Xem mẫu

  1. LUẬN VĂN: Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Cảnh sát phản ứng nhanh - Công an thành phố Hà Nội trong đấu tranh phòng, chống tội phạm
  2. Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trước những diễn biến phức tạp về trật tự an toàn xã hội (TTATXH) trong những năm gần đây, nhất là tại các đô thị, các địa bàn trọng điểm, các khu vực công cộng, tình hình tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật có xu hướng gia tăng, xuất hiện một số loại tội phạm mới, có nơi, có lúc gây tình trạng bất ổn trong nhân dân. Để nâng cao hiệu quả hoạt động của lực lượng Cảnh sát nhân dân (CSND) trong đấu tranh phòng chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật ở địa bàn công cộng, bảo đảm sự bình yên cho nhân dân, thực hiện chỉ đạo của lãnh đạo Bộ Công an, Tổng cục Cảnh sát đã nghiên cứu, chỉ đạo Công an các tỉnh, thành phố xây dựng lực l ượng ứng trực 24/24 giờ để tiếp nhận và xử lý nhanh các vụ việc về an ninh trật tự (ANTT) được nhân dân, các cơ quan, tổ chức báo đến số điện thoại khẩn cấp 113, đồng thời điều động lực lượng đến ngay nơi xảy ra vụ việc, tiến hành các biện pháp khẩn cấp để trấn áp, ngăn chặn kịp thời hoạt động của tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật, ổn định tình hình TTATXH nơi xảy ra vụ việc. Được chính thức thành lập ngày 27 tháng 9 năm 2001, cho đến nay lực lượng Cảnh sát phản ứng nhanh (PƯN) đã thể hiện được vai trò quan trọng của mình, góp phần tích cực trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Lực lượng Cảnh sát PƯN đã kịp thời ngăn chặn và hạn chế được nhiều vụ việc phức tạp, bắt giữ nhiều đối tượng vi phạm pháp luật và tội phạm hình sự, giúp đỡ nhân dân khi gặp khó khăn, hoạn nạn, từng bước nâng cao được lòng tin và sự tín nhiệm của nhân dân đối với lực lượng Công an. Tuy đã đạt được những kết quả đáng khích lệ như trên song hoạt động của Cảnh sát PƯN vẫn tồn tại những thiếu sót, khó khăn, vướng mắc. Một số đơn vị, địa phương chưa nhận thức đúng về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của lực lượng Cảnh sát PƯN, vì vậy đã điều động Cảnh sát PƯN đi giải quyết một số việc không đúng chức năng, nhiệm vụ như dẹp chợ, đẩy đuổi hàng rong… điều đó đã làm hạn chế hiệu quả hoạt động của lực lượng này, đặc biệt là trong hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm.
  3. Thành phố Hà Nội là thủ đô, là trung tâm kinh tế, chính trị, xã hội của cả nước. Trong những năm qua tình hình ANTT ở Thủ đô tiếp tục được giữ vững, bảo vệ tuyệt đối an toàn các mục tiêu trọng điểm, các sự kiện chính trị, văn hóa xã hội của Nhà nước và quốc tế. Đã kiềm chế được sự gia tăng của tội phạm, hạn chế các nguyên nhân, điều kiện hình thành, phát triển tội phạm. Tuy nhiên, hoạt động của các loại tội phạm trên địa bàn Hà Nội vẫn tiếp tục tiềm ẩn nhiều dấu hiệu phức tạp. Các loại tội phạm nguy hiểm phổ biến như giết người, cướp tài sản, cố ý gây thương tích… với tính manh động cao. Đặc biệt trong thời gian gần đây, trên địa bàn đã xảy ra nhiều vụ án mạng thể hiện tính côn đồ, coi thường pháp luật, sẵn sàng chém nhau chỉ vì những mâu thuẫn nhỏ, tức thì. Tình hình hoạt động của tội phạm và các vi phạm pháp luật có nhiều phức tạp ở các địa bàn công cộng, các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân cũng dễ phát sinh và kéo theo nhiều vấn đề phức tạp, nhiều vụ có nguy cơ dẫn đến phạm pháp hình sự cần phải được can thiệp khẩn cấp của Công an để kịp thời ngăn chặn, làm giảm mức độ thiệt hại và tính chất nghiêm trọng của sự việc. Với vị trí đặc biệt của mình về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, ANTT trên địa bàn thành phố phải được giữ vững trong mọi tình huống, các vụ tội phạm phải được ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm minh. Nhiệm vụ trên được đặt ra cho nhiều lực lượng nghiệp vụ, trong đó có vai trò quan trọng của Cảnh sát PƯN - Công an thành phố Hà Nội. Về phương diện lý luận, cho đến nay chưa có một công trình khoa học nào đề cập riêng, nghiên cứu chuyên sâu, có hệ thống về hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm của Cảnh sát PƯN. Do vậy, đây là một vấn đề cần quan tâm nghiên cứu. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài: "Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Cảnh sát phản ứng nhanh - Công an thành phố Hà Nội trong đấu tranh phòng, chống tội phạm" làm đề tài luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu ở góc độ chung, mới chỉ có đề tài "Tổ chức hoạt động của Cảnh sát 113 Công an thành phố Hà Nội - Thực trạng và giải pháp", Đề tài khoa học cấp cơ sở của tác giả
