến công việc kinh doanh ở địa phương. Loại hình này xuất hiện nhiều ở Mỹ. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện dịch vụ trọn gói: Chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện trọn gói là sự mở rộng của ngân hàng chính, hoạt động như các ngân hàng tại nước đó nhưng về mặt pháp lý chi nhánh ngân hàng tại nước ngoài lại là một bộ phận của ngân hàng mẹ. Các chi nhánh thực hiện kinh donh nghiệp vụ ngân hàng bán sỉ dựa chủ yếu vào các khoản tiền gửi mua từ hệ thống ngân hàng quốc tế được biết đến như là thị trường liên ngân hàng. Họ không thể phát triển một cơ sở tiền gửi địa phương. Chi nhánh ngân hàng ở nước ngoài vừa chịu sự điều chỉnh của luật ngân hàng trong nước vừa chịu sự điều chỉnh của luật ngân hàng nước ngoài mà nó mở chi nhánh. Ở một số quốc gia, chi nhánh ngân hàng nước ngoài bị cấm, ở một số quốc gia khác người ta không muốn lập chi nhánh vì có rủi ro sung công. Chi nhánh ngân hàng ở nước ngoài thường được mở tại các trung tâm tài chính và thương mại của thế giới. 80
  14. Ngân hàng con ở nước ngoài: Ngân hàng con ở nước ngoài là một định chế độc lập do ngân hàng mẹ sở hữu hoàn toàn hoặc gần như sở hữu hoàn toàn để phù hợp với luật pháp của nước ngoài. Ngân hàng con ở nước ngoài hạch toán độc lập, tự chủ về tài chính, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh của mình. Ngoài ra còn hình thức Ngân hàng con ở nước ngoài nhưng ngân hàng mẹ không kiểm soát chúng (ngân hàng mẹ chỉ đóng góp một phần vốn tối thiểu, không đủ giành quyền kiểm soát). Nói chung, ngân hàng con ở nước ngoài chịu sự điều chỉnh của luật pháp nước sở tại và hầu như không chịu ảnh hưởng của luật pháp tại nước mà ngân hàng mẹ đặt trụ sở chính. Trong thời gian gân đây, các ngân hàng kinh doanh quốc tế có xu hướng mua các ngân hàng con thay vì lập chi nhánh ở nước ngoài. Việc sở hữu một ngân hàng con, trách nhiệm của ngân hàng mẹ chỉ giới hạn trong số vốn đầu tư vào ngân hàng con thấp hơn giới hạn trách nhiệm của ngân hàng mẹ đối với chi nhánh mới thành lập. Ngoài ra việc lập chi nhánh cũng rất tốn kém cả về chi phí thành lập lẫn chi phí quản lý. Ngân hàng liên doanh: Đây là hình thức ngân hàng góp vốn để kinh doanh giữa một hoặc nhiều ngân hàng nước ngoài với một hoặc nhiều ngân hàng địa phương hoạt động theo khuôn khổ của pháp luật địa phương. Cũng giống như ngân hàng con ở nước ngoài, ngân hàng liên doanh định chế độc lập đối với ngân hàng mẹ, hạch toán độc lập, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Nhược điểm lớn nhất của ngân hàng liên doanh là sự khó khăn trong quản lý. Liên minh ngân hàng: Đây là hình thức liên minh tạm thời giữa các ngân hàng. Các ngân hàng của các quốc gia khác nhau cùng nhau tham gia hoạt động cho vay quốc tế. Nét đặc trưng chính của liên minh là cùng nhau thực hiện các nghiệp vụ đặc biệt và phân chia thị trường theo vùng địa lý. Trên thực tế, liên minh thường hoạt động tại các trung tâm tài chính và hoạt động của họ chủ yếu diễn ra trên thị trường tài chính và tiền tệ quốc tế. 81
  15. Các câu lạc bộ ngân hàng: Đây là một hình thức hợp tác ngân hàng lâu dài có nguồn gốc từ việc cùng tham gia vào một liên kết nào đó. Thành viên của câu lạc bộ là các ngân hàng của các nước khác nhau cùng nhau góp vốn kinh doanh mà không có bất cứ một thủ tục pháp lý sáp nhập nào. Các hình thức của câu lạc bộ ngân hàng được phát triển mạnh mẽ vào đầu thập niên 1970. Cơ chế ngân hàng hải ngoại (International Banking Facilities -IBF): Vào tháng 12 năm 1981, các IBF được cục dự trữ liên bang Mỹ uỷ quyền cấp phép cho các ngân hàng và các tổ chức tiền gửi khác thực hiện hoạt động ngân hàng quốc tế trong