Xem mẫu
- Luận văn tốt nghiệp : “Chính sách thu ế
T h u n h ậ p c á n h â n ở Vi ệ t N a m t r o n g b ố i
cảnh hội nh ập kinh t ế Qu ốc t ế”
- LỜI MỞ ĐẦU
Đại hội Đảng Công sản Việt Nam lần thứ VI năm 1986 được xem là
một mốc son trong quá trình phát triển nền kinh tế Quốc gia, đây chính là
bước ngoặt phát triển nền kinh tế Việt Nam: “phát triển theo cơ chế thị
trường, dưới sự quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước theo định hướng
Xã hội chủ nghĩa”
Sự lựa chọn sáng suốt đường lối phát triển kinh tế mà Đại hội Đảng
Cộng sản Việt Nam lần thứ VI (1986) đề ra là không thể phủ nhận được.
Tuy nhiên, thực tế đã cho thấy rằng bản thân nền kinh tế th ị trường cũng
không phải là một nền kinh tế hoàn hảo, mà bản thân nó cũng có nh ững
khuyết tật vốn có của nó. Một trong những khuyết tật vốn có lớn nhất của
nền kinh tế thị trường là ngăn cách giữa giàu nghèo trong xã hội. Kinh tế
thị trường ở Việt Nam cho dù đang ở mức độ đầu, nhưng vấn đề phân hóa
giàu nghèo trong xã hội cũng là vấn đề cần quan tâm.
Như chúng ta đã biết Nhà nước dùng thuế làm công cụ điều tiết vĩ mô
nền kinh tế, điều hòa thu nhập, thực hiện công bằng xã hội và là công c ụ
chủ yếu huy động nguồn lực vật chất cho Nhà nước. Cho dù trong điều
kiện kinh tế Việt Nam, thuế gián thu có những vai trò rất to lớn c ủa nó.
Nhưng với mục đích điều hòa thu nhập, thực hiện công bằng xã hội bằng
thuế trong nền kinh tế thì thuế trực thu lại thể hiện tính ưu việt hơn, đồng
thời tăng nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước một cách hợp lý, hợp hiến. Vì
vậy, hướng đến một chính sách thuế thu nhập là điều tất yếu nhằm góp
phần điều tiết bớt một phần thu nhập từ các tầng lớp người có thu nhập
cao trong xã hội, hình thành các quỹ tiền tệ tập trung giúp Nhà nước ngày
càng thực hiện tốt hơn các chính sách xã hội của mình.
Như phân tích ở trên, đó cũng chính là lý do mà Quốc hội nước Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ban hành chính sách thuế thu nhập, cụ thể
là Pháp lệnh thuế Thu nhập đối với người có thu nhập cao. Đây là loại
thuế được áp dụng từ rất lâu tại hầu hết các Quốc gia trên thế giới, cho dù
tên gọi ở một số nước có khác nhau nhưng bản chất thì đối tượng tính
thuế vẫn là thu nhập cá nhân. Đối với Việt Nam thì Pháp lệnh thu ế Thu
nhập đối với người có thu nhập cao đầu tiên được ban hành vào ngày
27/12/1990, và có hiệu lực thi hành từ 01/04/1991. Qua hơn 15 năm thực thi,
Quốc hội nước ta đã trải qua 5 lần sửa đổi, thay thế Pháp l ệnh năm 1990
bằng những pháp lệnh mới phù hợp hơn với điều kiện và hoàn c ảnh kinh
tế xã hội. Bên cạnh những kết quả đạt được nhất định, chính sách thuế
- Thu nhập đối với người có thu nhập cao ngày nay vẫn còn những bất cập,
thất thu cho Ngân sách Nhà nước đồng thời không công bằng đối với
người nộp thuế. Vì vậy, chính sách thuế cần phải tiếp tục được hoàn
thiện hơn để phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội cũng như trong
bối cảnh hội nhập kinh tế Quốc tế.
Xuất phát từ thực tế và suy nghĩ trên, Tôi xin chọn đề tài: “Chính sách
thuế Thu nhập cá nhân ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế
Quốc tế” làm Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ kinh tế.
Mục đích chủ yếu của Luận văn này là dựa trên những lý luận cơ bản
về thuế Thu nhập cá nhân, tập trung phân tích, đánh giá thực trạng việc áp
dụng thuế Thu nhập đối với người có thu nhập cao ở nước ta từ năm 1991
đến nay, đồng thời có tham khảo việc áp dụng thuế Thu nhập cá nhân ở
một số quốc gia trên thế giới. Từ đó đưa ra những vấn đề cần hoàn thi ện
và xây dựng một chính sách thuế Thu nhập cá nhân sao cho phù hợp v ới
điều kiện kinh tế xã hội tại Việt Nam trong thời gian tới.
Về mặt phương pháp luận, Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu
lý thuyết để khái quát lên những lý luận cơ bản về thuế Thu nhập cá nhân
và bằng phương pháp nghiên cứu thực nghiệm từ thực tế, kết hợp thêm
phương pháp so sánh để phân tích, đánh giá quá trình áp dụng Thuế Thu
nhập đối với người có thu nhập cao trong điều kiện kinh tế Việt Nam. Từ
đó đưa ra những nguyên nhân tồn tại và định hướng các giải pháp chủ yếu
nhằm hoàn thiện và xây dựng một chính sách thuế Thu nhập cá nhân phù
hợp với chủ trương phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước.
Luận văn được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về chính sách thuế thu nhập cá nhân.
Chương 2: Thực trạng áp dụng chính sách thuế Thu nhập đối với người
có thu nhân cao ở Việt Nam.
Chương 3: Các giải pháp nhằm xây dựng chính sách thuế Thu nhập cá
nhân ở Việt Nam.
Do khả năng và thời gian nghiên cứu có hạn, Luận văn không tránh khỏi
những sai sót, rất mong Quý Thầy, Cô cùng các bạn góp ý bổ sung để đề
tài mang tính hiện thực hơn.
CHƯƠNG I:
- TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH THUẾ THU
NHẬP CÁ NHÂN
1.1 Khái quát về thuế
1.1.1 Khái niệm về thuế
Thuế gắn liền với sự tồn tại, phát triển của Nhà nước và là một công
cụ quan trọng mà bất kỳ quốc gia nào cũng sử dụng để thực thi chức năng,
nhiệm vụ của mình. Tùy thuộc vào bản chất của Nhà nước và cách th ức
Nhà nước sử dụng, các nhà kinh tế có nhiều quan điểm về thuế khác nhau,
mỗi quan điểm đều nhấn mạnh một chiều theo từng góc độ khác nhau.
Mặc dù đến nay còn nhiều tranh cãi về khái niệm của thuế nhưng các nhà
kinh tế đều thống nhất rằng, để làm rõ bản chất của thuế thì định nghĩa
của thuế phải nêu bật được các nội dung sau:
- Thứ nhất, thuế là một khoản thu không bồi hoàn, không mang tính hoàn
trả trực tiếp. Nộp thuế cho Nhà nước không có nghĩa là cho Nhà nước
mượn tiền hay gửi tiền vào ngân sách Nhà nước hoặc là mua một dịch v ụ
công. Nộp thuế là một nghĩa vụ cơ bản nhất của công dân.
