Xem mẫu
- Thực trang và phương hướng phát triển
sản xuất các loại cây ăn trái đến 2015
- MỤC LỤC
I. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH SẢN XUẤT................................................................ 3
II. MỘT SỐ THÀNH TỰC VỀ PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT RAU QUẢ..................... 5
2.1. NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC .................................................................... 5
2.2. VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT RAU QUẢ .................................. 7
III. MỘT SỐ HẠN CHẾ VỀ TÌNH HÌNH SẢN XUẤT RAU QUẢ CỦA VIỆT NAM
...................................................................................................................................... 15
3.1. MỘT SỐ HẠN CHẾ VỀ SẢN XUẤT .................................................................. 15
3.2. NHỮNG TỒN TẠI ............................................................................................... 16
3.3 Nguyên nhân của những tồn tại và những vấn đề đặt ra ..................................... 19
IV. MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT RAU QUẢ
THỜI KỲ ĐẾN NĂM 2015 ......................................................................................... 23
4.1.1. Chính sách về chuyển dịch cơ cấu sản xuất, đất đai, khuyến nông ................. 24
4.1.3. Xây dựng thí điểm các mô hình Trung tâm sản xuất và xuất khẩu rau, hoa,
quả ............................................................................................................................... 30
4.1.4 Chính sách liên kết trong sản xuất theo mô hình .............................................. 31
Kiến nghị của Bộ Thương mại về một số tỉnh về phát triển sản xuất rau quả.......... 36
- Thực trạng và phương hướng phát triển sản xuất các loại cây
ăn trái đến năm 2015
2006, Trung tâm Thông tin Thương mại
Phát huy lợi thế về khí hậu, thổ nhưỡng ở một nước nhiệt đới, các tỉnh tại Việt Nam
đã hình thành các vùng nguyên liệu trái cây khá tập trung phục vụ cho chế biến
công nghiệp và tiêu dùng. Đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long có diện tích
trồng cây ăn trái lớn nhất, chiếm khoảng 36,5% diện tích cả nước. Tổng lượng
giống cây ăn trái các tỉnh ĐBSCL sản xuất bình quân trong vài năm gần đây vào
khoảng 26 đến 27 triệu cây/năm. Số lượng giống cây ăn trái này được lưu thông
khắp cả nước kể cả sang một số nước láng giềng.
Cả nước hiện có khoảng 765.000 ha cây ăn trái, sản lượng hơn 6,5 triệu tấn với những
loại trái cây chủ yếu như: dứa, chuối, cam, quýt, bưởi, xoài, thanh long, vải thiều, nhãn,
chôm chôm, sầu riêng. Kim ngạch xuất khẩu trái cây trong những năm gần đây dao động
ở khoảng 150 đến 180 triệu USD/năm. Tuy nhiên, các loại cây ăn trái đang trồng hầu hết
đều cho năng suất không cao, chất lượng kém (không đẹp, kích cỡ không đều, vị không
đặc trưng), giá thành cao, nên khả năng cạnh tranh thấp. Điều này dẫn tới cây ăn trái
nước ta đang đứng trước thách thức lớn khi hội nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Theo dự báo của Tổ chức Nông – lương thế giới (FAO), nhu cầu tiêu thụ rau quả trên thị
trường thế giới hàng năm tăng khoảng 3,6%, trong khi đó thì khả năng tăng trưởng sản
xuất chỉ là 2,6% nên thị trường thế giới đối với mặt hàng rau quả luôn ở t ình trạng cung
không đủ cầu, dễ tiêu thụ và giá cả luôn trong tình trạng tăng. Các nước càng phát triển
công nghiệp thì nhu cầu nhập khẩu rau lại càng tăng, đời sống càng được nâng cao thì
nhu cầu đối với các loại hoa tươi càng tăng. Có thể khẳng định rằng thị trường thế giới
đối với rau quả là rất có triển vọng.
I. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH SẢN XUẤT
Diện tích cây ăn quả cả nước trong thời gian qua tăng khá nhanh, năm 2005 đạt 766,9
ngàn ha (so với năm 1999 tăng thêm ngàn ha, tốc độ tăng bình quân là 8,5%/năm), cho
sản lượng 6,5 triệu tấn (trong đó chuối có sản lượng lớn nhất với khoảng 1,4 triệu tấn,
tiếp đến cây có múi: 800 ngàn tấn, nhãn: 590 ngàn t ấn). Vùng Đồng bằng sông Cửu Long
có diện tích cây ăn quả lớn nhất (262,1 ngàn ha), sản lượng đạt 2,93 triệu tấn (chiếm
35,1% về diện tích và 46,1% về sản lượng).
Do đa dạng về sinh thái nên chủng loại cây ăn quả của nước ta rất đa dạng, có tới trên 30
loại cây ăn quả khác nhau, thuộc 3 nhóm là: cây ăn quả nhiệt đới (chuối, dứa, xoài…), á
nhiệt đới (cam, quýt, vải, nhãn…) và ôn đới (mận, lê…). Một trong các nhóm cây ăn quả
lớn nhất và phát triển mạnh nhất là nhãn, vải và chôm chôm. Diện tích của các loại câ y
này chiếm 26% tổng diện tích cây ăn quả. Tiếp theo đó là chuối, chiếm khoảng 19%.
- Trên địa bàn cả nước, bước đầu đã hình thành các vùng trồng cây ăn quả khá tập trung,
cho sản lượng hàng hoá lớn; Một số vùng cây ăn quả tập trung điển hình như sau:
+ Vải thiều: vùng vải tập trung lớn nhất cả nước là Bắc Giang (chủ yếu ở 3 huyện Lục
Ngạn, Lục Nam và Lạng Giang), có diện tích 35,1 ngàn ha, sản lượng đạt 120,1 ngàn tấn.
Tiếp theo là Hải Dương (tập trung ở 2 huyện Thanh Hà và Chí Linh) với diện tích 14
ngàn ha, sản lượng 36,4 ngàn tấn.
+ Cam sành: được trồng tập trung ở ĐBSCL, với diện tích 28,7 ng àn ha, cho sản lượng
trên 200 ngàn t ấn. Địa phương có sản lượng lớn nhất là tỉnh Vĩnh Long: năm 2005 cho
sản lượng trên 47 ngàn tấn. Tiếp theo là các tỉnh Bến Tre (45 ngàn tấn) và Tiền Giang (42
ngàn tấn). Trên vùng Trung du miền núi phía Bắc, cây cam sành cùng được trồng khá tập
trung ở tỉnh Hà Giang, tuy nhiên, sản lượng mới đạt gần 20 ngàn tấn.
+ Chôm chôm: cây chôm chôm được trồng nhiều ở miền Đông nam bộ, với diện tích 14,2
ngàn ha, sản lượng xấp xỉ 100 ngàn tấn (chiếm 40% diện tích và 61,54% sản lượng chôm
chôm cả nước). Địa phương có diện tích chôm chôm tập trung lớn nhất là Đồng Nai (11,4
ngàn ha), tiếp theo đó là Bến Tre (4,2 ngàn ha).
+ Thanh long: được trồng tập trung chủ yếu ở Bình Thuận (diện tích khoảng 5 ng àn ha,
sản lượng gần 90 ngàn tấn, chiếm 70 % diện tích và 78,6% về sản lượng thanh long cả
nước). Tiếp theo là Tiền Giang, có 2 ngàn ha. Thanh long là loại trái cây có kim ngạch
xuất khẩu lớn nhất so với các loại quả khác.
+ Bưởi: Việt Nam có nhiều giống bưởi ngon, được người tiêu dùng đánh giá cao như
bưởi Năm roi, Da xanh, Phúc Trạch, Thanh Trà, Diễn, Đoan Hùng…Tuy nhiên, chỉ có
bưởi Năm Roi là có sản lượng mang ý nghĩa hàng hoá lớn. Tổng diện tích bưởi Năm Roi
là 9,2 ngàn ha, phân bố chính ở tỉnh Vĩnh Long (diện tích 4,5 ngàn ha cho sản lượng 31,3
ngàn tấn, chiếm 48,6% về diện tích và 54,3% về sản lượng bưởi Năm Roi cả nước); trong
đó tập trung ở huyện Bình Minh: 3,4 ngàn ha đạt sản lượng gần 30 ngàn tấn. Tiếp theo là
tỉnh Hậu Giang (1,3 ngàn ha).
+ Xoài: cũng là loại cây trồng có tỷ trọng diện tích lớn của Việt Nam. Hiện có nhiều
giống xoài đang được trồng ở nước ta; giống có chất lượng cao và được trồng tập trung là
giống xoài cát Hoà Lộc. Xoài cát Hoà Lộc được phân bố chính dọc theo sông Tiền (cách
cầu Mỹ Thuận khoảng 20-25 km) với diện tích 4,4 ngàn ha đạt sản lượng 22,6 ngàn tấn.
Diện tích xoài Hoà Lộc tập trung chủ yếu ở tỉnh Tiền Giang (diện tích 1,6 ngàn ha, sản
lượng 10,1 ngàn tấn); tiếp theo là tỉnh Đồng Tháp (873 ha, sản lượng 4,3 ngàn tấn).
