Xem mẫu
- 1
Bé GI¸O DôC Vμ §μO T¹O
TR¦êNG §¹I HäC S¦ PH¹M Hμ NéI
----------
NguyÔn thÞ thanh
TIÓU THUYÕT VÒ CHIÕN TRANH TRONG V¡N HäC
VIÖT NAM SAU 1975 – NH÷NG KHUYNH H¦íNG
Vμ Sù §æI MíI NGHÖ THUËT
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số : 62.22.34.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Hμ NéI – 2012
- 2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Ra đời trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, từ 1945 đến 1975, văn học
Việt Nam phải gánh vác một trọng trách nặng nề mà hai cuộc kháng chiến
giành độc lập dân tộc giao phó: tuyên truyền, cổ vũ chiến đấu. Sau năm 1975,
tuy không còn chiếm vị trí quan trọng hàng đầu như giai đoạn 1945 - 1975
nhưng đề tài chiến tranh vẫn được các nhà văn, nhất là những nhà văn mặc áo
lính chú ý khai thác. Khi tiếp tục viết về đề tài này, họ đã sáng tạo được nhiều
tác phẩm để lại dấu ấn trong lòng người đọc. Suốt ba mươi năm kháng chiến
chống ngoại xâm, tiểu thuyết về chiến tranh đã góp phần quan trọng vào việc
hình thành diện mạo nền văn học dân tộc. Sau 1975, trên tinh thần đổi mới tư
duy nghệ thuật, tiểu thuyết về chiến tranh vẫn tiếp tục phát triển và góp phần
không nhỏ vào sự đổi mới thể loại tiểu thuyết ở Việt Nam.
1.2. Từ 1975 tới nay, tiểu thuyết Việt Nam nói chung đã đạt được nhiều
thành tựu: phong phú về số lượng tác phẩm, đa dạng về khuynh hướng thẩm mĩ
với những cách tân nghệ thuật táo bạo. Do đó, việc nhận diện sự vận động của
văn học Việt Nam sau 1975 qua thể loại tiểu thuyết là cần thiết đối với công
việc nghiên cứu văn học sử. Song trong khuôn khổ luận án, người nghiên cứu
không thể bao quát thấu đáo toàn bộ thực tiễn thể loại, cho nên chúng tôi chỉ
giới hạn ở một bộ phận tiêu biểu – tiểu thuyết về chiến tranh. Trên cơ sở nắm
bắt các khuynh hướng chính và những đổi mới nghệ thuật của bộ phận tiểu
thuyết tiêu biểu này, luận án sẽ chỉ ra đặc điểm của tư duy thể loại, đồng thời
trực tiếp đề cập tới hai vấn đề của lí luận và văn học sử: có thể viết về chiến
tranh như thế nào và có thể viết tiểu thuyết như thế nào?
1.3. Trong các trường Đại học và Cao đẳng có chuyên ngành Ngữ văn,
người học không thể bỏ qua phần văn học Việt Nam đương đại, một phần vì
đây là giai đoạn văn học sôi nổi, có nhiều cách tân đáng chú ý; phần nữa là từ
- 3
quan điểm đổi mới, văn học hôm nay đặt ra vấn đề nhìn nhận, đánh giá lại
nhiều hiện tượng trong quá khứ. Những kết quả nghiên cứu đã có vẫn cần
được tiếp tục mở rộng, đào sâu để phục vụ tốt hơn cho nhiệm vụ giáo dục và
đào tạo. Cho nên, việc nghiên cứu diễn tiến của thể loại qua bộ phận tiểu
thuyết về chiến tranh sẽ đáp ứng thiết thực nhiệm vụ giảng dạy và học tập
trong nhà trường.
Trên đây là những lí do để chúng tôi chọn đề tài Tiểu thuyết về chiến
tranh trong văn học Việt Nam sau 1975 – Những khuynh hướng và sự đổi
mới nghệ thuật.
2. Lịch sử vấn đề
Cho đến nay đã có khá nhiều bài báo và công trình khoa học nghiên
cứu về tiểu thuyết chiến tranh ở Việt Nam sau 1975. Về cơ bản, có thể thấy
việc nghiên cứu được diễn tiến theo hai chặng: Từ năm 1975 đến khoảng cuối
thập kỉ 80 và khoảng từ đầu thập kỉ 90 tới nay.
2.1. Tình hình nghiên cứu tiểu thuyết về chiến tranh từ 1975 đến khoảng
cuối thập kỉ 80.
Từ năm 1975 đến khoảng cuối thập kỉ 80, do sáng tác chưa thật sự có
đột phá, việc nghiên cứu tiểu thuyết về chiến tranh thường ở quy mô nhỏ,
trong phạm vi các bài báo, các bài điểm sách hay các nhận xét tạt ngang. Bên
cạnh một vài bài dưới dạng điểm sách (ví dụ: Sao Mai và một số vấn đề của
tiểu thuyết của Ngô Thảo), các bài báo chủ yếu xoay quanh các câu hỏi: Phản
ánh chiến tranh như thế nào là chân thực? Giải quyết mối quan hệ giữa con
người và sự kiện lịch sử ra sao? Sang thập kỉ 80, việc nghiên cứu đã có khởi
sắc. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng một số tiểu thuyết đã “phản ánh chân
thực hiện thực chiến tranh cách mạng” [162, tr.110], đã “đánh giá sự kiện và
con người một cách sâu sắc hơn, nhìn cuộc chiến tranh một cách toàn diện và
bao quát hơn” [39, tr.111]. Theo Bùi Việt Thắng, “Khuynh hướng phân tích
- 4
hiện thực chiến tranh, mối quan hệ của nó với con người là dễ nhận thấy
trong các tiểu thuyết Đất trắng, Cửa gió, Năm 1975 họ đã sống như thế, Họ
cùng thời với những ai, Đất không giấu mặt... Chính việc phân tích sự kiện
lịch sử và tâm lí con người trong chiến tranh, mối quan hệ giữa con người và
chiến tranh làm cho tiểu thuyết sau 1975 có một diện mạo mới” [172, tr.121].