- Thứ hai, thuế là một khoản thu mang tính bắt buộc, để đảm bảo tập
trung thuế trên phạm vi toàn xã hội. Chính phủ phải cậy nhờ vào hệ thống
pháp luật nên thuế thường được quy định dưới dạng văn bản luật hay pháp
lệnh. Cho nên, trốn thuế hay gian lận thuế đều bị coi là những hành vi
phạm pháp và phải chịu xử phạt về hành chính hoặc hình sự.
- Thứ ba, các pháp nhân và thể nhân chỉ phải nộp cho Nhà nước các
khoản thuế đã được pháp luật qui định.
Từ việc phân tích những quan niệm về thuế nêu trên, chúng ta
có thể đưa ra một định nghĩa tổng quát về thuế như sau:
Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc của các tổ chức, cá nhân cho
Nhà nước theo mức độ và thời hạn được pháp luật quy định, không
mang tính chất hoàn trả trực tiếp, nhằm sử dụng cho mục đích chung
toàn xã hội.
1.1.2 Vai trò của thuế
Thứ nhất, thuế là công cụ chủ yếu huy động nguồn lực vật chất
cho Nhà nước
Đối với các nước có nền kinh tế phát triển, để huy động tập trung
nguồn lực tài chính đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước thì vai trò quan
- trọng này thuộc về thuế. Sử dụng công cụ thuế để huy động tiền thuế cho
Nhà nước có ưu điểm: Phạm vi thu thuế rộng, nguồn huy đ ộng tập trung
thông qua thuế là tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân trong n ước
tạo ra, tính ưu thế của động viên thông qua thuế so với các công cụ tài
chính khác còn thể hiện ở chổ thuế kết hợp giữa phương thức cưỡng bức,
được quy định dưới hình thức pháp luật, kích thích vật chất, nhằm tạo ra
sự quan tâm của đối tượng nộp thuế đến chất lượng hiệu quả kinh doanh.
Vì những ưu nhược điểm nêu trên, thuế luôn được coi là nguồn thu chủ
yếu của Ngân sách Nhà nước. Nguồn thu của Ngân sách Nhà nước có th ể
gia tăng khi và chỉ khi nền kinh tế có sự tăng trưởng và đạt năng suất hi ệu
quả cao.
Thứ hai, thuế là công cụ điều tiết nền kinh tế vĩ mô trong nền kinh
tế thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước có khả năng sử dụng chính
sách thuế để điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Điều đó xuất phát từ chức năng
điều chỉnh của thuế. Vì lợi ích xã hội, Nhà nước có thể tăng thuế hoặc
giảm thuế đối với thu nhập của các tầng lớp dân c ư và với doanh nghi ệp
để kích thích hoặc hạn chế sự phát triển các lĩnh vực các ngành nghề khác
nhau của nền kinh tế.
Thứ ba, thuế là công cụ điều hòa thu nhập, thực hiện công bằng xã
hội trong phân phối
Sự phát triển kinh tế của một quốc gia là kết quả nổ lực của cộng
đồng xã hội. Mọi thành viên trong xã hội đều có những đóng góp nhất định,
thành quả của sự phát triển kinh tế cần phải làm cho mọi thành viên trong
xã hội được hưởng thỏa đáng, hài hòa. Để thực hiện được yêu cầu này,
Nhà nước phải sử dụng công cụ thuế để quản lý điều hòa thu nhập xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, nguồn lực xã hội tham gia vào n ền kinh tế,
chủ yếu do luật thị trường huy động phân bổ và tham gia thực hiện việc
phân phối các yếu tố đầu ra. Đó là sự phân phối mang tính chất kinh t ế.
Tuy nhiên, nếu để cho thị trường tự điều phối nền kinh tế thì sẽ tạo ra
những khiếm khuyết và không phải lúc nào cũng đạt kết quả sản xuất kinh
doanh và đem lại thu nhập như xã hội mong muốn. Do vậy, Nhà nước phải
can thiệp vào sự phân phối để quản lý và điều chỉnh hoạt động của n ền
kinh tế. Nhà nước can thiệp bằng hệ thống Luật pháp, bằng công cụ kinh
tế, tài chính trong đó quan trọng là công cụ thuế. Trong chính sách thuế,
Nhà nước đã thiết kế đối tượng điều tiết khác nhau với các mức thuế suất
và chế độ ưu đãi khác nhau. Do vậy, chính sách thuế đã tác động mạnh mẽ
đến cung cầu các loại nguyên, nhiên, vật liệu, hàng hóa, dịch vụ khác nhau,
để điều chỉnh quá trình phân phối các yếu tố đầu vào của các lực lượng thị
trường và điều chỉnh quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp. Thuế đã trực
- tiếp tham gia vào phân phối thu nhập xã hội từ kết quả sản xất kinh doanh
của nền kinh tế.
Vấn đề then chốt là quá trình thực hiện phân phối thu nhập xã hội của
thuế phải đảm bảo nguyên tắc bình đẳng, thực hiện công bằng xã hội
trong phân phối. Nhà nước áp dụng chính sách thuế phải thống nhất giữa
các thành phần kinh tế và các tầng lớp dân cư, không phân bi ệt gi ữa các
đơn vị, cá nhân. Khi các tổ chức, cá nhân có điều kiện kinh doanh và có thu
nhập giống nhau đều phải nộp thuế như nhau (bình đẳng theo chi ều
ngang). Người có thu nhập quá thấp không đủ bảo đảm đời sống thì không
phải nộp thuế (bình đẳng theo chiều dọc). Sự bình đẳng của chính sách
thuế sẽ tạo điều kiện cho mọi thành viên trong xã hội làm ăn có hiệu qu ả,
có năng suất cao phải được thu nhập cao hơn. Từ đó, kích thích mọi tổ
chức, cá nhân tập trung sức đầu tư phát triển hoạt động sản xuất kinh
doanh để có thu nhập cao một cách chính đáng.
Đồng thời với vai trò phân phối, thuế còn thực hiện vai trò phân phối
lại thu nhập xã hội. Vai trò phân phối lại của thuế được thực hiện thông
qua việc Nhà nước sử dụng tiền thuế đã nộp vào Ngân sách Nhà nước để
chi tiêu cho các hoạt động chức năng của Nhà nước nhằm phục vụ lợi ích
của nhân dân. Nhà nước sử dụng tiền thuế để sản xuất ra hàng hóa - dịch
vụ công phục vụ tiêu dùng chung cho toàn xã hội. Ngoài ra Nhà nước còn
sử dụng một phần tiền thuế để trợ cấp, thực hiện điều hòa thu nhập xã
hội.
Khi thị trường thực hiện việc phân phối thu nhập thì tổng thu nhập của
mỗi cá nhân, mỗi hộ gia đình hoàn toàn không giống nhau, do các yếu tố
tham gia vào quá trình sản xuất khác nhau. Một nhóm người có thu nh ập
rất cao, phần lớn số người có thu nhập trung bình và thấp, còn một số
người khác thì hầu như không có thu nhập như người khuyết tật, già yếu,
bệnh hoạn và thất nghiệp không có bất kỳ tài sản nào. Do đó, vi ệc phân
phối lại thu nhập xã hội là biện pháp mà các chính phủ phải thực hi ện,
nhằm góp phần điều hòa thu nhập, làm giảm bớt những chênh l ệch do
phân phối thu nhập quốc dân tạo ra, đồng thời cung cấp những nhu cầu rất
cần thiết cho nhân dân mà nền kinh tế thị trường không đáp ứng được.