+ Măng cụt: là loại trái cây nhiệt đới rất ngon và bổ. Măng cụt phân bố ở 2 vùng
ĐBBSCL và ĐNB, trong đó trồng chủ yếu ở ĐBSCL với tổng diện tích khoảng 4,9 ngàn
ha, cho sản lượng khoảng 4,5 ngàn tấn. Tỉnh Bến Tre là nơi có diện tích tập trung lớn
nhất: 4,2 ngàn ha (chiếm 76,8% diện tích cả nước). Tuy măng cụt là sản phẩm rất được
giá trên thị trường nhưng việc mở rộng diện tích loại cây này hiện nay đang gặp nhiều trở
ngại do thời gian kiến thiết cơ bản dài (5-6 năm), là cây thân gỗ lớn, chiếm nhiều diện
tích đất và chỉ thích hợp với đất mầu ở các cù lao.
- + Dứa: đây là một trong 3 loại cây ăn quả chủ đạo được khuyến khích đầu t ư phát triển
trong thời gian vừa qua nhằm phục vụ xuất khẩu. Các giống được sử dụng chính bao gồm
giống Queen và Cayene; trong đó giống Cayene là loại có năng suất cao, thích hợp để chế
biến (nước quả cô đặc, nước dứa tự nhiên…). Các địa phương có diện tích dứa tập trung
lớn là Tiền Giang (3,7 ngàn ha), Kiên Giang (3,3 ngàn ha); Nghệ An (3,1 ngàn ha), Ninh
Bình (3,0 ngàn ha) và Quảng Nam (2,7 ngàn ha).
Ngoài ra, còn có một số loại cây ăn quả khác cũng có khả năng xuất khẩu t ươi là: Sầu
riêng cơm vàng hạt lép, Vú sữa Lò rèn, Nhãn xuồng cơm vàng... Tuy nhiên, những loại
này có diện tích và sản lượng còn rất khiêm tốn (ví dụ diện tích của Nhãn xuồng cơm
vàng mới chỉ có 200 ha, tập trung ở Bà Rịa-Vũng Tầu), không đủ tiêu thụ trong nước và
giá bán trong nước thậm chí còn cao hơn giá xuất khẩu..
Về chủng loại các trái cây có lợi thế cạnh tranh, Bộ Nông nghiệp và PTNT xác định 11
loại trái cây có lợi thế cạnh tranh, bao gồm: Thanh long, Vú sữa, Măng cụt, Cây có múi
(Bưởi, Cam sành), Xoài, Sầu riêng, Dứa, Vải, Nhãn, Dừa và Đu đủ
Theo đề án qui hoạch chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản cả nước đến
năm 2010 và tầm nhìn 2020 mới nhất của Thủ tướng Chính phủ thì trong đó, đối với cây
ăn quả Chính phủ định hướng: Trong những năm tới mở rộng diện tích 11 loại cây ăn quả
có lợi thế; riêng đối với nhãn, vải chỉ trồng mới bằng các giống rải vụ, chất lượng cao và
cải tạo vườn tạp. Diện tích cây ăn quả đến năm 2010 đạt 1 triệu ha, tầm nhìn năm 2020
khoảng 1,3 triệu ha. Bố trí chủ yếu ở Trung du miền núi phía Bắc, Đồng bằng Sông Cửu
Long, Đông nam bộ, Đồng bằng Sông Hồng và một số vùng khác có đủ điều kiện.
Rà soát chương trình phát triển rau quả, hoa cây cảnh đến 2010 và qui hoạch 11 loại cây
ăn quả chủ lực xuất khẩu (bao gồm: Cam sành, Bưởi Năm Roi, Bưởi da xanh, Xoài cát
Hoà Lộc, Sầu riêng, Măng cụt, Thanh long, Vú sữa Lò rèn, Vải, Nhãn xuồng cơm vàng
và Dứa.
II. MỘT SỐ THÀNH TỰC VỀ PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT RAU QUẢ
2.1. NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC
Các chính sách của Đảng và Nhà nước đã đóng góp một phần quan trọng vào thành tựu
của đất nước nói chung, lĩnh vực nông nghiệp nói riêng. Nhìn chung, những chính sách
khuyến khích phát triển sản xuất đã tác động tích cực đến ngành nông nghiệp, trong đó có
ngành hàng rau quả và tạo nên những bước biến đổi lớn. Có thể sơ bộ đánh giá những
thành tựu đạt được đối với một số chính sách như sau:
Chính sách về đất đai có tác động lớn đến giải phóng sức sản xuất đồng thời phát huy
quyền làm chủ trong phát triển sản xuất, kinh doanh; khuyến khích người sản xuất đầu tư
phát triển lâu dài, phát huy hiệu quả sử dụng đất đai; thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ
cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng khai thác lợi thế sinh thái từng vùng, từng
bước hình thành các vùng sản xuất rau và cây ăn quả tập trung.
- Các Hợp tác xã được chuyển đổi hình thức theo Luật HTX mới, tập trung chủ yếu vào vai
trò cung ứng dịch vụ đầu vào và đầu ra cho sản xuất nông nghiệp. Từ khi có Luật Doanh
nghiệp, môi trường sản xuất, kinh doanh rộng mở, thông thoáng hơn đối với các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Các doanh nghiệp ngành rau quả được cạnh tranh
bình đẳng trong sản xuất, kinh doanh, chủ động t ìm tòi nghiên cứu để nâng cao uy tín và
chất lượng hàng hoá.
Nghị quyết 09 của Chính phủ đã đề ra phương hướng phát triển lâu dài và tích cực đối
với kinh tế đất nước, trong đó có lĩnh vực nông nghiệp; tạo bước chuyển dịch lớn lao
trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn, sản xuất từng bước được điều chỉnh định
hướng thị trường, tăng nhanh nguồn hàng chất lượng cao cho xuất khẩu. Nhiều địa
phương đã chuyển đổi diện tích những loại cây trồng kém hiệu quả sang sản xuất rau,
quả, hình thành được những vùng chuyên canh lớn với những loại rau quả đặc sản như:
vùng rau Vân Nội (Hà Nội), vùng rau, hoa Đà Lạt (Lâm Đồng), buởi Phúc Trạch, bưởi
Năm Roi, xoài cát Hoà Lộc, vú sữa Lò Rèn (Vĩnh Kim)...
Kinh tế trang trại là một phần không thể thiếu trong cơ cấu kinh tế. Nghị quyết
03/2000/NQ-CP đã có tác dụng nhất định, trang trại tăng lên rõ rệt cả về số lượng và quy
mô, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo nên những vùng sản xuất hàng hóa tập
trung và thâm canh cao. Đã hình thành nhiều trang trại sản xuất cây ăn quả lâu năm phù
hợp với từng vùng sinh thái, tạo thêm việc làm và tăng thu nhập cho người lao động.
Các chính sách về tín dụng đầu t ư phát triển cơ sở hạ tầng đã khuyến khích các doanh
nghiệp tích cực đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng và tính cạnh
tranh của nông sản hàng hoá, trong đó có rau quả. Việc ban hành Quy chế tín dụng hỗ trợ
xuất khẩu đã khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tìm tòi nghiên
cứu sản xuất các mặt hàng mới, đẩy mạnh các hoạt động sản xuất, chế biến hàng xuất
khẩu…
Nhờ có chính sách khuyến khích của Nhà nước, hoạt động nghiên cứu ứng dụng và
chuyển giao khoa học công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp nói chung, ngành rau quả
nói riêng đã đạt được kết quả khả quan, hỗ trợ tích cực cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp, nông thôn. Nhất là công nghệ sinh học đã đạt được những tiến bộ bước
đầu trong việc tuyển chọn, lai tạo một số giống cây ăn quả, rau, đậu có chất lượng và
năng suất cao, chuyển giao quy trình sản xuất các loại giống sạch bệnh...
Việc thực hiện Chương trình Giống trong những năm qua đã tạo nên sự chuyển biến cơ
bản trong việc tổ chức, quản lý, chọn tạo, nhân giống và sản xuất giống. Việc ban hành
Pháp lệnh giống cây trồng đã tạo sơ sở pháp lý để tăng cường hiệu quả quản lý giống. Hệ
thống quản lý chất lượng và tổ chức thanh tra, kiểm tra giống đã được củng cố, tăng
cường hơn trước. Đến nay, hầu hết các tỉnh, thành phố đều có Trung tâm giống cây trồng,
vật nuôi; 40% các tỉnh, thành đã thực hiện cơ giới hoá khâu sấy, bảo quản và đóng gói
hạt giống... Từ năm 2000 đến nay, nhiều loại giống được chọn tạo, đưa tỷ lệ áp dụng
giống tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp lên khoảng 30% đối với cây ăn quả và
50% đối với rau, góp phần tăng năng suất, sản lượng và hiệu quả sản xuất.