  4. Phạm Trung Hòa và một số luận văn tốt nghiệp của sinh viên nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của Cảnh sát PƯN nói chung. Ngoài ra, còn có một số bài viết đăng trên các tạp chí của ngành: - Xây dựng và củng cố lực lượng "Cảnh sát phản ứng nhanh" góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa đấu tranh chống tội phạm và các hành vi vi phạm trật tự an toàn xã hội của tác giả Nguyễn Văn Tảo và Mai Hồng Thọ, Tạp chí Cảnh sát nhân dân, số 12/1999. - Kết quả và một vài kinh nghiệm bước đầu hoạt động của lực lượng trực ban tác chiến phản ứng nhanh (Cảnh sát 113) Công an thành phố Hà Nội của tác giả Đỗ Xuân Hàn và Hoàng Xuân Tú, Tạp chí Công an nhân dân, số 06/2000. - Một số kết quả và kinh nghiệm trong tổ chức hoạt động của lực lượng Cảnh sát phản ứng nhanh (Cảnh sát 113) của tác giả Đào Hữu Hòa, Tạp chí Cảnh sát nhân dân, số 7/2004. - Về tổ chức hoạt động của lực lượng Cảnh sát phản ứng nhanh Công an thành phố Hà Nội trong tình hình hiện nay của tác giả Trần Thị Hoa, Tạp chí Cảnh sát nhân dân, số 11/2005. Tuy nhiên, các bài viết này mới chỉ dừng lại ở góc độ nghiên cứu đề cập những kết quả hoạt động thực tế của Cảnh sát PƯN Công an các địa phương, mang tính tổng kết kinh nghiệm mà chưa đề cập được hệ thống những vấn đề mang tính cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của lực lượng này trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. ở góc độ nghiên cứu hoạt động chuyên sâu, cho đến nay, chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách chuyên sâu về hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm của lực lượng Cảnh sát PƯN. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Qua nghiên cứu, đánh giá thực trạng hoạt động của lực lượng Cảnh sát PƯN - Công an Hà Nội trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, tìm ra những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân của những hạn chế đó, đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
  5. hoạt động của lực lượng Cảnh sát PƯN - Công an thành phố Hà Nội trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Để đạt được mục đích nêu trên, nhiệm vụ đặt ra của đề tài là: - Nghiên cứu, làm rõ những quy định trong các văn bản pháp lý về tổ chức, hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm của Cảnh sát PƯN; - Nghiên cứu, khảo sát, đánh giá thực trạng hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm của lực lượng Cảnh sát PƯN - Công an thành phố Hà Nội, kết quả đã đạt được, tồn tại, thiếu sót và nguyên nhân; - Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm của lực lượng Cảnh sát PƯN; - Dự báo tình hình và đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm của Cảnh sát PƯN. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động của lực lượng Cảnh sát PƯN trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. - Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động của lực lượng Cảnh sát PƯN - Công an thành phố Hà Nội trong đấu tranh phòng, chống tội phạm từ năm 2002 đến tháng 6 năm 2006. 5. Phương pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng, Nhà nước, của ngành Công an trong đấu tranh phòng chống tội phạm. Trong quá trình nghiên cứu đề tài tác giả sử dụng các phương pháp cụ thể sau: - Phương pháp phân tích, tổng hợp. - Phương pháp thống kê. - Phương pháp tổng kết thực tiễn, nghiên cứu điển hình. - Phương pháp chuyên gia, tọa đàm trao đổi với các cán bộ chiến sĩ có kinh nghiệm trong chỉ đạo, chỉ huy hoạt động của Cảnh sát PƯN và sử dụng các phương pháp điều tra xã hội học khác.