Thứ tư, ngoài những vai trò nêu trên thuế là công cụ thực hiện
kiểm tra, kiểm soát các hoạt động sản xuất kinh doanh
1.1.3 Hệ thống thuế Việt Nam
Hệ thống thuế Việt Nam hiện hành gồm các loại thuế sau:
1. Thuế giá trị gia tăng.
- 2. Thuế xuất nhập khẩu.
3. Thuế tiêu thụ đặc biệt.
4. Thuế thu nhập doanh nghiệp.
5. Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao (thuế thu nhấp cá
nhân).
6. Thuế sử dụng đất nông nghiệp.
7. Thuế nhà, đất.
8. Thuế chuyển quyền sử dụng đất.
9. Thuế tài nguyên.
10. Thuế môn bài.
11. Các loại phí và lệ phí.
1.2 Thuế thu nhập cá nhân
1.2.1 Khái niệm thuế Thu nhập
Tùy theo mục đích nghiên cứu, các nhà kinh tế quan niệm về thu nhập
dưới các góc độ khác nhau. Hai nhà kinh tế Anh là R.M Haig và H.G
Simons đầu thế kỷ 20 đã đưa ra định nghĩa về thu nhập (sau này gọi là định
nghĩa Haig-Simons) cho rằng thu nhập là tổng giá trị của cải ròng tăng lên
của một cá nhân cộng với sự tiêu dùng của người đó trong một thời gian
nhất định, thường là một năm. Quan điểm này mang tính lý thuyết và được
chấp nhận rộng rãi. Tuy nhiên, trên thực tế rất khó thực hiện, vì rằng giá
trị tăng thêm đó mới chỉ dừng lại dưới dạng tiềm năng, mặt khác nó lại
được biểu hiện dưới các hình thức khác nhau như bằng tiền, hàng hóa và
dịch vụ song lại chỉ được thực hiện khi có sự chuyển dịch quyền sở hữu.
Dựa trên cơ sở định nghĩa Haig-Simons, các nhà kinh tế học hiện đại đã
đưa ra hai quan niệm mới về thu nhập làm cơ sở đánh thu ế thu nh ập cá
nhân:
- Quan điểm về khái niệm “thu nhập bao quát” cho rằng, thu nhập là mọi
khoản thu nhập ròng từ các nguồn sau khi đã khấu trừ các chi phí để tạo ra
chúng, từ đó hình thành một phương thức đánh thuế trên tổng tài sản ròng,
nghĩa là đánh thuế vào tất cả các lợi ích nhận được, bao g ồm các l ợi ích
ngẫu phát - lợi ích có tính chất nhất thời.
- - Quan điểm về khái niệm “thu nhập hạn hẹp” dựa trên cơ sở thu nhập
chỉ giới hạn trong những lợi ích phát sinh lặp đi lặp lại, có tính chất liên
tục để hình thành một phương thức đánh thuế thu nhập dựa trên các nguồn
phát sinh thu nhập.
Đại diện cho trường phái này là nhà kinh tế học người Mỹ Paul. A.
Samuelson đã đưa ra một khái niệm thu nhập tương đối hoàn chỉnh: “thu
nhập là tổng số tiền kiếm được hoặc thu góp được trong một khoản th ời
gian nhất định (thường là một năm)”. Thuật ngữ “tiền” ở đây được hiểu là
những khoản thu dưới dạng tiền tệ hay hiện vật được tính thành tiền, nó
bao gồm cả phần sản xuất để tự tiêu dùng, nhận được từ các hoạt đ ộng
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, từ lao động hoặc không từ lao động, từ
quyền sở hữu về tài sản, về tiền mà có hoặc tiêu dùng các dịch v ụ không
phải thanh toán.
Trong các định nghĩa nêu trên, mặc dù chưa phản ánh một cách đầy đủ
tất cả các khía cạnh của thu nhập, nhưng tổng hợp lại cho thấy thu nh ập
có một số điểm chung sau đây:
- Thu nhập luôn gắn với một chủ thể nhất định trong nền kinh tế, xã hội
thể hiện tính sở hữu của thu nhập.
- Thông thường việc xác định thu nhập của các chủ thể khác nhau trong
một thời gian nhất định được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ – là hình
thức thông qua đó có thể biết được tổng thu nhập các nguồn khác nhau của
một cá nhân hay một pháp nhân.
- Thu nhập được hình thành thông qua quá trình phân phối lần đầu
và phân phối lại thu nhập quốc dân, do thị trường và nhà nước thực hiện.
Qua phân tích các đặc điểm trên khái niệm về thu nhập có thể được
tổng hợp như sau:
Thu nhập là tổng các giá trị tài sản và của cải được biểu hiện dưới
hình thức tiền tệ là một chủ thể nào đó trong nền kinh tế - xã hội tạo
ra và nhận được từ các nguồn lao động, tài sản hay đầu tư thông qua
quá trình phân phối tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân trong
một khoảng thời hạn nhất định (thường là một năm).
1.2.2 Khái niệm thuế Thu nhập cá nhân
Thuế thu nhập cá nhân đã được áp dụng từ rất lâu ở các nước phát
triển. Lần đầu tiên ở Anh vào năm 1799 thuế thu nhập cá nhân đã đ ược áp
dụng như một hình thức thu tạm thời nhằm mục đích trang trải cho cuộc
chiến tranh chống Pháp và được chính thức ban hành vào năm 1842. Sau đó
- thuế thu nhập cá nhân đã nhanh chóng được lan truyền sang các nước công
nghiệp khác như: Nhật (1887), Mỹ (1913), Pháp (1914), Liên Xô (1922),
Trung Quốc (1936)… Các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển đều
coi thuế thu nhập cá nhân là một trong những sắc thu ế có tầm quan tr ọng
đặc biệt trong việc huy động nguồn thu ngân sách, thực hiện phân phối
công bằng xã hội và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Về nguyên tắc, bất kỳ một thể nhân hay pháp nhân nào khi nhận được
thu nhập dưới bất cứ hình thái nào (hiện vật hay giá trị) và bất kể từ
nguồn nào (do lao động, hay đầu tư…) đều phải trích một phần từ thu
nhập đó để nộp cho nhà nước dưới dạng thuế thu nhập.
Như vậy: Có thể khái niệm thuế Thu nhập cá nhân là loại thuế trực
thu đánh vào thu nhập của mỗi cá nhân trong xã hội trong một khoảng
thời gian nhất định (thường là một năm).
1.2.3 Sự cần thiết xây dựng chính sách thuế Thu nhập cá nhân
Thuế thu nhập cá nhân ra đời bắt nguồn từ yêu cầu đảm bảo sự công
bằng trong phân phối thu nhập. Điều này đặc biệt cần thiết trong điều
kiện kinh tế thị trường vì thu nhập của một cá nhân hay tổ chức phụ thuộc
chủ yếu vào việc cung cấp các yếu tố sản xuất (vốn, lao động, công nghệ…).