- Hoạt động khuyến nông ngày càng đa dạng và phong phú, bám sát các chương trình nông
nghiệp trọng điểm, góp phần tích cực trong việc chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, đ ào tạo
nâng cao các kỹ năng về sản xuất và nhu cầu thị trường cho bà con nông dân; tạo được
mối liên kết chặt chẽ giữa các đoàn thể xã hội, cơ quan nghiên cứu, phương tiện thông tin
đại chúng, các doanh nghiệp, hiệp hội... với ng ười sản xuất, trên cơ sở đó từng bước hoàn
thiện nội dung, phương pháp và chính sách khuyến nông.
Chính phủ chủ trương khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế ký
kết hợp đồng tiêu thụ nông sản hàng hoá cho nông dân theo Quyết định 80/2002/QĐ-
TTg, đã mở ra hướng đi đúng đắn, từng bước làm thay đổi nhận thức của các doanh
nghiệp và hộ nông dân trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản; thực sự gắn kết được 4
nhà (Nhà nước, nhà khoa học, nhà nông, nhà doanh nghiệp), tạo thêm nguồn lực để phát
triển sản xuất hàng hoá nông sản theo hướng thị trường, đảm bảo chất lượng và hiệu quả
kinh tế. Nhiều doanh nghiệp đã triển khai thực hiện tốt việc ký kết hợp đồng sản xuất,
tiêu thụ nông sản với nông dân; bước đầu đã gắn được trách nhiệm, quyền lợi của mỗi
bên trong việc thực hiện hợp đồng, gắn giữa sản xuất và chế biến, tạo ra vùng nguyên liệu
ổn định cho chế biến xuất khẩu. Đối với ngành hàng rau, quả, mô hình này đã tạo được
kết quả khá khả quan: trong các năm 2002 – 2004, chỉ riêng đối với cây dứa Tổng công
ty Rau quả và nông sản Việt Nam đã ký 4.924 hợp đồng với nông dân trồng 11.605 ha và
đã ứng vốn đầu tư 56 tỷ đồng. Hầu hết các loại nguyên liệu cung cấp cho các nhà máy
chế biến đều được thực hiện thông qua hợp đồng với các hình thức phù hợp với từng
chủng loại, từng thời vụ, từng địa phương. Một số doanh nghiệp tư nhân và Công ty có
vốn đầu tư nước ngoài cũng tích cực tham gia ký kết hợp đồng tiêu thụ rau, hoa cao cấp
với các hộ sản xuất.
2.2. VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT RAU QUẢ
Xác định được vai trò và tiềm năng phát triển của ngành hàng rau quả trong việc tạo công
ăn việc làm, nâng cao thu nhập và đời sống cho nông dân, góp phần tăng kim ngạch xuất
khẩu nông lâm sản, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 182/1999/QĐ-TTg, ngày
03/9/1999 phê duyệt Đề án phát triển rau, quả và hoa, cây cảnh thời kỳ 1999 - 2010 làm
định hướng cho việc phát triển ngành hàng rau quả. Chương trình phát triển rau quả đã
đạt được những thành tựu nhất định, diện tích tăng nhanh, chủng loại đa dạng, phong
phú, ngày càng đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng trong nước, xuất khẩu rau quả từng
bước được mở rộng…
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có chính sách ưu đãi riêng cho ngành hàng này. Sản xuất,
chế biến và tiêu thụ rau, quả chỉ được hưởng những chính sách dành cho ngành nông
nghiệp nói chung. Cụ thể một số chính sách như sau:
2.2.1.Chính sách đất đai
Luật Đất đai ban hành năm 1993 trao quyền sử dụng đất cho nông dân thông qua các hình
thức giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; quy định quyền và nghĩa vụ
của người sử dụng đất, trong đó mở rộng các quyền (chuyển nhượng quyền sử dụng đất,
thế chấp…) được nông dân hết sức hoan nghênh, tạo động lực lớn trong phát triển sản
- xuất. Với việc sửa đổi vào các năm 2001 và năm 2003, Luật Đất đai đã tạo hành lang
pháp lý ngày càng thông thoáng, t ạo điều kiện cho việc tập trung tích tụ đất cho sản xuất
trang trại, sản xuất các loại cây lâu năm và sản xuất trên quy mô lớn.
Nhà nước có những chính sách nhằm tạo điều kiện cho người trực tiếp sản xuất nông
nghiệp có đất để sản xuất: giao đất nông nghiệp cho nông dân sử dụng ổn định lâu d ài
vào mục đích sản xuất nông nghiệp để khuyến khích phát huy hiệu quả sử dụng đất đai;
đơn giản hoá các thủ tục cho thuê đất để phát triển công nghiệp bảo quản, chế biến nông
sản và ngành nghề ở nông thôn; tạo việc làm cho lao động ở nông thôn phù hợp với quá
trình chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất và chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông
thôn. Chính sách “dồn điền, đổi thửa” cho phép xử lý vấn đề đất đai manh mún, một
trong những khó khăn chủ yếu đối với việc phát triển sản xuất nông nghiệp quy mô lớn.
Việc quy hoạch, chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất đai được thực hiện theo hướng phát triển
các vùng sản xuất chuyên canh, khai thác được lợi thế so sánh của từng vùng, bám sát
nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu, đạt hiệu quả cao về kinh tế, xã hội và bảo vệ
môi trường.
Với những thay đổi về chính sách đất đai, nông dân được quyền tự quyết định sản xuất,
chuyển đổi từ những cây trồng kém hiệu quả sang trồng rau quả. Hơn nữa, nhờ chính
sách giao đất dài hạn 50 năm cho cây ăn quả, ng ười nông dân sẵn sàng đầu tư hiệu quả
vào mảnh đất của mình.
2.2.2 Chính sách đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng
Để thúc đẩy kinh tế nông nghiệp, nông thôn phát triển trong điều kiện nguồn Ngân sách
Nhà nước có hạn, Chính phủ đã cố gắng bố trí vốn ngân sách đồng thời có chính sách
khuyến khích các thành phần kinh tế trong nước và các tổ chức quốc tế đầu t ư vào lĩnh
vực nông nghiệp, nông thôn.
Nhiều chính sách khuyến khích đầu t ư phát triển cơ sở hạ tầng sản xuất, kinh doanh nông
sản đã được ban hành. Nghị quyết số 09/2000/NQ của Chính phủ ban hành ngày
15/6/2000 về Một số chủ trương chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản
phẩm đã nhấn mạnh: Cần huy động sức dân và tăng vốn ngân sách Nhà nước hỗ trợ đầu
tư phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ nông nghiệp; Quỹ Hỗ trợ phát triển hỗ trợ đầu t ư với
lãi suất ưu đãi đối với các dự án sản xuất, chế biến trong nông nghiệp khó thu hồi vốn
nhanh.
Các nguồn vốn từ Ngân sách và các thành phần kinh tế được dành để đầu tư: Các công
trình thuỷ lợi phục vụ tưới tiêu cho các cây trồng có hiệu quả xuất khẩu cao; Hỗ trợ đầu
tư cơ sở hạ tầng để khuyến khích phát triển kinh tế trang trại và khuyến khích các doanh
nghiệp ký kết hợp đồng sản xuất, tiêu thụ với người sản xuất, gắn kết sản xuất - chế biến
với tiêu thụ nông sản; Ngân sách hỗ trợ một phần về đầu t ư xây dựng cơ sở hạ tầng
(đường giao thông, thuỷ lợi, điện.. .), hệ thống chợ bán buôn, kho bảo quản, mạng lưới
thông tin thị trường, các cơ sở kiểm định chất lượng nông sản hàng hoá cho các vùng sản
xuất nguyên liệu tập trung gắn với cơ sở chế biến, tiêu thụ nông sản hàng hoá có hợp
- đồng tiêu thụ theo QĐ 80 của Chính phủ; Ngân sách đầu t ư thực hiện các chương trình,
dự án (Xoá đói giảm nghèo, 135, đường giao thông nông thôn, phục hồi nâng cấp các
công trình thuỷ lợi hiện có ở các vùng, an toàn hồ chứa nước, kiên cố hoá kênh mương,
kiểm soát lũ…) nhằm tạo động lực thúc đẩy sản xuất nông sản, trong đó có sản xuất rau
quả.
Ngoài ra, trong các chính sách thu hút đầu tư nước ngoài, phát triển nông nghiệp và nông
thôn luôn được coi là lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu t ư. Các chính sách này ngày
càng được hoàn thiện theo hướng tạo môi trường thuận lợi để thu hút có hiệu quả nguồn
vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.
Về tín dụng đầu tư của Nhà nước, có chính sách hỗ trợ đối với các dự án đầu t ư phát triển
sản xuất của các thành phần kinh tế, các lĩnh vực, các chương trình kinh tế lớn và các
vùng khó khăn cần khuyến khích đầu t ư… (Nghị định số 43/1999/NĐ-CP, ngày
26/6/1999).
Chính sách khuyến khích đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp cũng có thể thấy rõ
trong Quyết định số 133/2001/QĐ-TTg ngày 10/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc
ban hành Quy chế tín dụng hỗ trợ xuất khẩu. Theo đó, tín dụng hỗ trợ xuất khẩu là ưu đãi
cuả Nhà nước nhằm hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, cá nhân
thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu.