Các nhà nghiên cứu cũng ghi nhận chất lượng nghệ thuật của một số
tiểu thuyết về phương diện xây dựng nhân vật, về việc sử dụng điểm nhìn trần
thuật... Bùi Việt Thắng nhận xét: “Trong xây dựng nhân vật người chiến sĩ,
tiểu thuyết sau 1975 đã có hướng đi sâu vào miêu tả quá trình tâm lí nhằm cá
thể hóa nhân vật” [172, tr.121-122]. Lại Nguyên Ân cũng có ý kiến khá sắc
sảo về nghệ thuật kể chuyện của Chu Văn trong Sao đổi ngôi: “Với Sao đổi
ngôi, Chu Văn dùng “thủ pháp trao quyền kể chuyện” cho nhân vật (câu
chuyện do nhân vật chính xưng “tôi” kể lại) đã khiến cho tác phẩm vừa có
cốt cách dân gian vừa giữ được những đường nét chính của tiểu thuyết hiện
đại” [2, tr.16].
Không chỉ ghi nhận những thành tựu ban đầu, một số người còn chỉ ra
mặt hạn chế của tiểu thuyết về chiến tranh sau 1975. Trong bài Viết về chiến
tranh (1978), Nguyễn Minh Châu đã thẳng thắn nhận xét: “Nhìn lại những
tác phẩm viết về chiến tranh của ta, các nhân vật thường khi có khuynh
hướng được mô tả một chiểu, thường là quá tốt, chưa thực” [22, tr.57], “nhân
vật chỉ đóng vai trò làm đường dây để xâu các sự kiện lại với nhau”, “nhân
vật vẫn mờ nhạt” [22, tr.53]. Còn Lại Nguyên Ân thì thấy: “Ở nhiều cuốn
tiểu thuyết thiên về chiều rộng trong văn học ta, nhiều trường hợp có thể thấy
cốt truyện đa tuyến chưa được triển khai đến mức cần thiết đã bị “teo” lại, bị
thu vào cốt truyện đơn tuyến, bút pháp tự sự khách quan bị lấn át bởi bút
pháp biểu hiện trữ tình, những mảng đời sống được dàn ra (do ý đồ tạo nên
chiều rộng của bức toàn cảnh hoành tráng) thiếu sự “kết dính” vào một chỉnh
- 5
thể, trở nên chơi vơi, gây cảm quan về sự hời hợt, vụn vặt, làm hại đến chính
tính hoành tráng của tác phẩm” [3, tr.126]. Đánh giá về Đất miền Đông,
Trần Đăng Xuyền cho rằng: “Đất miền Đông đòi hỏi người viết đào sâu hơn
nữa vào hiện thực, dựng lại những số phận, đặt ra được những vấn đề thuộc
về con người trong chiến tranh. Nó đòi hỏi một cái nhìn khái quát nghệ thuật
điển hình hóa cao hơn nữa. Nó còn thiếu cái nhìn nhiều chiều, sắc sảo của
một nhà tiểu thuyết” [207, tr.126]. Nhưng phải đến thời kì đổi mới, với tinh
thần nhìn thẳng vào sự thật, giới nghiên cứu mới đưa ra những nhận xét thẳng
thắn về hạn chế của văn học chiến tranh. Đây là ý kiến của Trần Việt Dũng:
“Các tác phẩm viết về chiến trường thực ra chỉ phô bày sự hiểu biết về chiến
trường, kể chuyện chiến trường hơn là thể hiện một thái độ rất tôi của tác giả.
Không có cá tính, đúng hơn là chối bỏ cá tính, chối bỏ quan niệm riêng của
mình trước hiện thực là một trong những nguyên nhân tạo nên tình trạng yếu
kém của các tác phẩm văn học của ta.” [34, tr.129].
Theo chúng tôi, hai bài Thử nhìn lại văn xuôi mười năm qua của Lại
Nguyên Ân và Về một vài hướng tiếp cận với đề tài chiến tranh của Trần
Cương đã đạt được mức độ khái quát nhất định. Trong Thử nhìn lại văn xuôi
mười năm qua, Lại Nguyên Ân trình bày ngắn gọn nhưng tương đối đầy đủ
về sự phát triển của tiểu thuyết chiến tranh trong khoảng thời gian từ 1975
đến 1985. Ông cho rằng “cảm giác cùng thời” là nét nhất quán ở các tác
phẩm mà những tập đầu được viết ngay trong chiến tranh (Vùng trời, Những
tầm cao, Dòng sông phẳng lặng), hoặc những tác phẩm tuy xuất bản sau 1975
nhưng đã được dự kiến từ trước (Sao Mai của Dũng Hà, Biển gọi của Hồ
Phương, Lửa từ những ngôi nhà của Nguyễn Minh Châu, Mở rừng của Lê
Lựu, Thung lũng thử thách của Thái Bá Lợi, Cửa gió của Xuân Đức, Những
người báo bão của Vân Thảo,…), “Do vậy cảm hứng ngợi ca và cổ vũ chiến
công là nét nhất quán ở tất cả các sáng tác này” [2, tr.15]. Bên cạnh đó,
- 6
nhiều nhà văn đã có “ý thức về khoảng cách” và ý thức ấy đã “dẫn tới những
cách xử lí khác nhau”; có “một số tác phẩm đã được xây dựng theo hướng
tiểu thuyết hóa các sự kiện thực, tuy vậy tính chất tư liệu vẫn là nét đậm”; có
tác giả “cố gắng dựng lại những trang sử hiện đại bằng ngôn ngữ tiểu
thuyết”; trường hợp của tiểu thuyết Sao đổi ngôi thể hiện “khả năng kể về
cuộc chiến đấu đã qua từ góc độ ý thức dân gian, ý thức của đám đông lính
thường và dân thường đã trải qua những ngày kháng chiến” [2, tr.16].