Trong điều kiện đó sự phân hóa giàu nghèo khi phân phối thu nhập là điều
khó tránh khỏi. Vì vậy, cần áp dụng thuế thu nhập cá nhân đ ể th ực hi ện
điều tiết thu nhập nhằm rút ngắn khoảng cách giàu nghèo trong xã hội.
Mặt khác, trong hệ thống thuế thông thường áp dụng hai loại thuế: thuế
gián thu và thuế trực thu. Thuế thu nhập cá nhân là loại thu ế tr ực thu, t ức
là thuế đánh trực tiếp vào thu nhập của người nộp thuế theo khả năng của
họ. Vì thế, thu nhập cá nhân đảm bảo sự công bằng theo chi ều d ọc. Nếu
chỉ áp dụng các loại thuế gián thu thì mới thực hiện đ ược công bằng theo
chiều ngang, tức là tất cả mọi người đều phải nộp thuế như nhau không
phân biệt khả năng của họ. Để đảm bảo sự công bằng theo cả chiều
ngang và chiều dọc trong chính sách thuế khóa thì cần thiết phải ban hành
thuế thu nhập cá nhân để điều tiết thu nhập theo khả năng đóng góp của
người nộp thuế.
Do nhu cầu chi tiêu ngày càng tăng của Nhà nước. Sự giảm dần của thuế
quan do yêu cầu tự do hóa thương mại để phát triển kinh tế của các nước
tư bản chủ nghĩa đòi hỏi phải tăng nguồn thu tài chính nhà n ước thông qua
các loại thuế khác như thuế hàng hóa, thuế thu nhập doanh nghiệp (công ty)
và thuế thu nhập cá nhân, trong đó thuế thu nhập cá nhân là nguồn tài chính
lớn cho ngân sách của các quốc gia, đặc biệt đối v ới các nước phát tri ển.
Trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất số người nộp thuế thu nhập cá
nhân mới chỉ chiếm khoảng gần 1 triệu người, năm 1939 tăng lên 5 triệu,
- thì đến năm 1980 con số này là 100 triệu người, biến thuế này thành th ứ
thuế đại chúng.
Thuế thu nhập được sử dụng như một công cụ linh hoạt để điều tiết vĩ
mô, kích thích tiêu dùng hoặc đầu tư để phát triển kinh tế. Một trong
những lý thuyết căn bản của Kenyes về tính hữu dụng giảm dần của thu
nhập cho rằng mức thu nhập càng cao thì tính hữu dụng của nó càng thấp.
Do vậy, để tăng phúc lợi xã hội cần thiết phải điều tiết bớt thu nhập của
những đối tượng có thu nhập thấp hơn. Bên cạnh đó, thông qua chính sách
miễn giảm, ưu đãi, thuế thu nhập có thể tác động trực tiếp đ ến định
hướng tiêu dùng và đầu tư theo hướng có lợi, thực hiện mục tiêu điều
chỉnh kinh tế của nhà nước.
1.2.4 Vai trò thuế Thu nhập cá nhân
1.2.4.1 Thuế thu nhập cá nhân là một công cụ phân phối đảm bảo
công bằng xã hội
Một trong những khiếm khuyết của kinh tế thị trường là sự phân phối
không công bằng và đi liền với nó là quá trình phân hóa giàu nghèo trong xã
hội. Thuế thu nhập cá nhân là một hình thức thuế trực thu đánh trực tiếp
vào thu nhập nhận được của từng cá nhân. Thông qua đánh thuế thu nhập
cá nhân, Nhà nước thực hiện điều tiết thu nhập của những người có thu
nhập cao, nhờ đó san bằng tương đối sự chênh lệch về thu nhập giữa các
cá nhân trong xã hội.
Để thấy rõ vai trò đó của thuế thu nhập cá nhân, có thể sử dụng đường
cong Lorenz dưới đây (Hình 1.1)
Hình 1.1: Ảnh hưởng của thuế đến sự công bằng trong phân phối thu
nhập
Trên đồ thị, đường cong Lorenz càng gần đường phân giác thì càng phản
ánh sự phân phối công bằng. Điều đó được trợ giúp bởi thu ế luỹ tiến
thông qua thực hiện thuế thu nhập cá nhân để đảm bảo rút ngắn khoảng
cách phân hóa giàu nghèo trong xã hội.
- 1.2.4.2 Thuế thu nhập cá nhân là một công cụ đảm bảo nguồn thu
quan trọng cho NSNN
Thuế thu nhập cá nhân là một hình thức thu quan trọng của Ngân sách
Nhà nước (NSNN), loại thuế này đóng vai trò rất quan trọng, đôi khi nó còn
được nói so sánh một cách hình ảnh là “nữ hoàng của các loại thuế”. Hiện
nay, ở các nước phát triển tỷ trọng thu ngân sách của thuế TNCN chiếm
rất cao từ 30 - 40%, có nước trên 50% như Mỹ, Nhật, Canada, Autralia,
Niuzilân…, các nước đang phát triển chiếm từ 15 - 30% như Thái Lan,
Malaixia, Philipin…
Ở nước ta thuế thu nhập cá nhân tuy chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng thu
NSNN, song trong điều kiện phát triển kinh tế và toàn cầu hóa, thu nhập
của cá nhân có xu hướng tăng nhanh, nên tỷ trọng thuế thu nhập cá nhân
trong tổng thu NSNN sẽ có khả năng tăng lên.
1.2.4.3 Thuế thu nhập cá nhân góp phần điều chỉnh vĩ mô nền kinh
tế
Thuế thu nhập cá nhân không chỉ là công cụ huy động nguồn thu NSNN,
thực hiện công bằng xã hội, mà còn giữ vai trò điều tiết nền kinh tế quốc
dân. Vì vậy, ở mỗi thời kỳ phát triển kinh tế khác nhau, tuỳ theo yêu cầu
điều tiết vĩ mô nền kinh tế mà chính sách thuế thu nhập cá nhân ở mỗi
nước được xây dựng phù hợp.
M. Keynes là nhà kinh tế học nổi tiếng người Anh đã đề xướng tư tưởng
can thiệp của nhà nước vào hoạt động của nền kinh tế để đạt được “cầu
hiệu quả” thông qua chính sách thuế, trong đó có thuế thu nhập cá nhân.
Ông cho rằng, tồn tại một qui luật tâm lý cơ bản mà theo ông, con ng ười
có xu hướng tăng tiêu dùng của mình theo tốc độ tăng của thu nhập, nhưng
không phải tăng theo cùng mức tăng của thu nhập. Cùng với tốc độ tăng
của thu nhập thì tốc độ tiết kiệm tăng nhanh hơn. Đây chính là nguyên
nhân làm cho cầu không đạt hiệu quả. Bởi vậy, cần thiết phải có chính
sách thuế đánh vào thu nhập đưa vào tiết kiệm để kích thích tiêu dùng và
tăng đầu tư phát triển kinh doanh. Theo ông, khuynh hướng tiêu dùng ở
những người có thu nhập thấp sẽ cao hơn ở những người có thu nhập cao.
Vì vậy, nhà nước phải đánh thuế thu nhập theo kiểu thuế suất luỹ tiến để
phân phối lại thu nhập của những người có thu nhập cao đưa vào ti ết
kiệm. Sự tiết kiệm thừa cần được thu bằng thuế để hướng chúng vào đầu
tư phát triển kinh tế.