- Về Thuế thu nhập doanh nghiệp:
Nhà nước có những chính sách khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi ngành nghề,
trong đó có sản xuất rau quả, đầu tư phát triển sản xuất. Bộ Tài chính đã ban hành Thông
tư số 18/2002/TT-BTC hướng dẫn thi hành Nghị định số 30/1998/NĐ-CP và Nghị định
số 26/2001/NĐ-CP của Chính phủ về Luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Theo đó, các cơ
sở sản xuất thuộc lĩnh vực ngành nghề được ưu đãi đầu tư (như trồng cây ăn quả lâu năm
trên đất hoang hoá đồi núi trọc, chế biến bảo quản rau quả, ứng dụng công nghệ trong sản
xuất giống cây…) được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 2 năm đầu kể từ khi có
thu nhập chịu thuế và được giảm 50% số thuế phải nộp trong 3 nă m tiếp theo. Cơ sở sản
xuất mới thành lập thuộc các lĩnh vực ngành nghề ưu tiên đầu tư ở các tỉnh miền núi được
miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 4 năm đầu và giảm 50% số thuế phải nộp trong
thời hạn từ 7 đến 9 năm; nếu phát sinh lỗ, doanh nghiệp còn được chuyển lỗ trong vòng 5
năm.
- Về Thuế VAT:
Để khuyến khích tiêu thụ nông sản, các doanh nghiệp được miễn thuế VAT và thuế thu
nhập doanh nghiệp trên khâu lưu thông theo Thông tư số 91/2000/TT-BTC ngày
06/9/2000 của Bộ Tài chính về hướng dẫn thi hành Nghị quyết 09/2000/NQ-CP ngày
15/6/2000 của Chính phủ.
- - Về Thuế sử dụng đất nông nghiệp:
Nghị định số 129/2003/NĐ-CP ngày 03/11/2003 của Chính phủ đã quy định chi tiết thi
hành Nghị quyết số 15/2003/QH11,ngày 17/6/2003 của Quốc hội về miễn, giảm thuế sử
dụng đất nông nghiệp. Các hộ nghèo, hộ sản xuất nông nghiệp ở các xã đặc biệt khó khăn
được miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp trên toàn bộ diện tích đất sản xuất nông nghiệp;
người nông dân được Nhà nước giao đất sản xuất nông nghiệp, xã viên hợp tác xã… nhận
đất giao khoán ổn định để sản xuất nông nghiệp đều được miễn thuế sử dụng đất nông
nghiệp trong hạn mức; người nông dân được quyền đóng góp ruộng đất của mình để
thành lập Hợp tác xã sản xuất nông nghiệp theo Luật Hợp tác xã.
- Các chính sách tài chính khác:
Với Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg ngày 24/6/2002 của Thủ tướng Chính phủ về một số
chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng, người sản xuất
và kinh doanh nông sản, trong đó có rau quả, được đảm bảo đủ nhu cầu vay vốn và tạo
thuận lợi về thủ tục vay vốn ngân hàng (thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay, vay
vốn bằng tín chấp, vay theo dự án sản xuất kinh doanh có hiệu quả)…
Để đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn, Nhà nước luôn quan
tâm ưu tiên cung cấp tín dụng đầu tư cho các địa phương. Ngành Ngân hàng có nhiều cải
tiến nhằm tạo thuận lợi về cho vay đối với người sản xuất và các doanh nghiệp ở nông
thôn, tăng hỗ trợ thông qua Ngân hàng chính sách xã hội để giúp người nghèo và các đối
tượng chính sách đầu tư phát triển sản xuất, cải thiện đời sống.
2.2.4 Chính sách về áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ, các chương trình giống, an
toàn vệ sinh thực phẩm và công tác khuyến nông trong sản xuất trồng trọt, thu
hoạch và bảo quản
Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành TW Đảng khóa IX đã nhấn mạnh: “Tăng cường
các hoạt động khuyến nông,… bảo vệ thực vật và các dịch vụ kỹ thuật khác ở nông thôn.
Chuyển giao nhanh và ứng dụng khoa học, công nghệ, nhất là công nghệ sinh học vào
sản xuất nông nghiệp; chú trọ ng các khâu giống, kỹ thuật canh tác, nuôi trồng, công nghệ
sau thu hoạch và công nghệ chế biến”.
Việc ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất được Nhà nước khuyến khích thông qua
việc ban hành Luật Khuyến khích đầu t ư trong nước và Luật Khoa học và Công nghệ.
Nhà nước cam kết đối xử bình đẳng và tạo thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân đầu t ư xây
dựng dây chuyền sản xuất, mở rộng quy mô, đổi mới công nghệ nâng cao năng lực sản
xuất, chuyển dịch cơ cấu, đa dạng hoá ngành nghề, sản phẩm.
Để hỗ trợ đầu tư đổi mới công nghệ, Nhà nước tạo thuận lợi cho doanh nghiệp có hoạt
động ứng dụng khoa học công nghệ như: tạo điều kiện về mặt bằng sản xuất, kinh doanh
(được miễn tiền thuê đất và thuế sử dụng đất với thời hạn quy định cụ thể tuỳ theo từng
địa bàn); được miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp; được quỹ hỗ trợ đầu t ư xem xét
cho vay tín dụng trung hạn và dài hạn tối đa là 70% mức vốn đầu tư tại Quỹ Hỗ trợ phát
- triển, Quỹ Hỗ trợ xuất khẩu hoặc Quỹ Hỗ trợ Phát triển Khoa học và Công nghệ hoặc trợ
cấp một phần lãi suất đối với các khoản vay từ các tổ chức tín dụng;… Các doanh nghiệp
có dự án đầu tư xây dựng dây chuyền sản xuất mới, mở rộng quy mô, đổi mới công nghệ
được hưởng các ưu đãi: miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho phần thu nhập tăng thêm
của năm đầu và giảm 50% số thuế phải nộp 4 năm tiếp theo; miễn thuế nhập khẩu máy
móc, thiết bị phục vụ trực tiếp các dự án chuyển giao công nghệ mà trong nước chưa sản
xuất được… Đặc biệt, Nhà nước có chính sách khuyến khích việc ứng dụng công nghệ
cao và sản xuất sản phẩm công nghệ cao.
Chính phủ còn ban hành một số văn bản dưới Luật nhằm cụ thể hoá các chính sách liên
quan đến đổi mới công nghệ: Nghị định 43/1999/NĐ-CP về Tín dụng đầu t ư phát triển
quy định đối tượng cho vay là các dự án đầu tư phát triển có khả năng thu hồi vốn (bao
gồm cả cho vay đổi mới thiết bị công nghệ mở rộng sản xuất) thuộc các thành phần kinh
tế trong lĩnh vực xây dựng cơ sở bảo quản, chế biến nông sản; Nghị định 119/1999/NĐ-
CP đưa ra một số chính sách và cơ chế tài chính khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư
vào hoạt động khoa học và công nghệ nhằm cải tiến quy tr ình công nghệ, nâng cao chất
lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất, kinh doanh;…
Những năm gần đây, Nhà nước có chính sách ưu tiên và biện pháp thúc đẩy việc ứng
dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ trong nông nghiệp và phát
triển nông thôn. Nghị quyết 09 của Chính phủ khuyến khích việc ứng dụng tiến bộ khoa
học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp để nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành
sản phẩm, đáp ứng nhu cầu và thị hiếu tiêu dùng. Chất lượng nông sản được nâng cao
thông qua các chương trình nâng cấp giống cây trồng, vật nuôi, công nghệ sinh học,
khuyến nông và nghiên cứu các quy trình kỹ thuật tiên tiến áp dụng vào sản xuất, bảo
quản, chế biến..., góp phần tăng t ính cạnh tranh của nông sản hàng hoá.
Về Khuyến nông, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 13/CP ngày 02/03/1993 quy đ ịnh
về công tác khuyến nông và Nghị định số 56/2005/NS-CP ngày 26/4/2005 về tổ chức
khuyến nông, nhằm xã hội hoá hoạt động khuyến nông, tạo sự liên kết chặt chẽ giữa các
nhà quản lý, khoa học, doanh nghiệp với người sản xuất và giữa người sản xuất với nhau
để nâng cao nhận thức về khoa học kỹ thuật sản xuất, kỹ năng quản lý và kinh doanh...
tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập cho nông dân,
góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Đến
nay, hệ thống khuyến nông được kiện toàn từ TƯ đến địa phương, 100% số tỉnh, thành
phố thành lập Trung tâm khuyến nông, 70% số huyện có trạm khuyến nông và hơn 80%
số xã có khuyến nông viên cơ sở.
Về phát triển giống cây trồng: Đối với phát triển kinh tế nông nghiệp nói chung, ngành
hàng rau quả nói riêng, một trong những hướng tác động chủ yếu của khoa học và công
nghệ là ứng dụng công nghệ sinh học trong phát triển các loại giống cây trồng, vật nuôi
có năng suất, chất lượng và sức chống chịu bệnh cao, không thoái hoá, không làm tổn hại
đến đa dạng sinh học...