nước Mỹ trên cơ sở giống như các chi nhánh và các ngân hàng trực thuộc nước ngoài của các ngân hàng Mỹ. Khi cấp phép cho các IBF, ý đồ chính của Fed là nhằm thu họat động này trở lại Mỹ. IBF tạo ra cho các ngân hàng môi trường tương đối tự do giống như môi trường các chi nhánh và ngân hàng trực thuộc của họ đã gặp ở nước ngoài. Không có các quy định dự trữ hay các hạn chế lãi suất nào đối với tiền gửi của người nước ngoài, không phải bảo hiểm cho các khoản tiền gửi và tránh được những đánh giá liên quan đến bảo hiểm. Phần lớn các tài sản của IBF bao gồm các khoản cho vay đối với các doanh nghiệp, chính phủ và ngân hàng trung ương nước ngoài với mục đích sử dụng ngoài nước Mỹ. Nguồn vốn của họ là từ các khoản vay liên ngân hàng của các tổ chức quốc tế , các chính phủ và các cơ quan nước ngoài 4.2. Vai trò của các trung tâm tài chính quốc tế 4.2.1. Đặc điểm và các loại hình trung tâm tài chính quốc tế Trung tâm tài chính quốc tế là địa điểm có mật độ cao các trụ sở của các ngân hàng hoạt động kinh doanh quốc tế, bất kể ngân hàng đó thuộc sở hữu của quốc gia nào. Các trung tâm tài chính có 3 đặc điểm quan trọng sau : Tại các trung tâm tài chính quốc tế, các ngân hàng quốc tế giao dịch với nhau bằng đồng tiền nước ngoài chứ không phải bằng đồng tiền của 82
  16. nước chủ nhà. Bởi vậy các giao dịch tài chính ở trung tâm tài chính không liên quan trực tiếp tới hệ thống ngân hàng nội địa. Các ngân hàng quốc tế hoạt động tại các trung tâm tài chính quốc tế nói chung được miễn thuế và không chịu sự quản lý ngoại hối như đối với các thị trường tài chính nội địa. Hoạt động tài chính tại các trung tâm tài chính quốc tế chủ yếu diễn ra giữa các khách hàng là người không cư trú (mặc dù không phải là độc quyền). Các trung tâm tài chính quốc tế chủ yếu khác nhau về chức năng và cơ cấu. Sự khác nhau bắt nguồn từ các nguyên nhân chủ yếu là đặc trưng của nền kinh tế cũng như môi trường pháp lý của nước sở tại. Nói chung, chúng ta có thể nhận dạng bốn loại trung tâm tài chính quốc tế nhờ vào phân loại nguồn vốn và sử dụng vốn trên thị trường. Các trung tâm tài chính chủ chốt (các trung tâm tài chính quốc tế) Các trung tâm tài chính chủ chốt như London, New york... phục vụ các khách hàng toàn cầu. Nhờ chiếm ưu thế về nguồn vốn cũng như sử dụng vốn trong các nước công nghiệp hoá phát triển mà các trung tâm tài chính chủ chốt huy động và cho vay lại trong các nước công nghiệp phát triển. Nhờ chiếm ưu thế vai trò trung gian, các trung tâm tài chính chủ chốt được coi như trục bánh xe tại các khu vực thị trường tài chính và ngân hàng, cung cấp các dịch vụ tài chính quốc tế như kinh doanh ngoại tệ, tiếp thị tài chính quốc tế, cho vay hợp vốn, bảo lãnh ngân hàng, bảo lãnh phát hành trái phiếu. Cơ sở hạ tầng của trung tâm tài chính chủ chốt rất hiện đại. Vì lý do này mà người ta còn gọi chúng là các trung tâm tài chính quốc tế. Trung tâm kế toán (ví dụ như đảo Nassau và Cayman) Các Ngân hàng quốc tế mở các chi nhánh và công ty con tại Trung tâm kế toán và thường sử dụng trung tâm kế toán (nhờ môi trường pháp lý và các quy định về kế toán dễ dàng) để kế toán các khoản cho vay và tiền gửi quốc tế. Các chi nhánh ngân hàng và công ty con này hoạt động như văn phòng lưu 83