Lý thuyết của M. Keynes được sử dụng rộng rãi ở hầu hết các nước tư
bản phát triển sau khủng hoảng kinh tế thế giới những năm 1929-1933. Vì
vậy, thuế thu nhập cá nhân trong thời kỳ này có đặc trưng bằng biểu thuế
suất cao với nhiều thang bậc thuế và mức chênh lệch về tỉ lệ điều tiết khá
- lớn giữa bậc thấp và bậc cao. Chẳng hạn ở Mỹ mức thuế suất tối đa thuế
thu nhập cá nhân là 50%, Anh là 83%, Pháp là 56,8%, Đức là 56%, Italia là
62%, Nhật là 70%...
Thực hiện điều tiết nền kinh tế trong điều kiện tăng năng suất và hi ệu
quả kinh doanh theo lý thuyết “trọng cung” các nhà kinh tế học thuộc
trường phái này mà đại biểu là Laffer đã đưa ra đ ường cong lý thuy ết n ổi
tiếng gọi là đường cong Laffer (Hình 1.2).
Mô hình đường cong Laffer cho thấy quan hệ giữa thuế suất và tổng thu
nhập từ thuế. Mức thuế suất bằng không thì thu ngân sách từ thuế cũng
bằng không. Ở thái cực đối lập, nếu thuế suất bằng 100% thì thu nhập từ
thuế cũng bằng không vì lúc đó người ta không muốn làm việc. Việc nâng
dần mức thuế suất từ 0% lên dưới mức thuế suất t 0 làm thu nhập về thuế
cũng tăng lên. Nhưng nếu mức thuế suất được xác định cao hơn mức t 0 sẽ
gây ra các phản ứng như: Hạ thấp động lực kinh doanh; chuyển vốn đ ầu
tư ra nước ngoài; chuyển hoạt động sang kinh tế ngầm để trốn thuế.
Như vậy, qua đồ thị đường cong Laffer ta thấy, nếu thuế suất được hạ
thấp, thì có thể số thu của ngân sách sẽ không bị giảm th ậm chí còn tăng
lên do kinh tế được kích thích tăng trưởng và sự ủng hộ đồng tình của các
đối tượng nộp thuế. Điều này cho thấy, nếu thuế suất của thuế thu nhập
được xác định ở mức hợp lý sẽ có tác động kích thích tăng trưởng kinh tế
đồng thời tăng thu cho ngân sách.
Tuy nhiên, trên thực tế rất khó xác định nền kinh tế hiện tại đang nằm ở
điểm nào trên đường cong để từ đó quyết định biện pháp tăng hay giảm
thuế. Chẳng hạn nhìn trên hình 1.2 ta thấy: trên đường cong Laffer tồn tại
hai mức thuế suất khác nhau t1và t2 đều cho tổng số thuế như nhau, do đó
về nguyên tắc, hạ mức thuế từ t2 xuống t1 thì tổng thu thuế không thay đổi,
còn trong trường hợp hạ từ mức t 2 xuống t0 thì tổng thu thuế sẽ tăng lên.
Mặt khác, hạ thấp thuế từ t2 xuống t0 phải được thực hiện trong khoảng
thời gian khá dài mới có kết quả tăng thu về thuế, còn trước mắt sẽ làm
giảm tức thời số thuế thu được.
Do đó, theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại, việc nghiên cứu
một mức thuế thu nhập cá nhân phù hợp để nâng cao hiệu quả kích thích
- của nó được đánh giá quan trọng hơn vai trò công bằng mà nó tạo ra trong
phân phối thu nhập.
1.2.5 Nguyên tắc và phương pháp đánh thuế Thu nhập cá nhân
1.2.5.1 Nguyên tắc đánh thuế Thu nhập cá nhân
a) Đánh thuế trên cơ sở thu nhập chịu thuế hiện hữu
Mặc dù cá nhân có nhiều nguồn thu nhập khác nhau, nhưng trong thực
tế không phải toàn bộ thu nhập phát sinh đều là đối tượng điều chỉnh của
thuế thu nhập cá nhân. Thuế thu nhập cá nhân chỉ điều chỉnh phần thu
nhập chịu thuế. Thu nhập chịu thuế là phần thu nhập quy định cơ sở đánh
thuế thu nhập. Mọi hệ thống thu nhập dù đánh trên từng loại thu nhập hay
trên tổng thu nhập nói chung đều tính thuế trên thu nhập ròng để phản ánh
đúng đắn khả năng kinh tế của người nộp thuế. Vì vậy thu nhập chịu thuế
được xác định trên cơ sở các khoản thu nhập nhận được sau khi miễn trừ
một số khoản chi phí của người nộp thuế.
Hiện nay trên thế giới còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về khái
niệm và cách tính thu nhập nên cơ sở đánh thuế thu nhập cá nhân cũng
không giống nhau. Tùy theo chính sách thuế thu nhập của mỗi nước mà nội
dung, phương pháp xác định các khoản miễn trừ và thu nhập chịu thuế có
sự khác nhau. Mặt khác, trên thực tế không phải mọi khoản thu nhập phát
sinh cũng đều có khả năng xếp vào thu nhập chịu thuế.
b) Đánh thuế thu nhập cá nhân theo phương pháp luỹ tiến
Đặc trưng quan trọng nhất của thuế thu nhập cá nhân là áp d ụng bi ểu
thuế luỹ tiến, tức là mức thuế tăng lên một cách luỹ tiến theo mức thu
nhập tăng lên. Thuế suất luỹ tiến được coi là phương pháp hiệu quả nhất
để đánh thuế theo “khả năng nộp thuế” của cá nhân. Tuy nhiên trong thực
tế để tính được mức luỹ tiến đó là điều không đơn giản.
Xung quanh vấn đề áp dụng nguyên tắc luỹ tiến đối với thuế thu nhập
cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, tính luỹ tiến của thuế
thu nhập cũng cần có giới hạn và khi áp dụng nguyên tắc luỹ tiến cũng cần
phân biệt nguồn gốc của các loại thu nhập để phát huy vai trò đi ều ch ỉnh
của thuế thu nhập. Nhưng cũng có quan điểm cho rằng làm như vậy sẽ gây
phức tạp trong việc thiết kế thuế suất, vì không nên dùng các loại thuế
khác nhau cho thu nhập phát sinh từ các nguồn thu nhập khác mà nên áp
dụng các khoản miễn, giảm thuế để đảm bảo chức năng của thuế thu
nhập hoặc áp dụng thuế luỹ tiến từng phần.
1.2.5.2 Phương pháp đánh thuế Thu nhập cá nhân
- Về lý thuyết, tồn tại ba mô hình đánh thuế thu nhập cá nhân:
a) Đánh thuế theo từng nguồn hình thành thu nhập
Đánh thuế theo từng nguồn hình thành thu nhập là phương pháp áp dụng
một thuế suất tương ứng cho từng nguồn thu nhập phát sinh. Tương ứng
với mỗi nguồn thu nhập khác nhau, người ta tính các chi phí được trừ của
từng loại thu nhập (nhiều trường hợp chi phí có thể được trừ hoặc không
được trừ) và gán cho mỗi loại thu nhập đó các mức thuế suất phân biệt. Số
thuế phải nộp là tổng hợp số thuế thu nhập mà người nộp thuế phải n ộp
theo từng nguồn.