Đứng trước yêu cầu cấp thiết nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả sản xuất nông
nghiệp đồng thời tăng thu nhập cho nông dân, Chính phủ đã phê duyệt Chương trình
- Giống cây trồng, vật nuôi và giống cây lâm nghiệp thời kỳ 2000-2005 (Quyết định số
225/1999/QĐ-TTg, ngày 10/12/1999. Ngày 20/01/2006, Chính phủ ban hành Quyết định
số 17/2006/QĐ-TTg về việc tiếp tục thực hiện Quyết định số 225 về Chương trình Giống
cây trồng, vật nuôi và giống cây lâm nghiệp đến năm 2010 với mục tiêu: Nâng t ỷ lệ sử
dụng giống tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất lên trên 70% để phục vụ xuất khẩu, thay thế
nhập khẩu nông sản; Nâng cao năng lực chọn tạo giống, áp dụng công nghệ sản xuất
giống để tạo ra nhiều giống mới có đặc tính tốt, năng suất và chất lượng cao; Khuyến
khích mọi thành phần kinh tế đầu tư vào nghiên cứu, chọn tạo, sản xuất giống nhằm ho àn
thiện hệ thống sản xuất và cung ứng giống theo hướng hiện đại hóa và phù hợp với kinh
tế thị trường.
Việc thực hiện Chương trình Giống được hưởng nhiều ưu đãi như:
Về đầu tư, Ngân sách Nhà nước đầu tư cho: Công tác nghiên cứu khoa học về giống; Quy
hoạch, xây dựng cơ sở vật chất, thu thập và bảo tồn giống cây đầu dòng...; Nhập nội
nguồn gen, giống mới có năng suất, chất lượng mà trong nước chưa đáp ứng được; Nhập
công nghệ mới, tiên tiến về sản xuất giống; Hoàn thiện công nghệ và xây dựng mô hình
trình diễn về công nghệ sản xuất giống; Tăng cường quản lý chất lượng giống; Hỗ trợ
một phần cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng các vùng sản xuất giống tập trung áp dụng
công nghệ cao, sản xuất giống gốc.
Về tín dụng và thuế: Các tổ chức và cá nhân đầu tư sản xuất giống được hưởng những ưu
đãi với mức cao nhất về các loại thuế và được ngành Ngân hàng tạo điều kiện thuận lợi
trong việc cho vay vốn; sản xuất giống gốc được vay vốn tín dụng đầu t ư phát triển của
Nhà nước. Việc đầu tư thiết bị cơ giới hoá và công nghiệp hoá sản xuất, chế biến giống
được vay vốn ngân hàng với lãi suất ưu đãi. Quỹ Hỗ trợ phát triển khoa học và công nghệ
Quốc gia và của các địa phương dành kinh phí cho các dự án thử nghiệm về sản xuất, chế
biến giống.
Về đất đai: Đất đai được sử dụng với mục đích nghiên cứu, thí nghiệm, thực nghiệm về
giống, sản xuất giống được hưởng mức ưu đãi cao nhất về thu tiền sử dụng đất hoặc tiền
thuê đất.
Công tác quản lý Nhà nước về giống ngày càng được tăng cường, Chính phủ đã ban hành
Pháp lệnh Giống cây trồng (năm 2004) và Nghị định hướng dẫn xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giống. Hệ thống quản lý chất lượng và tổ chức thanh tra, kiểm tra về
giống từ Trung ương đến địa phương không ngừng được củng cố: Bộ Nông nghiệp và
PTNT đã ban hành những quy tr ình, quy phạm, tiêu chuẩn, định mức và chuẩn hoá thiết
kế mẫu các hạng mục cho chương trình giống để sử dụng trong việc xây dựng, thẩm định,
phê duyệt và triển khai các dự án giống; nhiều địa phương đã tổ chức công tác kiểm tra
các cơ sở sản xuất và dịch vụ giống, ban hành quy định về quản lý giống trên địa bàn, cấp
giấy chứng nhận và chứng chỉ chất lượng giống; một số nơi đã xây dựng Trung tâm kiểm
định chất lượng giống; hoạt động bảo hộ giống cây trồng mới, quyền tác giả đã bắt đầu
được triển khai; chương trình khuyến nông tăng cường đào tạo, phổ cập kiến thức công
tác giống cho nông dân...
- Về Vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP)
Vệ sinh an toàn thực phẩm đã được Chính phủ xếp vào một trong 10 chương trình trọng
điểm quốc gia từ năm 1999. Năm 2003, Chính phủ công bố Pháp lệnh Vệ sinh an toàn
thực phẩm với mục đích bảo vệ tính mạng, sức khỏe của con người và tăng cường hiệu
lực quản lý Nhà nước về VSATTP. Nhà nước cam kết có chính sách và biện pháp để bảo
đảm VSATTP như: Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chính sách, quy hoạch, kế
hoạch về VSATTP; Tổ chức công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến kiến thức và pháp
luật về VSATTP; Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm
pháp luật về VSATTP; Khuyến khích các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực
phẩm áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến nhằm bảo đảm VSATTP theo
đúng tiêu chuẩn quốc tế... Người sản xuất, kinh doanh nông sản, thực phẩm phải chịu
trách nhiệm đối với sản phẩm do mình sản xuất, kinh doanh; không được có các hành vi
trái với quy định của pháp luật trong việc sản xuất, thu hoạch, chế biến, bảo quản, vận
chuyển, kinh doanh thực phẩm...
Quản lý, giám sát việc sử dụng thuốc BVTV trong sản xuất cây trồng nằm trong chương
trình đảm bảo VSATTP. Hệ thống chuyên ngành BVTV được tổ chức từ Trung ương đến
địa phương. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chịu trách nhiệm trước Chính phủ
về quản lý Nhà nước trong lĩnh vực này như: quy định và cấp giấy phép việc khảo
nghiệm và đăng ký lưu hành thuốc BVTV mới ở Việt Nam; công bố danh mục thuốc
BVTV được phép sử dụng, hạn chế sử dụng hoặc cấm sử dụng ở Việt Nam... Các địa
phương thực hiện việc quản lý Nhà nước và chỉ đạo hoạt động BVTV kết hợp với hoạt
động khuyến nông trên địa bàn. Thanh tra chuyên ngành về BVTV có trách nhiệm thanh
tra việc chấp hành pháp luật về phòng, trừ sinh vật gây hại, kiểm dịch thực vật, quản lý
thuốc BVTV và kiến nghị các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi vi phạm
pháp luật về BVTV... Pháp lệnh Bảo vệ và Kiểm dịch thực vật ban hành năm 2001 quy
định nghiêm cấm những hành vi sử dụng những biện pháp BVTV có khả năng gây nguy
hiểm cho người, sinh vật có ích và hủy hoại môi trường, hệ sinh thái; đưa những sản
phẩm có dư lượng thuốc BVTV quá giới hạn cho phép vào buôn bán, sử dụng...
Lĩnh vực này được các cấp, các ngành hết sức quan tâm. Hiện nay, có hai Trung tâm
kiểm định thuốc BVTV thuộc Cục BVTV đặt tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh để
kiểm tra dư lượng thuốc BVTV trên rau, quả tươi và một số nông sản khác. Chi cục
BVTV một số địa phương (như Hà Nội, Hải phòng, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng,
Lâm Đồng…), các Viện (BVTV, Nghiên cứu rau quả, Công nghệ sau thu hoạch, Khoa
học Nông nghiệp Việt Nam, Dinh dưỡng…), Tổng cục đo lường chất lượng, một số địa
phương (Hà Nội, Nha Trang, thành phố Hồ Chí Minh…) đều có các phòng kiểm nghiệm
kiểm tra dư lượng thuốc BVTV.
Do yêu cầu cấp thiết đảm bảo VSATTP trong sản xuất nông nghiệp, Bộ Nông nghiệp và
PTNT đã xây dựng Kế hoạch hành động quốc gia về VSATTP trong nông nghiệp đến
năm 2010 (CV số 1052/BNN-KHCN ngày 28/4/2006) với mục tiêu đẩy mạnh sản xuất
nông sản thực phẩm an toàn bằng cách áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ về giống,
chế phẩm sinh học, phân hữu cơ và quy trình tiên tiến vào sản xuất. Phấn đấu giảm một
cách cơ bản tồn dư hoá chất độc hại trong nông sản thực phẩm, đảm bảo an toàn cho
- người tiêu dùng, góp phần nâng cao chất lượng và tính cạnh tranh, đẩy mạnh xuất khẩu
hàng nông sản, trong đó có rau quả.