  6. 6. Những đóng góp mới của đề tài Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên, đề cập riêng về hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm của lực lượng Cảnh sát PƯN. Qua việc đi sâu nghiên cứu thực tiễn hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm của lực lượng Cảnh sát PƯN, đề tài chỉ ra những vấn đề còn khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm góp phần xây dựng và hoàn thiện lý luận về hoạt động phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Những kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần nâng cao hiệu quả tổ chức, chỉ đạo thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm của lực lượng Cảnh sát PƯN trong tình hình hiện nay. Đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu, học tập trong các trường đào tạo lực lượng CSND. 7. Bố cục của luận văn Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
  7. Chương 1 Nhận thức chung về hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm của lực lượng Cảnh sát phản ứng nhanh 1.1. Nhận thức về Cảnh sát phản ứng nhanh 1.1.1. Vài nét về sự hình thành, phát triển của Cảnh sát phản ứng nhanh Trong những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nước ta đã và đang đạt được nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, văn hóa xã hội, hợp tác quốc tế với các nước trên thế giới và trong khu vực… Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng cao. Tốc độ phát triển đô thị hóa nhanh nên đã hình thành nhiều loại hình địa bàn công cộng. Các nhu cầu về đi lại, buôn bán, hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ, hoạt động văn hóa thể thao, du lịch… của nhân dân ngày càng nhiều và đòi hỏi cao hơn. Tuy nhiên, do tác động của những yếu tố tiêu cực của cơ chế thị trường, đã làm nảy sinh những vấn đề tiêu cực và phức tạp mới. Tình hình hoạt động của tội phạm và các vi phạm pháp luật có nhiều phức tạp ở các địa bàn công cộng, các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân cũng dễ phát sinh và kéo theo nhiều vấn đề phức tạp cần phải được can thiệp khẩn cấp của Công an để kịp thời ngăn chặn, làm giảm mức độ thiệt hại và tính chất nghiêm trọng của sự việc. Đặc biệt đáng chú ý một số loại tội phạm như: cướp, cướp giật, buôn bán ma túy, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, tội phạm có tổ chức… và các loại tệ nạn đang gia tăng và có tính chất nghiêm trọng, táo bạo, trắng trợn, công khai hơn. Nhiều vụ việc xảy ra rất nghiêm trọng và kéo dài nhưng chưa được sự can thiệp, ngăn chặn kịp thời nên bọn tội phạm càng lộng hành, ngang ngược, gây dư luận xấu trong nhân dân. Xuất phát từ yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm ở địa bàn công cộng trong tình hình mới, đòi hỏi phải thành lập một lực lượng phản ứng nhanh chuyên trách làm nhiệm vụ ứng trực sẵn sàng tiếp nhận và giải quyết nhanh, kịp thời khi có vụ việc xảy ra. Mặt khác, qua khảo sát tình hình thực tế ở một số địa phương cho thấy, việc tổ chức tiếp nhận tin báo đến qua điện thoại số 113 chưa được tổ chức đồng bộ, thống nhất,