Các nhà kinh tế cho rằng, phương pháp này khó trốn thuế hơn, vì nó thu
“theo sát từng nguồn thu nhập”. Tuy nhiên, đánh thuế theo từng nguồn hình
thành thu nhập trên thực tế đã bộc lộ nhiều hạn chế:
- Khi chia thu nhập cá nhân thành phần thu nhập để chịu các mức thuế
suất khác nhau không đơn thuần là một công việc phức tạp và khó khăn,
mà điều quan trọng hơn là không áp dụng được triệt để các mức thuế suất
luỹ tiến và các suất miễn giảm thuế thu nhập cá nhân. Nếu có áp dụng
mức thuế suất luỹ tiến thì cũng chỉ đúng cho một số loại thu nhập. Đi ều
đó lại gây bất bình đẳng giữa các đối tượng nộp thuế có các loại thu nhập
khác nhau.
- Việc áp dụng thuế suất cho từng loại thu nhập đòi hỏi ph ải phân loại
thu nhập, trên thực tế công việc này lại tiềm ẩn nhiều khó khăn trong công
tác quản lý. Mặt khác, đó cũng là cơ sở để người nộp thuế dễ dàng trốn
thuế. Nếu ranh giới giữa các loại thu nhập không chính xác thì sẽ mất ý
nghĩa công bằng của thuế thuế thu nhập cá nhân.
- Trong một chừng mực nào đó cách đánh thuế này cũng không hiệu
quả đối với xã hội vì người nộp thuế có thể lựa chọn các hoạt động phi
hiệu quả để chịu mức thuế thấp nhất.
b) Đánh thuế trên tổng thu nhập
Phương pháp này tiến hành đánh thuế trên tổng thu nhập, bao gồm tất
cả các khoản thu nhập nhận được không phân biệt nguồn phát sinh thu
nhập và chi phí tạo ra thu nhập. Tổng thu nhập và tổng chi phí sẽ được
xem xét trên một tổng thể và đánh thuế trên phần chênh lệch giữa tổng thu
nhập và tổng chi phí. Việc phân ra từng loại thu nhập không có ý nghĩa.
Do có ưu điểm là đơn giản và có thể áp dụng được biểu thuế luỹ tiến
khi đánh thuế nên phương pháp này đang được áp dụng rất rộng rãi ở các
nước phát triển.
- c) Đánh thuế hỗn hợp
Thuế thu nhập cá nhân có thể được đánh theo cách kết hợp cả hai
phương pháp kể trên. Ban đầu đánh thuế theo từng nguồn hình thành thu
nhập, sau đó tổng hợp tất cả các nguồn lại và đánh trùm lên tổng thu nhập
một mức thuế nữa. Phương pháp này cho phép áp dụng thuế suất luỹ tiến
ngoài thuế suất thông thường đánh trên từng loại thu nhập. Cách đánh thuế
này đảm bảo sự chính xác nhưng lại phức tạp khi tính toán.
Như vậy, mỗi phương pháp đều có những ưu nhược điểm riêng. Việc
áp dụng một phương pháp thích hợp tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã
hội từng nước, trình độ quản lý và yếu tố tâm lý, tập quán từng dân tộc.
1.2.6 Cơ sở xây dựng chính sách thuế Thu nhập cá nhân
Mặc dù ở mỗi nước, Luật thuế thuế thu nhập cá nhân được xây dựng
khác nhau tùy theo tính đặc thù của từng nước. Bởi vậy, giữa các nước sẽ
có sự khác nhau trong xác định thu nhập chịu thuế, thuế suất, mi ễn, giảm
thuế… Tuy nhiên, khi xây dựng chính sách thuế thuế thu nhập cá nhân các
quốc gia đều quan tâm giải quyết các vấn đề sau đây:
1.2.6.1 Xác định thu nhập chịu thuế
Thu nhập chịu thuế của một cá nhân trong kỳ tính thuế là tổng thu nhập
trừ đi tổng các khoản được giảm trừ.
Tổng thu nhập của đối tượng nộp thuế là tổng thu nhập được xác định
cơ sở để tính thu nhập chịu thuế mà đối tượng nộp thuế đó kiếm được
trong kỳ tính thuế. Do đó, tổng thu nhập của một đối tượng sẽ không bao
gồm những khoản miễn thuế. Để xác định tổng thu nhập cần phải xác
định từng khoản cấu thành tổng thu nhập theo từng loại thu nhập cụ th ể,
tức là xem xét tổng thu nhập được hình thành từ những nguồn nào.
Tuy nhiên, không phải mọi khoản thu nhập của người nộp thuế đều đưa
vào đối tượng tính thuế. Tùy theo mục đích đánh thuế mà có khoản thu
nhập không đưa vào đối tượng đánh thuế. Trong thực tế, khi xây dựng các
quy định tính thuế cần xác định rõ ràng những khoản nào nằm trong tổng
thu nhập chịu thuế và những khoản nào nằm trong tổng thu nhập không
chịu thuế. Muốn xác định thu nhập chịu thuế chính xác cần phải xem xét
các khoản sau đây.
a) Nguồn gốc của thu nhập
Mọi khoản thu nhập của cá nhân có thể phát sinh từ các nguồn khác
nhau. Tuy vậy cũng có thể phân loại thành các nguồn cơ bản như sau:
- a1) Thu nhập từ lao động
Thu nhập có nguồn gốc từ lao động giữ vị trí rất quan trọng và chiếm tỷ
trọng khá lớn trong thu nhập chịu thuế ở các nước phát triển. Thu nhập từ
lao động bao gồm bất kỳ khoản bù đắp nào trực tiếp hay gián tiếp liên
quan đến lao động. Đó là khoản thu nhập của cá nhân nhận được dưới
hình thức tiền lương hoặc tiền công do người chủ của lao động trả.
Bên cạnh việc xác định các khoản thu nhập từ lao động còn phải tính
toán các chi phí lao động để nhận được các thu nhập này. Vì thu nhập chịu
thuế là các khoản thu nhập ròng nên cần phải xác định các chi phí phát sinh
để phản ánh đúng đắn thu nhập chịu thuế từ lao động. Do đó, các nguyên
tắc đưa ra là cần thiết để xem xét khả năng được trừ của các chi phí phát
sinh. Nếu không có các nguyên tắc chuẩn thì khó xác đ ịnh đ ược ranh gi ới
thu nhập chịu thuế và khi đó các tranh chấp có thể phát sinh giữa c ơ quan
thuế và đối tượng nộp thuế hoặc tạo ra những cơ hội phổ biến để trốn thu
nhập chịu thuế thông qua sự biến tướng của chi phí lao động. Điều đó lại
nảy sinh sự bất bình đẳng về nghĩa vụ giữa người nộp thuế có mức thu
nhập như nhau.
a2) Phúc lợi của người làm công
Phúc lợi bất kỳ bằng tiền hoặc không phải bằng tiền nhận được từ lao
động mà không nằm trong phần tiền lương, tiền công bằng tiền mặt.
Các khoản phúc lợi thông thường như nhà ở, sử dụng phương tiện đi lại
do người chủ lao động cung cấp cho mục đích cá nhân và cung cấp hàng
giảm giá cho người làm công. Toàn bộ các khoản phúc lợi dưới dạng hiện
vật này cũng coi như một khoản thu nhập của người lao động có khả năng
kinh tế như tiền công, tiền lương trả bằng tiền mặt nên thuộc vào cơ s ở
đánh thuế.