2.2.5. Các chính sách phát triển mối liên kết có hiệu quả giữa sản xuất và tiêu thụ
Luật Hợp tác xã (ban hành năm 1996, sửa đổi năm 2003) đã tạo cơ sở pháp lý và phát
huy vai trò của HTX trong việc phát triển nền kinh tế thị trường. Các HTX nông nghiệp
ngày càng vững mạnh, đời sống của xã viên được cải thiện, cơ sở vật chất của HTX ngày
một tăng cường. Đã hình thành những mối liên kết giữa các HTX với nhau, giữa HTX
với doanh nghiệp... trong sản xuất, mở rộng quy mô, tạo nguồn hàng phong phú cho thị
trường. Chính phủ cũng đã ban hành một số chính sách như: hỗ trợ kinh phí từ ngân sách
các cấp để bồi dưỡng, đào tạo cho các cán bộ quản lý và phụ trách chuyên môn kỹ thuật,
nghiệp vụ của HTX; ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp đối với phần thu nhập từ các
hoạt động dịch vụ phục vụ sản xuất, kinh doanh của xã viên HTX; hỗ trợ các HTX đầu tư
cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất; các tổ chức tín dụng (Ngân hàng thương mại, quỹ tín
dụng nhân dân, Ngân hàng Phát triển Việt Nam...) cho các HTX vay vốn để đầu t ư mới,
đầu tư nâng cấp, mở rộng năng lực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ... để tạo điều kiện thuận
lợi cho hoạt động của các HTX.
Luật Doanh nghiệp (ban hành năm 1999 và 2005) được coi là đòn bẩy quan trọng tạo
bước đột phá trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, nhất là đối với các doanh nghiệp vừa
và nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Doanh nghiệp được quyền chủ động mở
rộng quy mô và ngành nghề kinh doanh, được Nhà nước khuyến khích, ưu đãi và tạo
thuận lợi tham gia sản xuất, cung ứng sản phẩm...
Nghị quyết số 03/2000/NQ-CP về Kinh tế trang trại ban hành các chính sách ưu đãi (về
thuế, hỗ trợ đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng...) nhằm khuyến khích và tạo thuận lợi để phát
triển sản xuất hộ gia đình theo hướng sản xuất hàng hoá quy mô lớn.
Chính sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một trong những chính sách quan trọng góp
phần thay đổi kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng phát triển sản xuất hàng hoá có
năng suất, chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu thị trường; phát huy lợi thế so sánh của từng
vùng; hình thành các vùng sản xuất hàng hoá tập trung, gắn kết chặt chẽ giữa sản xuất,
bảo quản, chế biến và thị trường tiêu thụ, thúc đẩy tiêu thụ nông sản một cách toàn diện
và hiệu quả; đồng thời nâng cao giá trị thu nhập trên 1 ha đất canh tác, tạo việc làm và
tăng nhanh thu nhập cho nông dân.
Để giúp cho nông dân yên tâm sản xuất, tạo sự gắn kết chặt chẽ giữa người sản xuất và
người kinh doanh, tạo nguồn nguyên liệu ổn định cho công nghiệp chế biến và chân hàng
cho xuất khẩu, năm 2002, Chính phủ đã ban hành Quyết định 80 về một số chính sách
khuyến khích tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng. Tuy còn nhiều hạn chế nhưng chính
sách này đã bước đầu phát huy tác dụng ở nhiều địa phương, tạo nguồn hàng hoá phong
phú và ổn định cho thị trường.
Riêng sản xuất rau quả còn được hưởng các chính sách cụ thể như: Ngân sách Nhà nước
hỗ trợ một phần công tác nghiên cứu khoa học và công nghệ; nhập khẩu giống mới có
- năng suất cao (như dứa, măng…); hỗ trợ một phần kinh phí cho đầu t ư mới cải tạo nâng
cấp cơ sở hạ tầng sản xuất tại một số địa phương;… Các chính sách hỗ trợ công tác xúc
tiến thương mại; thưởng kim ngạch xuất khẩu... tác động trực tiếp đến hoạt động xuất
khẩu, thông qua đó có tác dụng khuyến khích nghiên cứu phát triển sản xuất và nâng cao
chất lượng sản phẩm.
III. MỘT SỐ HẠN CHẾ VỀ TÌNH HÌNH SẢN XUẤT RAU QUẢ CỦA VIỆT NAM
Theo Tổ chức nông lương Liên hợp quốc (FAO), nhu cầu tiêu thụ rau quả trên thế giới
tăng bình quân 3,6%/năm, nhưng mức cung chỉ tăng 2,8%/năm. Điều này cho thấy thị
trường xuất khẩu rau quả có nhiều tiềm năng. Tuy nhiên, trong nhiều năm qua thị trường
xuất khẩu rau quả của Việt Nam đã giảm mạnh. Nếu năm 2001, xuất khẩu 42 nước và
vùng lãnh thổ, thì năm 2004 còn lại 39 và năm 2005 chỉ còn 36.
Nguyên nhân của sự suy giảm này, trước hết là giống cây ăn trái của Việt Nam mới chỉ
dừng ở mức độ khai thác các giống đã có sẵn chứ chưa đầu tư thích đáng cho việc phát
triển cũng như bảo quản những giống mới có chất lượng cao, phù hợp thị hiếu của các thị
trường khác nhau. Hầu hết các cơ sở giống đều thiếu hẳn vườn cây đầu dòng hoặc không
có vườn cung cấp mắt ghép được nhân từ cây đầu dòng được xác nhận. Đối với giống cây
có múi sạch bệnh được sản xuất trong nhà lưới mỗi năm cũng chỉ khoảng 500.000
cây/năm trong khi đó nhu cầu cần đến 4 đến 5 triệu cây giống mỗi năm và giá bán lại cao
(12.000 đ đến 15.000 đ/cây), do đó nhà vườn khó mua được giống tốt.
3.1. MỘT SỐ HẠN CHẾ VỀ SẢN XUẤT
Trong những năm qua sản xuất rau quả của Việt Nam đã đạt được những kết quả nhất
định nhưng vẫn tồn tại nhiều hạn chế do những yếu kém nội tại của ngành rau quả cũng
như những bất cập trong thực hiện các chính sách phát triển. Cụ thể là:
- Về phát triển vùng chuyên canh rau quả xuất khẩu:
Trong những năm qua, những nỗ lực xây dựng vùng nguyên liệu tốt cho chế biến xuất
khẩu đã góp phần hình thành được nhiều vùng quả tập trung như vùng xoài cát Hoà Lộc
(Tiền Giang), Thanh Long (Bình T huận), vải thiều Bắc Giang, nho (Ninh Thuận), bưởi
Năm Roi (Vĩnh Long)... Năm 2006, Việt Nam phấn đấu đưa diện tích cây ăn quả lên 760
nghìn ha, tăng 5 nghìn ha so với năm 2005 và đạt kim ngạch xuất khẩu rau quả phấn đấu
đạt 330 triệu USD. Để đạt mục tiêu này, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tập
trung phát triển các loại cây ăn quả có lợi thế như loại cây có múi gồm cam, quýt, bưởi;
dứa, xoài, nhãn, vải, thanh long, sầu riêng, măng cụt, vú sữa. Phát triển các giống cây ăn
quả chất lượng cao, đặc sản ở các vùng như cam, quýt (Canh, Cần Thơ), bưởi (Phúc
Trạch, Đoan Hùng, Năm Roi), Xoài cát (Vĩnh Long, Bến Tre, Tiền Giang), quýt hồng
(Đồng Tháp).
Tuy nhiên, diện tích các vùng chuyên canh còn chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng diện tích
755.000 ha cây ăn quả hiện có trên cả nước; phần lớn diện tích vẫn là vườn tạp, phát triển
theo quy mô hộ gia đình. Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự không ổn định của
- xuất khẩu là do quy hoạch chưa có trọng tâm, chưa tập trung tối ưu để tạo ra những vùng
sản xuất có tính cạnh tranh. Số vùng chuyên canh như vải thiều Bắc Giang, vú sữa Lò
Rèn, thanh long Bình Thuận, nho Ninh Thuận còn quá ít nên khi khách hàng cần sản
lượng lớn, thời gian giao hàng ngắn thì khó có thể thu gom đủ. Ngoài ra, do giống và quy
trình chăm sóc không đồng đều, nguồn nguyên liệu lại không ổn định, ảnh hưởng đến
chất lượng chế biến.
3.2. NHỮNG TỒN TẠI
Bên cạnh một số thành tựu nhất định, hệ thống chính sách của Việt Nam nói chung, nông
nghiệp nói riêng còn nhiều bất cập, việc ban hành chính sách thiếu sự đồng bộ, không có
tính chiến lược mà thường mang tính giải quyết t ình thế.
Nhiều chính sách còn chưa thực sự cụ thể hoá, mức độ phát huy hiệu lực còn rất hạn chế
do không đủ các nguồn lực về tài chính, trình độ quản lý, thủ tục rườm rà, khó vận dụng:
Nghị quyết 09 của Chính phủ về một số chủ trương và chính sách chuyển dịch cơ cấu
nông nghiệp và tiêu thụ sản phẩm chưa có hướng dẫn và chính sách cụ thể; Quyết định 80
về khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng chưa cụ thể hoá các quy
chế hỗ trợ về cơ sở hạ tầng, thuỷ lợi, xúc tiến thương mại, khuyến nông... và chế tài xử
phạt các trường hợp vi phạm hợp đồng nên khi triển khai còn gặp nhiều lúng túng, hiệu
lực chưa cao;...