Trong bài Về một vài hướng tiếp cận với đề tài chiến tranh, Trần Cương
chỉ ra hai hướng tiếp cận của văn học sau năm 1975. Hướng tiếp cận trực tiếp
có thể kể tới “Ký sự miền đất lửa, Biển gọi, Năm 1975 họ đã sống như thế,
Nắng đồng bằng, Miền cháy, Rừng lá đỏ, Đất trắng, Đất miền Đông...”. Theo
ông, ở đây, “hướng tiếp cận chủ yếu vẫn là lí giải chiến tranh, tiếp tục ngợi ca
khẳng định, và nay trong điều kiện hòa bình, còn có thêm một khía cạnh nữa là
“tính sổ”. Trong số những tác phẩm này và nhiều tác phẩm khác nữa, diện
mạo chiến tranh đã được vẽ thêm nhiều nét bút mới” [25, tr.40]. Hướng tiếp
cận thứ hai là: “Thể hiện đề tài chiến tranh một cách không trực tiếp (nghĩa là
có đan cài bổ sung giữa đề tài chiến tranh và các đề tài khác)” [25, tr.46]. Ở
hướng tiếp cận không trực tiếp, nhiều nhà văn “đều có chung ý nghĩ là tìm về
với cái muôn đời – tức là các giá trị nhân bản đích thực, cụ thể - có cội rễ sâu
xa từ trong đời sống Nhân dân và lịch sử Dân tộc”. Đó là một trong những yếu
tố làm nên thành công cho tác phẩm, mà Sao đổi ngôi là một ví dụ: “Chu Văn
có một cái nhìn nhất quán, xuyên suốt, và cái nhìn này đã được triển khai trên
tất cả các bình diện của tác phẩm” [25, tr.42].
Khi phản ánh theo hướng không trực tiếp, nhà văn đã tìm được nhiều
khả năng linh hoạt để thể hiện chiến tranh: tiếp cận theo kiểu phê phán (Cái
kính – Nguyễn Minh Châu); hoặc tiếp cận theo “kiểu triết luận, tâm lí – xã
hội sau chiến tranh”; hoặc tiếp cận theo kiểu Phía Tây không có gì lạ: “là
- 7
một cách thức phản đối chiến tranh” [25, tr.45]. Với bài viết này, Trần
Cương vừa tổng kết sơ bộ các hướng tiếp cận vừa đưa ra những dự báo khá
tinh và sắc về sự phát triển tương lai của văn học chiến tranh ở ta.
Tóm lại, trong khoảng hơn một thập kỉ sau 1975, việc nghiên cứu tiểu
thuyết về chiến tranh chưa có nhiều thành tựu nổi bật. Khi chú trọng nhiều
hơn đến nội dung tư tưởng tác phẩm, quan điểm của giới nghiên cứu khá
thống nhất; chỉ có một số ý kiến băn khoăn hoặc phê phán những trường hợp
“cá biệt” và “lạ” trên văn đàn (ví dụ: quan điểm của Trần Hữu Tá: “Việc một
số nhà văn nghiêng về thể hiện những “số phận cá nhân” mà làm mờ đi “vận
mệnh dân tộc” là hiện tượng cần uốn nắn” [162, tr.122]). Từ giữa thập kỉ 80,
ý kiến về tiểu thuyết chiến tranh bắt đầu phong phú và sâu sắc hơn (Sao đổi
ngôi của Chu Văn được một số người đánh giá cao nhưng Nguyễn Văn Lưu
lại cho rằng: “Cái nhìn về chiến tranh và người lính như vậy mới chỉ là cái bề
ngoài, là cái dễ nhìn, còn rất xa bản chất” [107, tr.112]). Phải chăng, nguyên
nhân của tình hình trên là và do văn học còn “tình trạng nghèo nàn” (Nguyên
Ngọc), tiểu thuyết về chiến tranh chưa có thành tựu nổi bật và do đặc điểm
chung trong tiếp nhận văn học một thời?
2.2. Tình hình nghiên cứu tiểu thuyết về chiến tranh từ đầu thập kỉ 90
đến nay
Từ đầu thập kỉ 90 trở đi, cùng với những thành tựu của sáng tác, lí luận,
nghiên cứu, phê bình văn học cũng thực sự khởi sắc. Giới nghiên cứu đã đổi
mới phương pháp tiếp cận, chú ý nhiều hơn tới giá trị nhân văn, ý nghĩa nhân
bản và chức năng thẩm mĩ của tác phẩm văn học. Việc nghiên cứu tiểu thuyết
về chiến tranh cũng không nằm ngoài tình hình chung ấy.
Qua các bài báo có tính chất điểm sách (Thảo luận về tiểu thuyết Thân
phận của tình yêu [134], Tọa đàm về tiểu thuyết Lạc rừng của Trung Trung
Đỉnh [135], Rừng thiêng nước trong, một tiểu thuyết hay về chiến tranh [120],
- 8
Những bức tường lửa và sự đổi mới tiểu thuyết sử thi [198], Xu hướng phá vỡ
cấu trúc nhân vật sử thi truyền thống trong Thượng Đức [199], Tiếng khóc
của nàng Út – Tiếng khóc của một thời [6],…), chúng tôi nhận thấy tính kịp
thời trong việc nghiên cứu, phê bình tiểu thuyết về chiến tranh.
Bên cạnh đó, ngày càng có nhiều công trình nghiên cứu mang tầm khái
quát ở các cấp độ khác nhau. Những bài viết về một chặng phát triển của tiểu
thuyết chiến tranh có thể kể tới: Qua những cuốn sách gần đây về chiến tranh
[118], Văn học Việt Nam về chiến tranh – Hai giai đoạn của sự phát triển
[32], Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ trang sau
1975 – những thành tựu nghệ thuật còn bị bỏ lỡ [205], Một cách nhìn về đổi
mới tiểu thuyết chiến tranh [92], Một hình dung về quá trình phát triển của
tiểu thuyết sử thi Việt Nam từ 1945 đến nay [197],...
Trong Qua những cuốn sách gần đây về chiến tranh, khi khảo sát về
Nước mắt đỏ, Chim én bay, Không phải trò đùa, Vòng tròn bội bạc, Âm vang
chiến tranh, Lê Thành Nghị thấy rằng “một mô típ có ý nghĩa đáng kể, nơi để
nhà văn có dịp bộc lộ tư tưởng thẩm mĩ của mình là mô típ con người về từ
chiến trường trước thử thách mới” [118, tr.115].