  8. có nơi giao cho PV11, có nơi giao cho PC14, PC22… chưa thống nhất trong việc quy định trách nhiệm cụ thể cho một lực lượng nào đảm nhận, chưa có lực lượng ứng trực chuyên trách để tiếp nhận, giải quyết tin báo của nhân dân nên có nơi làm tốt, có nơi còn đùn đẩy, né tránh dẫn đến xử lý tin báo không kịp thời, làm mất lòng tin của nhân dân. Trong điều kiện hiện nay, hệ thống thông tin viễn thông đã và đang phát triển mạnh mẽ, với mạng điện thoại rộng khắp sẽ là điều kiện thuận lợi để người dân khi phát hiện tội phạm, vi phạm pháp luật hoặc bản thân đang bị tội phạm đe dọa tấn công đều có thể sử dụng điện thoại để báo tin cho Công an yêu cầu cần can thiệp, giúp đỡ. Hơn nữa, thực tế tâm lý của nhiều người không muốn trực tiếp đến trụ sở cơ quan Công an để báo tin, vì vừa mất thời gian, vừa sợ bị trả thù, nghi kỵ. Do vậy, nếu tổ chức khai thác hệ thống điện thoại số máy khẩn cấp 113 và vận động nhân dân sử dụng điện thoại 113 để báo tin cho Công an thì vừa tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân báo tin, vừa đảm bảo nhanh chóng, an toàn và chắc chắn sẽ nhận được sự ủng hộ của nhân dân. Xuất phát từ tình hình và yêu cầu trên, ngày 26/4/1999 Bộ trưởng Bộ Công an đã ban hành Chỉ thị số 02/1999/CT-BCA về việc "Tăng cường công tác Cảnh sát trật tự trong tình hình mới" nhằm thống nhất nhận thức và định hướng chỉ đạo, đẩy mạnh các mặt công tác nghiệp vụ cơ bản, nâng cao hiệu quả hoạt động của lực lượng Cảnh sát trật tự (CSTT) trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật ở địa bàn công cộng. Một trong những nội dung chính của chỉ thị là giao cho Tổng cục Cảnh sát phối hợp với các đơn vị liên quan nghiên cứu xây dựng đề án tổ chức lực lượng Cảnh sát PƯN làm nhiệm vụ ứng trực 24/24 giờ để tiếp nhận và xử lý nhanh, ban đầu các vụ việc về ANTT được báo đến số điện thoại khẩn cấp 113. Đồng thời, điều động lực lượng nhanh chóng đến nơi xảy ra vụ việc tiến hành các biện pháp khẩn cấp để trấn áp, ngăn chặn kịp thời những hành vi nguy hiểm đang hoặc sắp xảy ra, bắt giữ đối tượng phạm tội quả tang, cấp cứu người bị thương, ổn định tình hình trật tự xã hội (TTXH). Bộ trưởng cũng đã giao cho Tổng cục Cảnh sát chỉ đạo thí điểm công tác này ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và Hải Phòng để rút kinh nghiệm trước khi triển khai trong phạm vi cả nước. Sau hai năm chỉ đạo thí điểm ở các địa phương trên, lực lượng Cảnh sát PƯN đã hoạt động có hiệu quả cao trong công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, đáp ứng
  9. được nguyện vọng của nhân dân, được các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ngành, đoàn thể và nhân dân khen ngợi, uy tín của lực lượng CSND nói chung và Cảnh sát PƯN nói riêng từng bước được nâng lên. Kết quả trên đã có cơ sở thực tiễn để xác định việc thành lập lực lượng Cảnh sát PƯN là rất cần thiết và mang lại hiệu quả cao trong công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, giữ gìn TTATXH trong tình hình hiện nay. Để phát huy kết quả trên, ngày 27/9/2001, Bộ trưởng Bộ Công an đã ban hành Quyết định số 943/2001/QĐ-BCA(X13) về thành lập Đội Cảnh sát PƯN ở Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Quyết định số 944/2001/QĐ-BCA(X13) về quy định công tác tiếp nhận, xử lý tin được báo đến Đội Cảnh sát PƯN để triển khai trên phạm vi cả nước. Đến nay, các địa phương đã triển khai thành lập Đội Cảnh sát PƯN theo quyết định của Bộ. Sau năm năm hoạt động của Cảnh sát PƯN đã đi vào lòng dân và đã giữ vai trò quan trọng trong phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, góp phần đảm bảo an ninh quốc gia, giữ gìn TTATXH. Số điện thoại 113 trở thành "thương hiệu", gắn chặt với lực lượng Cảnh sát PƯN - Cảnh sát 113. Khác với một số lực lượng