Quá trình xây dựng và thực thi chính sách chưa quan tâm đúng mức đến việc lấy ý kiến
rộng rãi của các thành phần kinh tế khác nên các doanh nghiệp Nhà nước thường được
hưởng lợi nhiều hơn, do đó chưa thực sự tạo được “sân chơi bình đẳng” trong môi trường
kinh doanh cho mọi thành phần kinh tế.
Trong sản xuất và tiêu thụ nông sản, các chính sách của Nhà nước dường như vẫn quan
tâm nhiều đến việc thúc đẩy sản xuất mà chưa quan tâm đúng mức đến quản lý tiêu chuẩn
chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm...; chưa tạo được động lực đột phá giải quyết được
tình trạng manh mún trong sản xuất để nâng cao năng suất, chất lượng nông sản, đáp ứng
yêu cầu thị trường.
Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách tạo hành lang pháp lý cho HTX chuyển đổi,
xây dựng mới, thực hiện hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Tuy nhiên, trong Luật
HTX vẫn còn nhiều vấn đề chưa rõ ràng về cơ chế, chính sách tài chính cho các HTX,
các văn bản cụ thể hóa thực hiện Luật HTX làm chậm, một số nội dung hướng dẫn thực
hiện không đồng bộ và chưa phù hợp với thực tế. Có những quy định cần thiết đến nay
vẫn chưa được hướng dẫn thi hành (như chính sách hỗ trợ khuyến khích phát triển HTX).
Thêm vào đó, năng lực của cán bộ HTX chưa cao, hoạt động của đa số HTX còn thụ
động... nên đã phần nào hạn chế hình thức tổ chức này phát huy hiệu quả; tác động của
các chủ trương, chính sách còn chậm đến các cơ sở, nhiều chính sách đã được ban hành
nhưng đến nay các HTX nông nghiệp vẫn chưa được hưởng lợi từ những chính sách đó.
Chính sách về đất đai vẫn còn những hạn chế cần phải khắc phục, điều chỉnh để khuyến
khích hơn nữa người nông dân tích tụ đất, lập trang trại sản xuất hàng hoá với số lượng
- lớn, quy cách đồng đều, chất lượng cao... đáp ứng yêu cầu thị trường. Chưa có chế tài để
gắn kết giữa quyền lợi với nghĩa vụ và trách nhiệm sử dụng đất của người dân nên sản
xuất hàng hoá chưa thực sự đạt hiệu quả cao.
Các chính sách về kinh tế trang trại còn chưa được cụ thể hoá, khó áp dụng trong thực
tiễn. Do đó, sự phát triển của kinh tế trang trại còn mang tính tự phát, hiệu quả hoạt động
còn chưa cao. Để loại hình kinh tế đặc thù này phát triển ngang tầm với ưu thế vốn có của
nó, cần phải xây dựng một kế hoạch phát triển lâu dài dựa trên thế mạnh của từng vùng.
Việc thực hiện các chính sách chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông
thôn còn chậm, thiếu đồng bộ. Tuy diện tích rau, quả và hoa, cây cảnh có tăng nhưng tại
khu vực sản xuất nguyên liệu tập trung cho công nghiệp chế biến thì năng suất, chất
lượng rau quả còn thấp, không đủ cho các nhà máy. Những nơi dân tự trồng thì rải rác,
phân tán, diện tích manh mún, chủng loại không ổn định, chất lượng không đồng đều.
Việc thực hiện chủ trương đa dạng hoá nông nghiệp, nâng cao năng suất, chất lượng, hạ
giá thành sản phẩm chưa được nhiều.
Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn từ nguồn ngân sách Nhà nước
thiếu sự cân đối giữa các ngành hàng, nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế
(TD: đầu tư phát triển thuỷ lợi chủ yếu tập trung cho cây lúa, phần lớn diện tích cây ăn
quả chưa có công trình thuỷ lợi). Sự chuyển biến trong điều chỉnh c ơ cấu đầu tư còn
chậm, chưa thực sự phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông
thôn.
Môi trường đầu tư còn nhiều hạn chế (thiếu tính chiến lược, định hướng thu hút đầu t ư
nước ngoài; chi phí đầu tư cao; hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách khuyến khích đầu
tư nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp, phát triển nông thôn còn nhiều bất cập; thủ tục
hành chính rườm rà...) nên chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi để thu hút đầu t ư nước
ngoài vào lĩnh vực này. Do đó, dòng vốn đầu tư nước ngoài vào vào lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn còn hết sức hạn chế và có xu hướng giảm sút trong những năm gần
đây, chưa tương xứng với tiềm năng cũng như thế mạnh phát triển của nông nghiệp Việt
Nam. Hiệu quả thực hiện các dự án trong lĩnh vực này còn rất nhỏ so với hoạt động đầu
tư nước ngoài trong các lĩnh vực khác. Ngoài một số dự án sản xuất giống, chế biến nông
sản..., nhìn chung các dự án đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này triển khai chậm do khó
khăn về thủ tục cấp đất, nguồn nguyên liệu...
Nguồn vốn tín dụng đầu t ư Nhà nước dành cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn còn thấp
so với yêu cầu, theo đánh giá chung mới chỉ đáp ứng khoảng 40% nhu cầu vay vốn của
các tổ chức kinh tế, hộ gia đình. Đặc biệt, các doanh nghiệp t ư nhân, HTX và hộ nông
dân tiếp cận nguồn vốn này còn rất ít. Tỷ lệ hộ nông dân được vay vốn tín dụng ngân
hàng khoảng 70%, lại gặp nhiều vướng mắc trong các quy định về thế chấp, thu hồi nợ.
Việc cho vay ưu đãi được thực hiện qua nhiều đầu mối (Quỹ Hỗ trợ phát triển, Ngân
hàng Nông nghiệp và PTNT, Ngân hàng Chính sách xã hội) với mức lãi suất khác nhau
nên người nông dân khó nhận biết đầy đủ để tiếp cận nguồn vốn.
- Hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu thực
tiễn sản xuất, chưa thực sự bám sát yêu cầu thị trường. Cơ chế quản lý KHCN chậm đổi
mới, chưa có chính sách và biện pháp hữu hiệu để huy động các nguồn lực và sử dụng có
hiệu quả nguồn lực Nhà nước đầu tư cho KHCN; thiếu cơ chế gắn kết nghiên cứu KHCN
với hoạt động sản xuất, kinh doanh, hiệu quả ứng dụng các công tr ình nghiên cứu khoa
học thấp; thiếu chính sách và biện pháp thúc đẩy các doanh nghiệp quan tâm đầu t ư
nghiên cứu và đổi mới công nghệ để nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh
tranh... Mức đầu tư cho nghiên cứu và phát triển KHCN trong ngành nông nghiệp còn
thấp so với nhu cầu nên chưa tạo được những bước đột phá trong sản xuất nông nghiệp.
Việc tổ chức chuyển giao, ứng dụng KHCN vào sản xuất chưa được quan tâm đầu t ư
đúng mức, thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa công tác nghiên cứu và khuyến nông; chưa
thu hút được nhiều thành phần kinh tế tham gia nghiên cứu và chuyển giao khoa học
công nghệ vào sản xuất nông nghiệp.
Về Giống, mặc dù đã có những văn bản pháp quy đối với quản lý giống, việc thực thi vẫn
còn nhiều bất cập. Hệ thống quản lý chất lượng giống còn yếu kém, số cán bộ quản lý
ngành giống ở cấp tỉnh quá ít, cấp huyện hầu như không có. Do đó, hệ thống sản xuất,
cung ứng giống cho dân chưa được giám sát chặt chẽ, đặc biệt việc quản lý giống lưu
thông trên thị trường còn lỏng lẻo nên vẫn còn tình trạng sử dụng giống kém chất lượng,
nhất là giống cây ăn quả, gây thiệt hại cho nông dân.
Hệ thống khuyến nông còn nhiều bất cập, đến nay vẫn còn 30% số huyện chưa có trạm
khuyến nông, 19% số xã chưa có cán bộ khuyến nông. Nội dung công tác khuyến nông
mới chú ý nhiều đến hướng dẫn kỹ thuật, chưa chú trọng đến việc hướng dẫn tổ chức sản
xuất, thị trường, chưa bám sát yêu cầu của nông dân... nên ở nhiều nơi chưa đạt hiệu quả
cao. Hơn nữa, còn thiếu cơ chế chính sách khuyến khích mạnh mẽ các doanh nghiệp và
các cơ sở đào tạo, nghiên cứu chủ động trực tiếp tham gia vào công tác chuyển giao khoa
học, kỹ thuật cho nông dân.
Thực trạng an toàn vệ sinh thực phẩm trong những năm gần đây rất đáng lo ngại. Đặc
biệt, trong sản xuất rau quả, việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, chất bảo quản không
đúng quy định hoặc cấm lưu hành trên thị trường đã dẫn đến những hậu quả nghiêm
trọng, ảnh hưởng tới sức khoẻ người tiêu dùng. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về
VSATTP đến nay về cơ bản đã hoàn thành, tuy nhiên việc xây dựng hệ thống tiêu chuẩn
VSATTP còn chậm, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý và
và các tiêu chuẩn quốc tế. Hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước về VSATTP còn yếu,
phân tán, chưa phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ ngành.