Trong Văn xuôi về chiến tranh – Hai giai đoạn của sự phát triển, Đinh
Xuân Dũng cho rằng từ khoảng đầu thập kỉ tám mươi đến giữa thập kỉ chín
mươi, văn xuôi về chiến tranh đang tồn tại đồng thời ba xu hướng:
“Một số tác giả, đặc biệt những nhà văn đã quen và nhiều năm viết
về chiến tranh trong chiến tranh, vẫn giữ lại “tạng” viết của mình, ít có sự
đổi mới...
Một số nhà văn khác, (…) đã cho ra đời những tác phẩm viết về chiến
tranh theo khuynh hướng nhìn méo hiện thực, chỉ tập trung đi tìm những cái
mất mát, đau thương, bi thảm, éo le, độc ác, lố bịch xảy ra trong chiến tranh,
để từ đó, cho là toàn bộ hiện thực chiến tranh.
- 9
Khuynh hướng chính của sự phát triển, (...) đó là khả năng phân tích,
bình giá và mổ xẻ hiện thực đa chiều của chiến tranh, đó là sự phân tích mối
quan hệ cự kì phức tạp giữa số phận từng con người với biến cố chiến tranh,
đó là năng lực khám phá và đặt ra những vấn đề nóng bỏng nhất trong chiến
tranh và sau chiến tranh do tác động dai dẳng của chiến tranh trong đời sống
của từng cá nhân và của toàn xã hội” [32, tr.94-95].
Trong bài Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ
trang sau 1975 – những thành tựu nghệ thuật còn bị bỏ lỡ, Nguyễn Thiệu Vũ
đưa ra ba nhận xét khá sắc sảo:
1. Sau 1975, các nhà tiểu thuyết đã nỗ lực mở rộng phạm vi hiện thực
phản ánh nhưng chưa có đủ sự táo bạo cần thiết cho việc phát huy trí
tưởng tượng và giải phóng những mãnh lực của hư cấu nghệ thuật
[205, tr.105].
2. Cố gắng tạo dựng những tính cách những số phận độc đáo, đặc biệt
nhưng còn tự giam mình trong những quan niệm nghệ thuật về con
người chưa thoát khỏi tính chất giản đơn, nhất phiến [205, tr.106].
3. Đã ưu tiên cho việc phận tích tâm lí nhưng chưa thực sự dám đối diện
với những bí hiểm của tâm hồn con người [205, tr.107-108].
Trong Một cách nhìn về đổi mới tiểu thuyết chiến tranh, thông qua việc
khảo sát một số tiểu thuyết chiến tranh ra đời vào đầu thế kỉ XXI (Bến đò xưa
lặng lẽ, Rừng thiêng nước trong, Ngày rất dài, Những bức tường lửa, Khúc bi
tráng cuối cùng), Tôn Phương Lan kết luận: “Như vậy, với điểm nhìn mới,
những sáng tác viết về chiến tranh trong những năm gần đây cho chúng ta
thấy được sự đổi mới của nó: cái ác liệt của chiến tranh đã được nhìn sâu vào
bản chất. Chúng ta dễ nhận ra việc đổi mới tư duy nghệ thuật, đổi mới cách
nhìn là cơ sở quan trọng để có được sự đa dạng về phong cách và giọng điệu
với nhiều phương thức biểu hiện mới mà trước đó chưa có, như sử dụng hiện
- 10
thực tâm linh, yếu tố kì ảo, dòng ý thức... Nhưng trong văn xuôi viết về chiến
tranh, kĩ thuật đó chưa được áp dụng nhiều” [92].
Trong Một hình dung về quá trình phát triển của tiểu thuyết sử thi Việt
Nam từ 1945 đến nay, Nguyễn Thanh Tú nhận xét: “Có thể hình dung quá
trình phát triển của tiểu thuyết sử thi Việt Nam từ 1945 đến nay như một dao
động hình sin, điểm bắt đầu là Xung kích, Con trâu, Vùng mỏ..., lên cao với
Đất nước đứng lên và cực đại là Dấu chân người lính... rồi đi xuống đến cực
tiểu là Nỗi buồn chiến tranh... và đi lên với Đất trắng, Chim én bay, Ăn mày
dĩ vãng, Ngày rất dài, Những bức tường lửa, Thượng Đức, Xiêng Khoảng mù
sương, Xuân Lộc… sự hình dung này chỉ căn cứ vào tính chất thể loại xem xét
chất sử thi đậm nhạt khác nhau chứ không căn cứ vào giá trị của tác phẩm”
[197, tr.100].
Không chỉ viết về một chặng phát triển của tiểu thuyết chiến tranh, giới
nghiên cứu còn đánh giá về sự nghiệp sáng tác của một tác giả. Ví dụ: Đề tài
chiến tranh trong tiểu thuyết của Chu Lai (2004) của Phạm Thúy Hằng, Nhân
vật người lính trong tiểu thuyết Khuất Quang Thụy (2008) của Đinh Thanh
Hương, Thái Bá Lợi với tiểu thuyết viết về chiến tranh sau năm 1975 (2009)
của Phạm Phú Phong,...
Có nhà nghiên cứu còn bàn bạc đến những vấn đề khá mới của văn học
Việt Nam: vấn đề tình dục. Sau khi phân tích các vấn đề Chiến tranh, tình
yêu, tình dục trong văn học Việt Nam đương đại qua một số tác phẩm của
Nguyễn Minh Châu, Võ Thị Hảo, Dương Hướng, Võ Thị Xuân Hà, Bảo Ninh,
Đoàn Cầm Thi kết luận: “Các tác giả đều tập trung phân tích những tổn thất
do chiến tranh gây ra về mặt tình yêu và tình dục. (...) khi viết về bi kịch cá
nhân trong và sau chiến tranh, các nhà văn Việt đã linh cảm được vai trò
thiết yếu của vô thức, của giấc mộng, của ám ảnh nhục dục trong tâm lý con
người” [175]. Với bài Dục vọng trong tiểu thuyết Việt Nam về chiến tranh từ
- 11
1986 đến 1996, Nguyễn Thị Xuân Dung tìm hiểu về vấn đề tình dục trong các
tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh),
Những mảnh đời đen trắng (Nguyễn Quang Lập), Bến không chồng (Dương
Hướng) và đưa ra nhận xét: “Trong tiểu thuyết viết về chiến tranh từ 1986 –
1996, ta thấy hầu như tác phẩm nào cũng có đề cập đến chuyện bản năng,
tình yêu - tình dục của con người và thể hiện nó một cách tự nhiên, chân thực.