Hiện nay, tồn tại ba phương pháp đánh thuế vào các khoản phúc lợi.
- Thứ nhất, đưa giá trị các khoản phúc lợi vào thu nhập chịu thuế của
người làm công như là một phần thu nhập của lao động (coi ti ền l ương,
tiền công bao gồm cả các khoản phúc lợi).
- Thứ hai, áp dụng thuế danh nghĩa đánh trên các khoản phúc lợi bằng
cách không cho phép người chủ lao động khấu trừ chi phí liên quan đến
việc cung cấp các khoản phúc lợi cho người làm công. Phương pháp này áp
dụng trong trường hợp khó phân bổ phúc lợi cho từng người. Nhưng trong
trường hợp người chủ lao động nằm trong tình trạng kinh doanh không có
lãi thì việc thu thuế khó thực hiện được.
- - Thứ ba, thuế phúc lợi đánh riêng biệt đối với người chủ lao động dựa
trên giá trị các khoản phúc lợi cung cấp cho người làm công. Phương pháp
này được áp dụng ở một số nước đang phát triển và các nước có nền kinh
tế chuyển đổi, nhưng việc áp dụng hình thức thuế suất luỹ tiến từng phần
thích hợp đối với từng người làm công lại gặp khó khăn.
Từ các phương pháp nêu trên có thể cho phép xây dựng chế độ thuế phúc
lợi độc lập với hệ thống thuế thu nhập cá nhân hoặc là kết hợp với h ệ
thống thuế thu nhập nhằm đảm bảo gánh nặng chung về thuế tương đồng
đối với bất kỳ các khoản phúc lợi nào (ngay cả khi người chủ động chi trả
cho người làm công bằng tiền mặt thay vì cung cấp một khoản phúc l ợi).
Hiện nay, nhiều quốc gia áp dụng hệ thống kết hợp để tránh những bi ến
động kinh tế và thất thu thuế do chuyển đổi thu nhập theo chiều h ướng
đánh thuế.
a3) Thu nhập từ hoạt động kinh doanh
Tuỳ theo tính chất của từng ngành nghề kinh doanh mà thu nhập chịu
thuế được xác định theo những phương pháp khác nhau. Một số quốc gia
phân biệt giữa thu nhập từ các hoạt động thương mại và thu nhập từ các
hoạt động hành nghề và công việc. Sự phân chia này không hoàn toàn xuất
phát từ quan niệm logic về thuế, mà từ phương diện lịch sử.
a4) Thu nhập từ vốn, tài sản hay gọi là thu nhập từ đầu tư
Tuỳ theo từng giai đoạn lịch sử và tuỳ theo quan điểm đánh thuế của
mỗi nước mà thu nhập này có thể xếp loại vào thu nhập bị đánh
thuế hoặc không bị đánh thuế.
a5) Các khoản thu nhập bất thường khác
Qua phân tích các loại thu nhập kể trên ta thấy, không phải mọi khoản
thu nhập của người nộp thuế đều đưa vào đối tượng tính thuế. Tùy theo
mục đích đánh thuế mà có khoản thu nhập không đưa vào đối tượng đánh
thuế. Khi xây dựng các quy định tính thuế cần xác định rõ ràng nh ững
khoản nào nằm trong tổng thu nhập không chịu thuế. Cơ sở quan trọng để
xác định các khoản thu nhập đó có phải là thu nhập chịu thu ế hay không
phải là thu nhập chịu thuế, trước hết phải xem xét các khoản đó là thu
nhập thực sự hay là chi phí. Mặt khác, Chính phủ có thể cân nhắc nên đánh
thuế hay không nên đánh thuế vào các loại thu nhập này.
b) Đánh thuế trên cơ sở cư trú hay nguồn phát sinh thu nhập
Để tiến hành đánh thuế thu nhập cá nhân trước hết phải căn cứ vào hai
cơ sở là “cư trú” và “nguồn phát sinh thu nhập”.
- Hệ thống đánh thuế dựa vào tình trạng “cư trú” được sử dụng rộng rãi
trên thế giới. Theo hệ thống này, các cá nhân cư trú ở một nước phải nộp
thuế tại nước đó và đánh trên mọi khoản thu nhập từ khắp nơi trên thế
giới, còn những cá nhân không cư trú chỉ bị đánh thuế trên ph ần thu nhập
phát sinh tại nước đó. Tuy nhiên, khái niệm cư trú được quy định khác nhau
ở các nước khác nhau.
Cơ sở thứ hai được dựa vào để xác định nghĩa vụ nộp thuế là “nguồn
phát sinh thu nhập”. Nếu áp dụng theo cơ sở nguồn phát sinh thu nhập thì
các cá nhân chỉ phải nộp thuế thu nhập đối với khoản thu nhập phát sinh
tại nước sở tại mà không phải nộp thuế thu nhập đối với những khoản thu
nhập phát sinh ở nước ngoài. Cách đánh thuế này thích hợp với những
nước có nhiều người nước ngoài đến làm việc và đầu tư còn bản thân
công dân của nước đó ít đi làm hoặc đầu tư ở nước ngoài.
Việc xác định rõ cơ sơ đánh thuế theo tình trạng cư trú hay nguồn phát
sinh thu nhập không những có ý nghĩa quan trọng trong công tác xác đ ịnh
nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân mà còn là cơ sở để tiến hành đàm phán,
ký kết các hiệp định tránh đánh thuế trùng giữa các nước với nhau trong
quan hệ quốc tế về thuế.
1.2.6.2 Xác định các khoản thu nhập miễn trừ
Một trong những đặc điểm quan trọng của thuế thu nhập cá nhân
là có tính tới hoàn cảnh của từng cá nhân cần phải được xem xét khi
xác định thu nhập chịu thuế. Các khoản được giảm trừ có thể được thực
hiện dưới hai dạng: miễn trừ cá nhân và miễn trừ tiêu chuẩn.
- Miễn trừ cá nhân được thực hiện theo phương pháp kê khai chi phí thực
tế phát sinh đối với các khoản được phép giảm trừ. Đối với phương pháp
này, một số khoản chi phí kê khai sẽ đòi hỏi phải có chứng từ chứng minh,
một số khoản được thực hiện theo phương pháp định mức và một số
khoản có thể được thực hiện theo phương pháp “giới hạn tối đa”. Thông
trường, có hai loại giảm trừ cá nhân là: giảm trừ có tính chất kinh tế và
giảm trừ có tính chất xã hội. Giảm trừ có tính chất kinh tế là các khoản
giảm trừ mang tính chi phí liên quan trực tiếp đến việc tạo ra thu nhập như
chi phí đi lại, ăn ở … kể cả các khoản đóng bảo hi ểm. Giảm tr ừ có tính
chất xã hội là các khoản giảm trừ mang tính chất chi trợ cấp có tính xã hội
như giúp đỡ người có hoàn cảnh khó khăn, chi nuôi dưỡng, bảo trợ người
già, tàn tật…
- Phương pháp miễn trừ cá nhân được bảo đảm sự công bằng và thường
được áp dụng ở những nước có trình độ phát triển kinh tế và dân trí cao,
hệ thống lưu trữ và kiểm soát thông tin tốt. Đối với các nước chậm phát
triển thường không đủ điều kiện để áp dụng phương pháp này mà chủ yếu
- áp dụng phương pháp giảm trừ tiêu chuẩn. Phương pháp này được thực
hiện thông qua việc xác định mức khởi điểm chịu thuế. V ề nguyên tắc,
mức khởi điểm chịu thuế là mức thu nhập trung bình xã hội đảm bảo trang
trải đủ những chi phí cần thiết cả về mặt kinh tế và xã hội theo quan niệm
và tập quán của từng nước. Phương pháp “giảm trừ tiêu chuẩn” tuy không
công bằng vì mức chi phí cần thiết được cân bằng giữa các đối tượng nộp
thuế nhưng lại đảm bảo cho thuế thu nhập cá nhân dễ tính toán, đơn giản
hơn trên cơ sở đó tiết kiệm chi phí hành thu và chi phí chấp hành, tuân thủ
luật thuế.