Việc thực hiện ký kết hợp đồng sản xuất, tiêu thụ nông sản theo Quyết định 80 của Chính
phủ vẫn còn nhiều bất cập. Nhà nước chưa tạo được một hành lang pháp lý phù hợp cho
việc giải quyết tranh chấp trong liên kết giữa các nhà, đặc biệt là vấn đề hợp đồng sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm giữa nhà doanh nghiệp và nhà nông. Các chính sách về tín
dụng, vốn sản xuất, đầu t ư cơ sở hạ tầng, giống mới, khoa học kỹ thuật…theo QĐ 80
chưa được các cấp, các ngành triển khai đồng bộ, chưa khai thông. Đối với những trường
hợp thiệt hại do các nguyên nhân bất khả kháng (như thiên tai, dịch bệnh), Nhà nước
chưa có chính sách cụ thể để hỗ trợ cho các bên tham gia hợp đồng.
- Các chương trình xúc tiến thương mại hiện nay vẫn chưa chú trọng vào phát triển thị
trường phi truyền thống trong khi chính những thị trường này mới là những thị trường mà
Nhà nước cần hỗ trợ xúc tiến thương mại để các doanh nghiệp có thể thâm nhập thị
trường.
Hiện nay các hoạt động đàm phán để ký kết các thoả thuận hoặc các hiệp định về thương
mại rau quả của Việt Nam còn chậm và cần phải triển khai mở rộng cũng như đẩy nhanh
tiến độ của các hoạt động nay thông qua đàm phán ký kết các FTA hoặc các hiệp định về
buôn bán rau quả với một số thị trường trọng điểm như Trung Quốc, Nhật Bản, EU và
Hoa Kỳ…Do chưa ký kết được thoả thuận song phương về buôn bán rau quả với một số
thị trường, đặc biệt là với Trung Quốc nên rau quả của Việt Nam hiện nay rất kém cạnh
tranh với rau quả của những nước đã có thoả thuận cắt giảm thuế quan như Thái Lan tại
thị trường quốc tế. Đây là một trong những rào cản đối với rau quả của Việt Nam. Chính
phủ Trung Quốc cũng thắt chặt hoạt động kiểm soát rau quả nhập khẩu sau khi Trung
Quốc gia nhập WTO tạo thêm khó khăn cho rau quả xuất khẩu của Việt Nam vào thị
trường này.
Công tác dự báo thị trường, tổ chức thu thập và xử lý thông tin đã có những tiến bộ đáng
kể nhưng còn rời rạc, chậm về thời gian, thiếu hệ thống từ cơ sở vật chất đến phương
thức tổ chức, nghèo nàn về nội dung, chưa thực sự trở thành một công cụ mạnh để chỉ
đạo, hướng dẫn sản xuất. Do thiếu thông tin về thị trường nên người sản xuất rất lúng
túng trong việc quyết định đầu t ư nên trồng cây gì? qui mô ra sao? để có hiệu quả. Thị
trường chưa thực sự hướng dẫn sản xuất, chưa có tác động tích cực đổi mới cơ cấu sản
xuất hướng theo nhu cầu của thị trường. Công tác tổ chức dự báo thị trường, thu thập xử
lý thông tin chậm về thời gian, mức độ, tin cậy không cao, trên thực tế chưa trở thành
công cụ mạnh hướng dẫn sản xuất.
Tầm vĩ mô, hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc xây dựng và phát
triển thị trường, xúc tiến thương mại, xây dựng các quan hệ song phương và đa phương,
tạo điều kiện xuất khẩu rau quả còn rất hạn chế, thiếu chủ động. Hoạt động nghiên cứu
tiếp thị thuộc các tổ chức kinh tế, chuyên môn chậm phát triển, còn bị xem nhẹ, chưa
tương xứng với yêu cầu phát triển ngành rau quả nói chung, đẩy mạnh xuất khẩu rau quả
nói riêng. Sự yếu kém trong việc xác định hệ thống thị trường xuất khẩu chủ lực và
những mặt hàng rau quả xuất khẩu trọng điểm là một trong những nguyên nhân hạn chế
quá trình phát triển sản xuất - lưu thông - xuất khẩu rau quả.
Để sản xuất đạt hiệu quả cao cần đầu t ư vào những lĩnh vực thị trường thực sự có nhu
cầu. Người sản xuất đòi hỏi phải có nhu cầu thường xuyên về thông tin thị trường tiêu thụ
để có quyết định đầu t ư sản xuất hợp lý. Tuy vậy, người sản xuất không thể tự giải quyết
vấn đề này cho mình, mà đòi hỏi có sự hỗ trợ của Nhà nước, các tổ chức kinh tế và các
doanh nghiệp.
3.3 Nguyên nhân của những tồn tại và những vấn đề đặt ra
Xét về nguyên nhân khách quan, xuất phát điểm của nông nghiệp Việt Nam thấp trong
khi nguồn lực của cả Nhà nước và nhân dân còn hết sức hạn hẹp. Hơn nữa, một bộ phận
- cán bộ và một số ngành, địa phương chưa nhận thức đầy đủ được tầm quan trọng và tính
cấp thiết của việc phát triển một nền nô ng nghiệp hàng hoá theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, có năng suất, chất lượng cao, đa dạng hoá sản phẩm và định hướng thị
trường nên chưa thực sự quan tâm chỉ đạo và có cơ chế chính sách đủ mạnh để thực hiện.
Công tác quản lý Nhà nước trong lĩnh vực nông nghiệp còn nhiều bất cập. Nhiều chủ
trương chính sách đã được ban hành những còn chậm trong việc hướng dẫn tổ chức thực
hiện. Một số chính sách chậm được điều chỉnh để phù hợp với yêu cầu của chuyển đổi cơ
cấu và phát triển sản xuất. Việc tuyên truyền phổ biến các chính sách để nâng cao nhận
thức của người nông dân, giúp họ định hướng sản xuất hợp lý ở nhiều nơi vẫn còn chậm
và chưa thực sự quan tâm.
Cơ cấu đầu tư chậm được điều chỉnh để phù hợp với yêu cầu phát triển của cơ cấu kinh tế
mới. Nhu cầu vốn cho đầu tư cho CSHT nông thôn rất lớn trong khi nguồn chi Ngân sách
Nhà nước cho nông, lâm, thuỷ sản chỉ chiếm khoảng 6% tổng chi ngân sách và đáp ứng
được khoảng 60 - 70% yêu cầu thực tế. Vốn của nông dân và các doanh nghiệp, HTX
chiếm tỷ trọng lớn nhất trong đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh nông nghiệp nhưng
số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp thường có quy mô vừa và nhỏ lại
chỉ chiếm gần 10% tổng số doanh nghiệp cả nước, do đó tốc độ mở rộng đầu t ư của các
doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp còn hạn chế. Trong khi đó, chưa có nhiều cơ
chế, chính sách hữu hiệu nhằm khuyến khích, thu hút các nguồn vốn đầu t ư nước ngoài
cho đầu tư hạ tầng nông nghiệp nên nguồn vốn này chỉ mới chiếm khoảng 7% tổng vốn
đầu tư trực tiếp của nước ngoài.
Việc đầu tư phát triển hệ thống thông tin giá cả, thị trường chưa theo kịp yêu cầu nên khả
năng phân tích, dự báo còn nhiều yếu kém, chưa hướng dẫn cho nông dân nên sản xuất
loại sản phẩm gì để có hiệu quả cao. Hạ tầng dịch vụ phục vụ thương mại hàng nông sản
còn thiếu nhiều, hệ thống chợ bán buôn hàng nông sản chưa được quy hoạch và đầu tư
phát triển mạnh, thiếu các cảng chuyên dụng, chi phí bốc xếp, lưu kho cao...làm giảm
hiệu quả tiêu thụ, chưa khuyến khích được người nông dân phát triển sản xuất.
Một số quy định về đất đai vẫn còn chưa thực sự phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế
thị trường, chưa khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp trên quy mô lớn. Hiện nay,
có nhiều doanh nghiệp, nông hộ mong muốn xây dựng được những vùng sản xuất nguyên
liệu tập trung ổn định lâu dài nhưng lại gặp khó khăn về dồn đổi, chuyển nhượng đất
nông nghiệp.
Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn nhìn chung còn chậm so
với yêu cầu, chưa thực sự tạo nên chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức củ a người nông
dân về tầm quan trọng của việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Nhiều nơi nông
dân vẫn tập trung vào sản xuất các loại cây truyền thống, ít chịu đổi mới. Phát triển sản
xuất nhiều loại cây trồng, trong đó có rau, hoa, quả còn phân tán và mang nặng tính tự
phát.
Năng lực, trình độ cũng như việc tổ chức quản lý công tác nghiên cứu khoa học, nhất là
trong lĩnh vực nghiên cứu công nghệ cao chưa đáp ứng được nhu cầu. Cơ sở vật chất - kỹ
nguon tai.lieu . vn