Điều đó càng phản ánh rõ hơn bộ mặt trần trụi của chiến tranh và số phận
khốc liệt của con người trong hiện thực tàn bạo ấy, qua đó hợp lí hóa đời
sống bản năng của con người, đề cao nó trong một tinh thần nhân văn cao
đẹp; lên án, phê phán chiến tranh là một thế lực phi nhân tính đã tước đoạt,
cướp mất của con người quyền được sống với chính những nhu cầu bình
thường và thiết yếu của họ” [28]. Theo chúng tôi, đây là những nhận xét
tương đối mới mẻ.
Thời gian gần đây, một số luận văn thạc sĩ đã nghiên cứu một vài
phương diện của tiểu thuyết về chiến tranh: Quan niệm nghệ thuật về con
người trong tiểu thuyết chiến tranh sau 1975 (2003) của Nguyễn Thị Ngọc
Diệp, Cảm hứng bi kịch trong một số tiểu thuyết tiêu biểu về chiến tranh sau
1975 (2004) của Bùi Thị Hường, Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh Việt Nam
2004 – 2008 (2009) của Nguyễn Thị Duyên,... Bên cạnh đó, một số tiểu thuyết
tiêu biểu về chiến tranh cũng là đối tượng khảo sát của các luận án tiến sĩ như
Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau 1975 (Khảo sát trên
những nét lớn) (1996) của Nguyễn Thị Bình, Yếu tố kì ảo trong văn xuôi đương
đại Việt Nam (2006) của Bùi Thanh Truyền, Những cách tân nghệ thuật trong
tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1996-2006 (2008) của Mai Hải Oanh,...
Nhìn chung, việc nghiên cứu tiểu thuyết về chiến tranh đã đạt được
những thành tựu đáng kể. Có được những thành tựu đó là nhờ sự đổi mới của
sáng tác và phê bình nói chung. Song mặt khác cũng cần ghi nhận sự nỗ lực
- 12
của giới nghiên cứu trong việc cập nhật những thành tựu lí luận phê bình hiện
đại để tìm hiểu tiểu thuyết về chiến tranh trong hơn ba thập kỉ vừa qua.
Nhìn lại tình hình nghiên cứu tiểu thuyết về chiến tranh từ sau 1975,
chúng tôi thấy nổi lên các vấn đề sau:
a. Về phương diện tư liệu được khảo sát: Tiểu thuyết về chiến tranh chủ
yếu được xem xét ở cấp độ một vấn đề nhỏ, lẻ vừa quy mô bài báo. Ở cấp độ
luận văn, giới nghiên cứu chỉ khảo sát một chặng khoảng vài năm phát triển
của nó. Cho đến nay, chưa có công trình nào thực sự khảo sát phạm vi tư liệu
trong suốt hơn ba mươi năm qua.
b. Về nội dung khảo sát:
- Giới nghiên cứu đã quan tâm tới những khía cạnh khác nhau nhưng
chưa có công trình nào hướng tới mục đích khái quát các khuynh hướng của
tiểu thuyết về chiến tranh sau 1975.
- Tiểu thuyết về chiến tranh sau 1975 cũng được tìm hiểu ít nhiều ở các
phương diện như nghệ thuật xây dựng nhân vật, kết cấu tác phẩm, song chưa
có công trình nào nghiên cứu tổng thể về sự đổi mới nghệ thuật của mảng tiểu
thuyết này.
Như vậy, cho đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một cách
hệ thống các khuynh hướng và sự đổi mới nghệ thuật của tiểu thuyết về chiến
tranh trong văn học Việt Nam sau 1975, song vấn đề này đã được xem xét ở
một số cấp độ. Luận án sẽ tiếp thu thành quả của người đi trước để đạt tới
mục tiêu của mình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Trước 1975, nhà văn Việt Nam luôn đề cao mục đích tái hiện các cuộc
chiến tranh giữ nước của dân tộc. Song sau 1975, không ít người coi chiến
tranh chỉ là phương tiện nghệ thuật chứ không phải mục đích phản ánh của tác
- 13
phẩm. Dựa trên cả hai đối tượng của nghệ thuật là hiện thực và con người,
chúng tôi sẽ xếp vào đề tài chiến tranh những tiểu thuyết có một trong các tiêu
chí sau:
- Hiện thực chiến tranh được tái hiện như một nội dung cơ bản của tác
phẩm (có thể trực tiếp hoặc gián tiếp qua hồi ức nhân vật).
- Nhân vật chính của tác phẩm là người lính chiến đấu trên các mặt trận
khác nhau, hoặc là người thanh niên xung phong phục vụ chiến trường, hoặc
là những nạn nhân trực tiếp của chiến tranh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Do hạn chế về nguồn tư liệu và sự phức tạp trong việc tiếp nhận một
đề tài có tính chất truyền thống trong văn học Việt Nam từ 1945 tới nay,
chúng tôi chỉ lựa chọn những tiểu thuyết được công bố trong nước từ 1975
đến 2009, còn những tiểu thuyết xuất bản ở hải ngoại sẽ không nằm trong
phạm vi khảo sát của luận án; khi đặt đối tượng nghiên cứu trong thế đối sánh
với tiểu thuyết trước 1975 để nhận diện cái mới, chúng tôi chỉ dẫn các tác
phẩm ở khu vực chính thống, chứ không dẫn các tác phẩm xuất bản ở miền
Nam trước 1975.