nghiệp vụ khác, Cảnh sát PƯN được tổ chức và ứng trực liên tục 24/24 giờ để tiếp nhận ngay và giải quyết nhanh ban đầu mọi việc có liên quan đến ANTT, sau đó chuyển giao cho các đơn vị nghiệp vụ giải quyết tiếp theo chức năng. Vì vậy, mọi thông tin có liên quan đến ANTT do nhân dân yêu cầu đều được đáp ứng và giải quyết kịp thời, có hiệu quả và đã trở thành một địa chỉ đáng tin cậy của nhân dân. 1.1.2. Khái niệm, vai trò của Cảnh sát phản ứng nhanh * Khái niệm Cảnh sát phản ứng nhanh Căn cứ Quyết định số 943/2001/QĐ-BCA ngày 27 tháng 9 năm 2001 của Bộ trưởng Bộ Công an cho thấy Cảnh sát PƯN là một lực lượng nghiệp vụ chiến đấu thuộc lực lượng CSND. Cảnh sát PƯN có nhiệm vụ tổ chức lực lượng thường trực 24/24 giờ để tiếp nhận những thông tin liên quan đến ANTT và yêu cầu chính đáng của nhân dân đề nghị Công an giúp đỡ báo đến máy điện thoại khẩn cấp 113, để kịp thời xử lý nhanh tin ban đầu theo quy định. Đồng thời, Cảnh sát PƯN tổ chức điều động lực lượng PƯN đến nơi xảy ra vụ việc tiến hành các biện pháp ban đầu cần thiết, nhằm ngăn chặn hành vi vi
  10. phạm pháp luật, như: bắt giữ đối tượng phạm tội quả tang; cấp cứu người bị thương; bảo vệ hiện trường; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; tính mạng, tài sản công dân Việt Nam và người nước ngoài; ổn định tình hình TTATXH nơi xảy ra; nắm tình hình có liên quan đến vụ việc... bàn giao cho các đơn vị nghiệp vụ và Công an các cấp giải quyết theo quy định. Trên cơ sở nghiên cứu các quy định trong các văn bản pháp lý và từ nghiên cứu thực tiễn, có thể đưa ra khái niệm về Cảnh sát PƯN như sau: Cảnh sát PƯN là một lực lượng nghiệp vụ có tính chiến đấu cao, cơ động nhanh, tiếp nhận, kịp thời xử lý những thông tin ban đầu liên quan đến ANTT do nhân dân và các cơ quan, tổ chức báo đến, tiến hành các biện pháp khẩn cấp nhằm ngăn chặn ngay các hành vi vi phạm pháp luật, bắt giữ đối tượng phạm tội, giải quyết ban đầu các vụ việc xảy ra để ổn định tình hình TTATXH, tạo điều kiện cho các lực lượng nghiệp vụ giải quyết, xử lý có hiệu quả các vụ việc liên quan đến ANTT, góp phần đảm bảo sự ổn định về TTATXH trên địa bàn công cộng và trong các khu vực dân cư. * Vai trò của Cảnh sát phản ứng nhanh - Cảnh sát PƯN là lực lượng nghiệp vụ có tính cơ động chiến đấu cao, giữ vai trò quan trọng trong giải quyết những vụ việc phức tạp, đột xuất, nguy hiểm, cấp bách xảy ra có liên quan đến ANTT. Trong Quyết định số 943/2001/QĐ-BCA(X13) ngày 27 tháng 9 năm 2001 của Bộ trưởng Bộ Công an về thành lập Đội Cảnh sát PƯN ở Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, tại Điều 1 đã quy định: "Thành lập Đội Cảnh sát phản ứng nhanh thuộc Phòng Cảnh sát trật tự hoặc thuộc Phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương". Như vậy, Cảnh sát PƯN là lực lượng nghiệp vụ trong hệ thống tổ chức bộ máy của lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính (QLHC). Song xuất phát từ nhiệm vụ đã được quy định và yêu cầu đặt ra đối với việc giải quyết, xử lý các vụ việc phức tạp, cấp bách nên phương thức tổ chức hoạt động của Cảnh sát PƯN luôn thể hiện tính cơ động chiến đấu cao, từ tổ chức lực lượng, điều động lực lượng tới nơi xảy ra vụ việc đến chỉ đạo, chỉ huy lực lượng và áp dụng các biện pháp, chiến thuật giải quyết các tình huống phức tạp, đều thể hiện tính cơ động nhanh, chủ động, sẵn sàng ứng phó trước mọi diễn biến tình hình phức tạp xảy ra.