  17. giữ sổ sách, văn phòng kế toán cho các giao dịch tài chính được thực hiện ở nước ngoài. Các trung tâm kế toán này chủ yếu phục vụ khách hàng quốc tế. Trong trường hợp này, trung tâm kế toán đóng vai trò kế toán cho thị trường tài chính quốc tế. Trung tâm quỹ (như Singapore, Hongkong) Trung tâm quỹ đóng vai trò như trung gian tài chính hướng nội, đóng vai trò như kênh dẫn vốn từ bên ngoài vào trong nước hay khu vực. Ngày nay Singapore và Hongkong đã phát triển thành trung tâm tài chính phát triển có thể đua tranh với các trung tâm tài chính chủ chốt như London, New York, và Tokyo. Trung tâm tập hợp tài chính (như Bahrain) Trung tâm tập hợp tài chính chủ yếu liên quan đến trung gian tài chính hướng ngoại. Các quốc gia ở khu vực gần Trung tâm tập hợp tài chính huy động được nhiều vốn nhưng năng lực sử dụng vốn kém. Nguồn tài chính thặng dư được tích luỹ ở trung tâm tập hợp tài chính sẽ được các tổ chức tài chính quốc tế đầu tư vào các khu vực khác trên thế giới. Trung tâm tài chính quốc tế ở các nước đang phát triển Từ thập niên 70, nhiều trung tâm tài chính nước ngoài đã được thiết lập ở các quốc gia đang phát triển như Singapore, Hongkong, Philippines, Bahrain, Egyp, Panama... Trong những năm gần đây, các trung tâm tài chính quốc tế đã được xây dựng tại các nước công nghiệp hóa mới nổi như Malaysia và Thái Lan. • 4.2.2. Vai trò của các trung tâm tài chính quốc tế Trung tâm tài chính quốc tế đóng vai trò quan trọng trong hoạt động ngân hàng và tài chính quốc tế. Sau đây là một số vai trò của trung tâm tài chính quốc tế: 1. Đa dạng hoá mạng lưới ngân hàng quốc tế: Hiện nay các trung tâm tài chính quốc tế là tụ điểm các giao dịch kinh doanh của các ngân hàng quốc tế. Trong các trung tâm này, các ngân hàng quốc tế chủ chốt hiện diện dưới 84
  18. các hình thức khác nhau. Với các ngân hàng không có mạng lưới ở nước ngoài thì việc chúng có mặt tại trung tâm tài chính quốc tế sẽ làm đa dạng hoá mạng lưới ngân hàng quốc tế. 2. Tạo ra cơ sở hạ tầng tốt: Các tổ chức ngân hàng quốc tế đã phát triển các trung tâm tài chính quốc tế để có cơ hội thu lợi nhuận do việc chiếm lợi thế kinh doanh trong các giao dịch quốc tế. Các trung tâm tài chính quốc tế đòi hỏi các cơ sở hạ tầng đắt tiền và tinh vi để trợ giúp chúng như viễn thông, hàng không, kế toán, môi trường pháp lý và những dịch vụ khác. Những chi phí này sẽ không có hiệu quả nếu được đầu tư vào các thị trường của các nước. Nhờ đóng ở vị trí trung tâm, các Trung tâm tài chính quốc tế sẽ trang trải các chi phí thông qua các dịch vụ phục vụ khách hàng của các nước. 3. Đóng góp cho nền kinh tế địa phương: Số lượng các tổ chức ngân hàng và tài chính quốc tế có mặt tại trung tâm tài chính quốc tế phải ở mức phù hợp để cung cấp hiệu quả dịch vụ cho khách hàng quốc tế. Các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế đòi hỏi kỹ năng tài chính phức tạp và cập nhật thông tin thị trường. Các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế cần phải đổi mới thường xuyên và trao đổi thông tin giữa các ngân hàng và các chuyên gia tài chính khác nhau. Ngoài ra, những yêu cầu của ngân hàng quốc tế hiện đại đòi hỏi các nhóm ngân hàng thực hiện các khoản cho vay hợp vốn và các giao dịch tín dụng. Với khối lượng tiền giao dịch lớn thì không một ngân hàng nào tự mình thực hiện giao dịch có hiệu quả. Các giao dịch ngân hàng quốc tế đòi hỏi mối quan hệ thân thiện giữa các ngân hàng bằng cách gắn với nhau bằng lợi ích của mỗi ngân hàng và cùng hoạt động với nhau. Ngoài việc cùng cho vay hợp vốn và chia sẻ rủi ro, cộng đồng tài chính ngân hàng quốc tế cùng ở trên một vị trí sẽ có ích cho việc cung ứng tiền và đầu tư. Sự tồn tại thị trường liên ngân hàng dẫn đến kênh tài chính hiệu quả. Một số ngân hàng đầu tư nguồn tiền thặng dư của họ vào thị trường liên ngân hàng, trong khi những ngân hàng khác sử dụng nguồn tiền thặng dư để tài trợ 85