Nhằm bảo đảm yêu cầu công bằng và khuyến khích một số hoạt động
thuế thu nhập cá nhân ở các nước cho phép khấu trừ một số khoản chi
phí từ thu nhập nhận được trước khi xác định thu nhập chịu thuế. Tính
chất của các khoản chi phí này là phát sinh thường xuyên và khách quan. Ở
hầu hết các quốc gia trên thế giới người ta cho phép khấu trừ 5 khoản chi
phí vào thu nhập trước khi xác định thu nhập chịu thuế. Những khoản chi
phí đó là: chi y tế, lãi thế chấp, các loại thuế, đóng góp từ thi ện, mất mát
đột xuất. Để đảm bảo công bằng khi thực hiện nghĩa vụ nộp thuế thu
nhập thì trong từng khoản miễn trừ phải quy định tỉ mỉ, chi tiết cho từng
trường hợp cụ thể.
1.2.6.3 Thuế suất thuế Thu nhập cá nhân
Đối với thuế thu nhập cá nhân, thông thường người ta áp dụng biểu thuế
suất luỹ tiến. Có hai loại thuế suất luỹ tiến là luỹ tiến toàn ph ần và luỹ
tiến từng phần (còn gọi là thuế suất đơn nhất kết hợp với ngưỡng tính
thuế). Mỗi loại thuế suất luỹ tiến có hiệu quả điều tiết khác nhau, trong
đó biểu thuế luỹ tiến từng phần được coi là đảm bảo công bằng hơn và
không gây ra mâu thuẫn “mức tăng của thuế lớn hơn mức tăng của căn cứ
tính thuế” tại điểm tiếp giáp giữa hai bậc thuế.
Biểu thuế luỹ tiến từng phần có thể có hai dạng. Một dạng chia thành
nhiều bậc thuế. Một dạng chỉ đơn giản gồm một vài bậc. Biểu thuế nhiều
bậc chia theo các mức thu nhập khác nhau đảm bảo công bằng hơn vì ch ỉ
có sự chuyển dịch nhẹ nhàng về mức thuế giữa các bậc nhưng việc tính
thuế có phần phức tạp. Biểu thuế ít bậc có ưu điểm là thuận lợi trong việc
tính thuế nhưng mức thuế giữa hai bậc thường chênh lệch nhau nhiều nhất
là khoảng tiếp giáp giữa hai bậc gây tâm lý không công bằng trong nghĩa
vụ thuế.
Khi xây dựng biểu thuế của thuế thu nhập cá nhân, các quốc gia thường
sử dụng một số nguyên tắc sau:
- Thứ nhất, đánh thuế cùng một mức vào thu nhập tổng hợp với
số lượng thuế suất vừa phải để có thể quản lý tốt hơn.
- - Thứ hai, mức thuế không nên quá cao làm ảnh hưởng đến nỗ lực lao
động, tiết kiệm và đầu tư.
- Thứ ba, tuỳ theo đặc điểm tình hình kinh tế xã hội mà có thể sử dụng
thuế suất ưu tiên linh hoạt cho từng loại thu nhập. Theo tập tục tuyền
thống thì hầu hết các nước sử dụng thuế suất ưu đãi đối với thu nhập từ
lao động hơn là thu nhập từ vốn.
Thiết kế biểu thuế với các thang bậc cụ thể không chỉ là vấn đề mang
tính kỹ thuật phức tạp, mà nó còn chứa đựng nội dung kinh tế nhất định.
Biểu thuế có thể đánh vào đồng thu nhập đầu tiên để thực hiện nguyên tắc
bất kể cá nhân nào cứ có thu nhập là phải nộp thuế.
1.2.6.4 Phương pháp quản lý thu nộp thuế
Thuế thu nhập có thể được thu theo phương pháp khấu trừ tại nguồn
hoặc phương pháp thu trực tiếp.
- Phương pháp khấu trừ tại nguồn được áp dụng cho các khoản thu nhập
phát sinh có tính chất ổn định như thu nhập từ lương, tiền công. Theo
phương pháp này, người hoặc cơ quan chi trả thu nhập phải tiến hành
khấu trừ trước số thuế phải nộp của cá nhân để nộp cho cơ quan thuế, sau
đó mới tiến hành chi trả phần còn lại cho người được hưởng. Cơ quan
hoặc người được uỷ nhiệm khấu trừ thông thường được trích lại một tỷ
lệ thù lao nhất định song phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về nghĩa
vụ khấu trừ thuế thu nhập trước khi chi trả thu nhập. Phương pháp này
thường được áp dụng phổ biến đối với những nước có khả năng kiểm soát
và tổng hợp thu nhập thấp. Tuy chi phí hành thu thấp, quy trình quản lý thu
đơn giản nhưng mức độ công bằng lại kém hơn vì thông thường chỉ thu
được thuế của những khoản thu nhập rõ ràng, chính thống. Những khoản
thu nhập khác dễ bị bỏ qua do không kiểm soát được.
- Phương pháp thu trực tiếp. Thuế thu nhập cá nhân là thuế đánh vào
phần thu nhập của cá nhân, do đó để thuế thu được sát đúng với mức thu
nhập của từng cá nhân thì cần để cho người nộp thuế tự khai thu nhập của
mình. Đó là cơ sở ra đời phương pháp thu trực tiếp. Phương pháp thu trực
tiếp được thực hiện trên cơ sở người nộp thuế tự kê khai thu nhập và gửi
cho cơ quan thuế. Cơ quan thuế xác định số thuế phải nộp dựa trên số liệu
kê khai về thu nhập, về các khoản được phép khấu trừ, giảm trừ … kết
hợp với sự thẩm tra, kiểm soát của cơ quan thuế. Phương pháp này tuy
phức tạp nhưng đảm bảo tính chính xác vì khả năng tổng hợp nhiều nguồn
thu nhập và gắn với hoàn cảnh cá nhân của người nộp thuế. Tuy nhiên,
trên thực tế, phương pháp này chỉ đạt hiệu quả cao trong điều kiện người
nộp thuế hiểu rõ nghĩa vụ và trách nhiệm nộp thuế của mình. Nếu trình độ
hiểu biết của người nộp thuế còn kém, tính tự giác chưa cao thì không thể
nguon tai.lieu . vn