  11. Từ đó cho thấy, hoạt động của Cảnh sát PƯN giữ vai trò rất quan trọng trong việc giải quyết, ngăn chặn kịp thời các vụ việc phức tạp về ANTT, mang tính cấp bách xảy ra. Với tính cơ động, chiến đấu cao, Cảnh sát PƯN luôn chủ động, có mặt nhanh nhất tại nơi xảy ra vụ việc tiến hành các biện pháp khẩn cấp để trấn áp, ngăn chặn kịp thời những hành vi nguy hiểm đang hoặc sắp xảy ra, làm giảm tính chất nguy hiểm, phức tạp của vụ việc đang hoặc sẽ diễn ra, bắt giữ được nhiều đối tượng phạm tội quả tang, những đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật, tổ chức cấp cứu kịp thời người bị nạn, làm giảm tới mức thấp nhất những thiệt hại về người và tài sản, lập lại ổn định tình hình TTXH ở nơi xảy ra vụ việc. Báo cáo sơ kết 3 năm triển khai hoạt động của Cảnh sát PƯN cũng đánh giá: "Quyết định thành lập lực lượng Cảnh sát PƯN là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp, có tác dụng tốt với công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, giữ gìn an ninh trật tự trong giai đoạn hiện nay cũng như lâu dài". - Hoạt động của Cảnh sát PƯN vừa có vai trò quan trọng trong phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời hoạt động của tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật về ANTT, vừa tạo điều kiện thuận lợi phục vụ cho các lực lượng nghiệp vụ điều tra có hiệu quả đối với tội phạm xảy ra. Do tính chất công tác, chức năng, nhiệm vụ của Cảnh sát PƯN nên hoạt động của lực lượng này có tác dụng răn đe, nâng cao hiệu quả phòng ngừa, đồng thời, đấu tranh ngăn chặn kịp thời, có hiệu quả đối với hoạt động của tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật về ANTT. Đối với các thông tin về tội phạm, nhất là các vụ phạm pháp quả tang, khẩn cấp và cần thiết phải có sự can thiệp của lực lượng Công an thì Cảnh sát PƯN là lực lượng chủ động, thường có mặt nhanh nhất đến nơi xảy ra vụ việc để ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội đang hoặc sắp diễn ra, làm giảm tới mức thấp nhất những thiệt hại về người và tài sản, làm giảm tính chất nguy hiểm, phức tạp của vụ việc, bắt giữ được các đối tượng phạm tội quả tang và các đối tượng vi phạm pháp luật khác. Những hoạt động này có tác dụng phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời, có hiệu quả đối với hoạt động của tội phạm, đặc biệt là các tội phạm nguy hiểm, hoạt động táo bạo, sử dụng vũ khí, các đối tượng côn đồ hung hãn, tội phạm hoạt động theo các băng, ổ, nhóm. Thông qua đó, vô hiệu hóa, tước bỏ điều kiện hoạt động của tội phạm; ngăn chặn không để xảy ra các vụ việc nguy hiểm, phức tạp về
  12. ANTT, đồng thời, ngăn chặn các hành vi vi phạm khác không để phát sinh, phát triển thành phạm pháp hình sự. Hơn nữa, sự có mặt kịp thời của Cảnh sát PƯN còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc ổn định tình hình TTXH nơi xảy ra vụ việc, giải tán đám đông, giải quyết ùn tắc giao thông, bảo vệ hiện trường, thu thập những tài liệu, chứng cứ, nắm được tên tuổi, địa chỉ của những người có liên quan và những thông tin cần thiết ban đầu. Lực lượng Cảnh sát PƯN tuy không có chức năng điều tra khám phá tội phạm, nhưng các thông tin tài liệu, chứng cứ... mà lực lượng này thu thập được từ các biện pháp ban đầu là cơ sở rất quan trọng phục vụ cho công tác điều tra, truy xét và xử lý vụ việc được sát đúng và có hiệu quả hơn. - Hoạt động của Cảnh sát PƯN góp phần quan trọng tạo niềm tin trong nhân dân, thúc đẩy phong trào quần chúng phát hiện, tố giác tội phạm. Việc tổ chức tiếp nhận thông tin nhanh đã tạo điều kiện thuận lợi cho mọi cá nhân, tổ chức, kể cả người nước ngoài tích cực tham gia vào công tác phòng ngừa, phát hiện và đấu tranh chống tội phạm. Điện thoại 113 là địa chỉ tin cậy, dễ nhớ, dễ gọi, không mất thời gian, khi cần có thể báo tin ngay các vụ việc về ANTT cho cơ quan Công an và có thể hoàn toàn yên tâm tin tưởng sẽ được giải quyết kịp thời. Đặc biệt, sự có mặt nhanh chóng, kịp thời, đủ sức mạnh quyền uy của Cảnh sát PƯN đã làm cho trạng thái tâm