- Với một phạm vi tư liệu như trên, chúng tôi ưu tiên cho tác phẩm gây
được sự chú ý của dư luận, tiếp đến là một số tác phẩm tuy chưa được quan
tâm nhưng thực sự có ý nghĩa với đề tài. Còn những tiểu thuyết ra đời vào đầu
thế kỉ XXI, vì chưa có đủ độ lùi thời gian cần thiết để đưa ra một cái nhìn sâu
sắc nên chúng tôi chỉ chọn khảo sát sơ bộ một số tác phẩm đã nhận được các
giải thưởng văn học để thấy mạch vận động của thể loại đang diễn tiến thế nào.
4. Quan niệm về đề tài
4.1. Chúng tôi cho rằng nghiên cứu tiểu thuyết về chiến tranh thực chất
là nghiên cứu cách ứng xử với chất liệu, trong đó bao gồm quan niệm của
người viết về hiện thực và về tiểu thuyết. Mà chiến tranh là một trạng thái đặc
- 14
biệt của đời sống hiện thực, cho nên luận án sẽ hướng tới mục đích nhận diện
những đặc điểm của tư duy thể loại qua một bộ phận tiểu thuyết cụ thể và thấy
được chất liệu chiến tranh – một chất liệu quen thuộc của văn học Việt Nam –
từ sau 1975 đã được các nhà văn làm mới như thế nào.
4.2. Theo quan niệm của M.Bakhtin – một quan niệm hiện được tín
nhiệm nhiều nhất – tiểu thuyết có những đặc trưng cơ bản để phân biệt với
các thể loại đã rắn chắc về nòng cốt nhưng ông không đặt vấn đề phân biệt
tiểu thuyết thuộc các đề tài (chất liệu) khác nhau. Luận án này không đặt
nhiệm vụ phân biệt tiểu thuyết viết về chiến tranh với tiểu thuyết sử dụng các
chất liệu khác, mà tập trung làm rõ tiến trình vận động của nó để khảo sát tư
duy thể loại. Cho nên, những khái quát ở tiểu thuyết về chiến tranh cũng có
thể tìm thấy ở tiểu thuyết về các đề tài khác.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp hệ thống – cấu trúc: Với phạm vi tư liệu trong suốt hơn
ba mươi năm, chúng tôi luôn ý thức đặt đối tượng nghiên cứu trong cả cái
nhìn đồng đại lẫn lịch đại. Chúng tôi sẽ thống kê những tiểu thuyết tiêu biểu
về chiến tranh trong văn học Việt Nam sau 1975, dùng các thao tác phân tích,
tổng hợp, sắp xếp chúng thành những nhóm nhất định, tạo thành hệ thống để
làm sáng tỏ vấn đề một cách toàn diện.
- Phương pháp loại hình: Phương pháp loại hình được sử dụng để nhận
diện các khuynh hướng tiểu thuyết viết về chiến tranh trong văn học Việt
Nam sau 1975 và phân tích sự đổi mới nghệ thuật của nó theo đặc trưng thể
loại văn học.
- Phương pháp so sánh: Tìm hiểu một thể loại viết về đề tài có tính chất
truyền thống của văn học, phương pháp so sánh đặc biệt quan trọng. Thông qua
phương pháp so sánh, luận án đặt đối tượng nghiên cứu trong mối tương quan
ít nhiều với văn học hiện đại về chiến tranh nói chung, song mục đích chủ yếu
- 15
mà chúng tôi hướng tới là chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt của tiểu
thuyết về chiến tranh trong văn học Việt Nam trước và sau 1975.
- Phương pháp liên ngành: Trong luận án, chúng tôi luôn có ý thức vận
dụng những thành tựu của lí luận văn học, ngôn ngữ học, phân tâm học, triết
học và lịch sử để đạt tới mục đích nghiên cứu mà đề tài đã đặt ra.
6. Đóng góp của luận án
- Trên cơ sở cái nhìn bao quát văn học về chiến tranh sau 1945, luận án
đi sâu tìm hiểu ba khuynh hướng tiểu thuyết nổi bật, chỉ ra những tìm tòi thể
nghiệm nghệ thuật đa dạng cũng như những hạn chế của tiểu thuyết về chiến
tranh trong văn học Việt Nam sau 1975.
- Từ một bộ phận tiểu thuyết cụ thể, chúng tôi hi vọng góp phần làm
sáng tỏ đặc điểm tư duy thể loại tiểu thuyết trong quá trình vận động của văn
học Việt Nam sau 1975.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận án được triển khai thành
ba chương:
- Chương 1: Tiểu thuyết về chiến tranh trong tiến trình văn học Việt
Nam từ 1945 đến nay.
- Chương 2: Một số khuynh hướng tiểu thuyết về chiến tranh trong văn
học Việt Nam sau 1975.
- Chương 3: Sự đổi mới nghệ thuật của tiểu thuyết về chiến tranh trong
văn học Việt Nam sau 1975.
- 16
Chương 1
TIỂU THUYẾT VỀ CHIẾN TRANH TRONG TIẾN TRÌNH
VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN NAY
Chiến tranh là một đề tài phổ biến trong văn chương nhân loại nói
chung, ở ta, nó càng trở nên quen thuộc vì chúng ta phải trải qua nhiều cuộc
chiến tranh. Trong tiến trình văn học Việt Nam từ 1945 tới nay, cách ứng xử
với chất liệu chiến tranh có sự thay đổi qua từng giai đoạn lịch sử. Thời chiến,
văn học về chiến tranh là diễn ngôn ý thức hệ, diễn ngôn tự hào dân tộc, nó
đặc biệt chú trọng phản ánh phía hiện thực hào hùng với những chiến công
oanh liệt của quân dân ta. Thời bình, nó nghiêng sang phía hiện thực còn
khuất lấp: sự hi sinh, tổn thất mà dân tộc ta phải gánh chịu trong suốt ba thập
kỉ và những dư chấn nặng nề mà chiến tranh để lại. Không chỉ phản ánh, nhà
văn còn “sáng tạo hiện thực” và “suy ngẫm” về nó từ nhiều góc độ. Bên cạnh
diễn ngôn ý thức hệ, diễn ngôn tự hào dân tộc, văn học về chiến tranh có thêm
các diễn ngôn khác (nhân tính, dục tính, hạnh phúc cá nhân,…). Bình đẳng
với các chất liệu khác, chất liệu chiến tranh còn là phương tiện biểu hiện nghệ
thuật, là “thi pháp”, là cuộc “phiêu lưu” của lối viết,… Khi đó, “tính vĩnh
cửu” của nghệ thuật được đặc biệt coi trọng.