  19. hoạt động tín dụng quốc tế. Trung tâm tài chính quốc tế là môi trường thuận lợi cho người vay và người đầu tư trong vùng gặp nhau. 4. Tạo ra môi trường pháp lý dễ chịu: Nhà cầm quyền tại các trung tâm tài chính đã cho phép các ngân hàng quốc tế không chịu các gánh nặng về thuế, những đòi hỏi về tỷ lệ vốn khả dụng cũng như dự trữ bắt buộc. Các ngân hàng quốc tế cũng được phép huy động và sử dụng nguồn vốn quốc tế tạm thời nhàn rỗi để đầu tư mà không bị kiểm soát về ngoại hối cũng như về tiền tệ. Thị trường liên ngân hàng cung cấp cho họ cơ hội đầu tư nguồn vốn thặng dư một cách dễ dàng và với rủi ro thấp nhất. Trung tâm tài chính quốc tế không chỉ thuận lợi cho các hoạt động ngân hàng mà còn thuận lợi cho các các hoạt động khác nhờ những ưu điểm hiển nhiên của nó. Trung tâm tài chính là nơi đóng trụ sở của các công ty con của các công ty đa quốc gia. Các công ty con này có được môi trường pháp lý thuận lợi hơn so với môi trường pháp lý tại chính trụ sở chính của công ty mẹ. II. MỘT SỐ NGHIỆP VỤ NGÂN HÀNG QUỐC TẾ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ngoài việc thành lập các tổ chức ngân hàng ở nước ngoài nhằm thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế, các ngân hàng hoạt động kinh doanh quốc tế còn tổ chức tại trụ sở chính hoặc các chi nhánh trong nước các đơn vị chuyên biệt tiến hành các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế. Các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế này có thể khái quát thành 3 nhóm như sau: Cung ứng dịch vụ ngân hàng quốc tế để thu phí Tiến hành kinh doanh nghiệp vụ ngân hàng quốc tế, tức là hoạt động bỏ vốn ra thông qua nghiệp vụ ngân hàng để thu lãi Hợp tác kinh doanh ngân hàng quốc tế. 1. Cung ứng các dịch vụ ngân hàng quốc tế để thu phí Đặc điểm của các dịch vụ loại này là ngân hàng tham gia với vai trò môi giới trung gian để thu phí, do đó chịu rủi ro ít nhất 1.1. Dịch vụ tài khoản Nostro và tài khoản Vostro 86
  20. Nét đặc trưng của nghiệp vụ ngân hàng hiện đại là giữa các ngân hàng với nhau có mối quan hệ mật thiết trong việc tiến hành các giao dịch. Để tiền gửi ngân hàng được dùng làm phương tiện thanh toán, thì cần phải có sự hợp tác giữa các ngân hàng trong việc thiết lập hệ thống thanh toán bù trừ và quyết toán nhằm giảm tối đa chi phí thanh toán và tăng khả năng chấp nhận thanh toán. Muốn vậy, ngân hàng cần phải duy trì mối quan hệ tài khoản với ngân hàng đại lý. Tài khoản Nostro (tiếng Latinh có nghĩa là tài khoản của chúng tôi) là tài khoản tiền tệ được mở dưới tên một ngân hàng trong sổ sách các ngân hàng ở nước ngoài. Ví dụ ngân hàng Vietcombank của Việt nam có tài khoản bằng đô la ở ngân hàng Mỹ Bank of America thì đây là tài khoản Nostro của Vietcombank. Tài khoản Vostro (tiếng Latinh có nghĩa là tài khoản của các bạn) là tài khoản của một ngân hàng nước ngoài gửi ở ngân hàng địa phương bằng tiền nước ngân hàng địa phương. Ví dụ ngân hàng Bank of America có tài khoản VND tại ngân hàng Vietcombank thì đó là tài khoản Vostro. Mục đích của hai loại tài khoản này là thực hiện thanh toán bù trừ và chuyển tiền quốc tế. 1.2. Ngân hàng đại lý Hai ngân hàng được coi là ngân hàng đại lý của nhau nếu hai ngân hàng cùng duy trì tài khoản ngân hàng đại lý với nhau. Các ngân hàng trở thành các ngân hàng đại lý của nhau khi phát sinh nhu cầu thanh toán cho khách hàng của ngân hàng tại nơi mà ngân hàng của họ không có chi nhánh. Các khách hàng của ngân hàng thường yêu cầu ngân hàng cung cấp các dịch vụ tài chính tại bất cứ nơi nào trên thế giới. Trên lý thuyết thì điều này có thể thực hiện được qua ngân hàng chi nhánh. Tuy nhiên, trên thực tế là không thể vì rất tốn kém và gặp khó khăn về chính trị văn hoá …ở nhiều nước. Mối quan hệ ngân hàng đại lý đem lại lợi ích rất lớn 87
nguon tai.lieu . vn