Lịch sử chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm lược đã hoàn kết,
nhưng bằng sự chuyển hóa từ ý nghĩa xã hội – lịch sử sang ý nghĩa xã hội –
thẩm mĩ, văn học về chiến tranh không ngừng vận động trên hành trình kiếm
tìm những giá trị nghệ thuật mới mẻ để làm giàu cho chính nó. Đặt tiểu thuyết
về chiến tranh trong tiến trình văn học Việt Nam từ 1945 tới nay là tiền đề
quan trọng để thấy được sự đổi mới của nó.
- 17
1.1. Vị trí của đề tài chiến tranh trong văn xuôi Việt Nam từ năm 1945
tới nay
1.1.1. Vị trí của đề tài chiến tranh trong văn xuôi trước năm 1975
Từ 1945 đến 1975, đất nước ta đã trải qua hai cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mĩ. Sau đó vào các năm 1978 và 1979, nhân dân ta
vẫn còn phải đương đầu với hai cuộc chiến tranh ở biên giới Tây - Nam và
biên giới phía Bắc để bảo vệ chủ quyền Tổ quốc. Trong hoàn cảnh chiến tranh
kéo dài, con người buộc phải thích nghi với cuộc sống bất thường và một nền
văn hoá thời chiến dần định hình; quyền lợi giai cấp và dân tộc, nhãn quan ý
thức hệ trở thành chuẩn mực đo đếm các giá trị.
Để thắng được những kẻ thù lớn mạnh, chúng ta phải huy động mọi
nguồn lực, trong đó có văn học. Với sứ mệnh tuyên truyền, cổ vũ chiến đấu,
với phương châm “phục vụ kháng chiến”, văn chương thời chiến xem chiến
tranh là “lửa thử vàng”, là môi trường tôi luyện con người mới. Trong sinh
hoạt văn nghệ, văn học viết về chiến tranh được đón nhận nhiệt tình, vì nó
trực tiếp khẳng định chính nghĩa dân tộc, khẳng định tính ưu việt của chế độ
xã hội chủ nghĩa, củng cố niềm tin cho con người. Đó chính là những tiền đề
cơ bản làm nên vị trí quan trọng hàng đầu của đề tài chiến tranh trong văn học
Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975.
Trong bài Mấy nét về đề tài chiến tranh và tiểu thuyết Đất trắng, Đặng
Quốc Nhật đã thống kê: “Nếu tính từ 1954 đến 1975, thì đề tài chiến tranh
được đề cập đến ở một số lượng tác phẩm khá lớn so với các mảng đề tài
khác: 115 tập truyện kí, 74 tập tiểu thuyết trong số 397 tập truyện kí, 173 tập
tiểu thuyết đã in...” [130, tr. 108].
Từ 1945 đến 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp được tái hiện trong
mọi thể loại văn xuôi. Về thể kí, có thể kể tới Trận phố Ràng, Một cuộc chuẩn
bị của Trần Đăng, Ở mặt trận Nam Trung bộ, Ngược sông Thao của Tô Hoài,
- 18
Chặt gọng kìm đường số Bốn của Hoàng Lộc, Kí sự Cao – Lạng của Nguyễn
Huy Tưởng… Về tùy bút, Đường vui và Tình chiến dịch, Tùy bút kháng chiến
của Nguyễn Tuân có một vị trí khá quan trọng trong văn xuôi giai đoạn này.
Truyện ngắn cũng để lại được một số thành công đáng kể: Đôi mắt của Nam
Cao, Làng của Kim Lân, Con đường sống của Minh Lộc Gặp gỡ của Bùi Hiển,
Tây đầu đỏ và Bên rừng cù lao Dung của Phạm Anh Tài, Truyện Tây Bắc của
Tô Hoài... Giai đoạn này, tiểu thuyết còn rất hiếm hoi, tác phẩm tiêu biểu có
thể kể đến là Xung kích (1951) của Nguyễn Đình Thi.
Giai đoạn 1955 – 1964, hoà bình được lập lại ở miền Bắc, văn học có
điều kiện để phát triển. Văn xuôi giai đoạn này khá đa dạng về đề tài. Bên
cạnh bộ phận quay lại tái hiện bức tranh lịch sử trước cách mạng tháng Tám
1945 (Mười năm của Tô Hoài, Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi, Cửa biển của
Nguyên Hồng…); hoặc hướng vào đời sống hiện tại, phản ánh sự đổi thay của
đất nước, của con người trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới xã hội chủ
nghĩa; văn xuôi về chiến tranh vẫn chiếm vị trí quan trọng cả về số lượng lẫn
chất lượng tác phẩm. Cuộc kháng chiến chống Pháp được nhiều nhà văn tiếp
tục khai thác. Một số tác phẩm tiêu biểu: Đất nước đứng lên (Giải nhất giải
thưởng văn học Hội Văn nghệ Việt Nam năm 1954 - 1955) của Nguyên Ngọc,
Vượt Côn Đảo (Giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam năm 1955) của Phùng
Quán, Mùa hoa dẻ (1957) của Văn Linh, Một truyện chép ở bệnh viện (1958)
của Bùi Đức Ái, Bên kia biên giới (1958) và Trước giờ nổ súng (1960) của Lê
Khâm, Cao điểm cuối cùng (1960) của Hữu Mai, Sống mãi với thủ đô (1961)
của Nguyễn Huy Tưởng, Phá vây (1961) của Phù Thăng, Đất lửa (1963) của
Nguyễn Quang Sáng,... Văn xuôi chiến tranh không chỉ có những tác phẩm
được giải thưởng, được dư luận đánh giá cao, một số trường hợp còn trở
thành hiện tượng gây ồn ào vì vi phạm sự cấm kị (Mùa hoa dẻ, Phá vây).
Thành tựu đáng chú ý của tiểu thuyết về chiến tranh trong giai đoạn này là
- 19
nhà văn đã xây dựng được những nhân vật điển hình như anh hùng Núp – Đất
nước đứng lên, chị Tư Hậu – Một truyện chép ở bệnh viện...
Tới giai đoạn 1965 – 1975, khi cuộc kháng chiến chống Mĩ lan rộng ra
cả nước, văn xuôi viết về chiến tranh càng nở rộ. Có được thành tựu đó là do
đội ngũ nhà văn cách mạng vừa đạt tới độ chín, vừa được bổ sung những cây
bút trẻ, xông xáo. Xuất phát từ yêu cầu phản ánh và cổ vũ kịp thời cho cuộc
chiến, nhiều nhà văn từ miền Bắc đã tăng cường cho chiến trường miền Nam
và họ nhanh chóng có được thành tựu: các tập truyện và kí Bức thư Cà Mau
của Anh Đức, Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc của Nguyễn Trung
Thành; các tập truyện kí Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi, Sống như anh
của Trần Đình Vân, Họ sống và chiến đấu của Nguyễn Khải, các tập truyện
ngắn Chiếc lược ngà, Bông cẩm thạch của Nguyễn Quang Sáng... Tiểu thuyết
về chiến tranh trở thành bộ phận chủ đạo của văn học giai đoạn này. Từ quan
niệm “nếu coi thơ như là hoa, thì tiểu thuyết như là quả của văn học” [171,
tr.313], nhà văn chọn tiểu thuyết với khát vọng phản ánh hiện thực hào hùng
ở tiền tuyến lớn và hậu phương lớn trong cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc.
Một số tác phẩm tiêu biểu: Hòn Đất (1966) của Anh Đức, Rừng U Minh
(1966) của Trần Hiếu Minh, Gia đình Má Bảy (1968), Mẫn và tôi (1972) của
Phan Tứ, Vào lửa (1966) và Mặt trận trên cao (1967) của Nguyễn Đình Thi,
Cửa sông (1967) và Dấu chân người lính (1972) của Nguyễn Minh Châu, Đất
Quảng (1970) của Nguyễn Trung Thành, Đường trong mây, Chiến sĩ (1973)
của Nguyễn Khải, Dưới đám mây màu cánh vạc (1973) của Thu Bồn, Những
tầm cao (tập 1 – 1973) của Hồ Phương, Dòng sông phẳng lặng (tập 1 – 1974)
của Tô Nhuận Vĩ, Sao Mai (tập 1 – 1974) của Dũng Hà, Vùng trời (tập 1 –
1972, tập 2 – 1974) của Hữu Mai,... Trong giai đoạn này, văn xuôi về chiến
tranh chiếm vị thế ưu trội, các tác phẩm viết về hậu phương cũng in đậm hơi
thở chiến trường (ví dụ: Đất làng – Nguyễn Thị Ngọc Tú, Vùng quê yên tĩnh
- 20
– Nguyễn Kiên). Những tác phẩm “kinh điển” như Hòn Đất, Mẫn và tôi, Dấu
chân người lính, Vùng trời… đều viết về chiến tranh. Tiểu thuyết chiến tranh
cũng có dấu hiệu chuyển động đáng ghi nhận. Đó là sự mở rộng dung lượng
phản ánh và quy mô tác phẩm. Những năm cuối cuộc kháng chiến chống Mĩ đã
xuất hiện khuynh hướng muốn tìm tòi, lí giải những vấn đề trực tiếp liên quan
đến con người như đạo đức, lẽ sống, lối sống trong đời sống chiến tranh
(Đường trong mây, Ra đảo – Nguyễn Khải). Những nhân vật trẻ tuổi như Lữ
(Dấu chân người lính), Hảo (Vùng trời), Mẫn (Mẫn và tôi) vẫn bình tĩnh tự tin
trong chiến đấu nhưng đời sống nội tâm không còn cái thanh thản, ổn định, dễ
dàng như nhiều nhân vật trong tiểu thuyết giai đoạn trước. Điều đó cho thấy nỗ
lực kiếm tìm để đổi mới thể loại trước hết thuộc về tiểu thuyết chiến tranh.
Từ 1945 đến 1975, hiện thực cách mạng và đời sống lịch sử dân tộc là
đối tượng phản ánh chủ yếu của nhà văn. Vai trò của nhà văn cũng được nhìn
nhận ở phương diện “chiến sĩ”. “Con người mới”, những con người mang tầm
vóc sử thi, luôn chiếm vị trí trung tâm trong đời sống văn học. Có thể nói,
khuynh hướng sử thi, khuynh hướng gắn liền với các cuộc chiến tranh vệ
quốc, là đặc điểm bao trùm cả nền văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975.
1.1.2. Vị trí của đề tài chiến tranh trong văn xuôi sau năm 1975
Khi chiến tranh kết thúc, chúng ta phải phải học để làm quen trở lại với
đời sống hoà bình. Song sau hơn ba thập kỉ, dư âm và hậu quả của hai cuộc
chiến vẫn in dấu đậm nét trong cuộc đời của nhiều người từng đi qua chiến
tranh và cả một số người sinh ra khi đất nước đã im tiếng súng. Trong bối cảnh
đất nước đổi mới và xu thế hội nhập toàn cầu, việc xác lập hệ giá trị mới là đòi
hỏi cấp bách, mỗi cái mới cần được nhìn trong tương quan với cái bị coi là cũ
hoặc chưa cũ nhưng đã từng xuất hiện trong điều kiện chiến tranh.
Khoảng mười năm sau 1975, văn học về chiến tranh vẫn giữ vai trò chủ
đạo. Khi cuộc chiến lùi xa, đề tài chiến tranh không còn là mối quan tâm hàng
nguon tai.lieu . vn