lý của người dân và người bị hại tin tưởng và yên tâm trước mọi sự đe dọa, tấn công của tội phạm. Kết quả hoạt động của Cảnh sát PƯN làm cho quần chúng nhân dân tin tưởng vào sức mạnh của các cơ quan bảo vệ pháp luật, củng cố niềm tin của nhân dân đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật nói chung và cơ quan Công an nói riêng. Từ đó, người dân sẽ tích cực, chủ động tham gia vào công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm. Có thể nói, việc thành lập Cảnh sát PƯN là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp, đây là sự đổi mới phương thức hoạt động nhằm mang lại hiệu quả cao hơn trong công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và cũng thể hiện tính chiến đấu của lực lượng Công an nhân dân (CAND). Đánh giá về vai trò của lực lượng này, báo cáo sơ kết 1 năm triển khai hoạt động của Cảnh sát PƯN đã chỉ rõ: "... việc tổ chức lực lượng phản ứng
  13. nhanh để kịp thời giải quyết các vụ phạm pháp xảy ra đã có tác dụng, hiệu quả cao trong phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, truy bắt được nhiều đối tượng phạm tội quả tang, đỡ tốn kém nhiều công sức trong điều tra, truy xét... Đồng thời, tạo được sự chuyển biến tích cực về trật tự an toàn xã hội, có tác động trực tiếp đến tâm lý tội phạm, nhất là các băng ổ nhóm hoạt động manh động, có tổ chức theo kiểu "xã hội đen". Hạn chế nhiều đến sự hoạt động công khai, ngang nhiên, coi thường pháp luật của bọn côn đồ, hung hãn, chống người thi hành công vụ, động viên khích lệ được đông đảo nhân dân tích cực tố giác tội phạm". 1.1.3. Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và đặc điểm hoạt động của Cảnh sát phản ứng nhanh * Về chức năng của Cảnh sát phản ứng nhanh. Cảnh sát PƯN là một bộ phận thuộc tổ chức bộ máy của ngành Công an nói chung và lực lượng CSND nói riêng. Do vậy, tổ chức và hoạt động của Cảnh sát PƯN không nằm ngoài mục đích thực hiện những nhiệm vụ cụ thể về bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn TTATXH mà Đảng, Nhà nước giao cho lực lượng CAND. Vì vậy, lực lượng Cảnh sát PƯN có những chức năng sau: - Tham mưu cho Nhà nước, lãnh đạo Công an các cấp để tổ chức chỉ đạo công tác bảo vệ trật tự công cộng, trật tự đô thị. Tham mưu đối với Nhà nước, Bộ Công an, các địa phương đề ra các chủ trương, chính sách, biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho lực lượng Cảnh sát PƯN tiếp nhận, xử lý mọi thông tin có liên quan đến ANTT một cách nhanh nhất, kịp thời nhất, góp phần chủ động ngăn chặn, đấu tranh có hiệu quả đối với mọi hoạt động của tội phạm khi được quần chúng nhân dân, các cơ quan, tổ chức báo tin. Tham mưu trực tiếp cho Công an các tỉnh, thành phố đề ra các phương án tác chiến, chiến thuật tuần tra kiểm soát, giữ gìn ANTT ở các địa bàn trọng điểm, phức tạp, nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, ổn định ANTT, phát hiện, đấu tranh kịp thời đối với hoạt động của tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật ở địa bàn công cộng. Đồng thời, Cảnh sát PƯN còn tham mưu cho Công an tỉnh, thành phố trong việc tổ chức lực lượng bảo vệ trật tự công cộng trên địa bàn quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc
  14. tỉnh. Như vậy, Cảnh sát PƯN không trực tiếp giữ gìn trật tự công cộng, trật tự đô thị, thực hiện công việc này là trách nhiệm của CSTT, Cảnh sát PƯN chỉ tham gia ở phạm vi, cấp độ tham mưu, hướng dẫn về công tác bảo vệ trật tự công cộng, trật tự đô thị. Nhận thức đúng chức năng này là cơ sở để tổ chức, phân công nhiệm vụ cho lực lượng Cảnh sát PƯN đúng theo văn bản pháp lý quy định của Bộ Công an, không phân công lực lượng Cảnh sát PƯN vừa thực hiện nhiệm vụ giữ gìn trật tự công cộng, trật tự đô thị như ở một số địa phương hiện nay. Để khắc phục tình trạng trên, Bộ Công an cần phải có văn bản quy định rõ ràng hơn về chức năng của lực lượng Cảnh sát PƯN, hướng dẫn thống nhất trong toàn quốc, phân biệt rõ sự khác biệt giữa Cảnh sát PƯN với CSTT và Cảnh sát cơ động. - Lực lượng Cảnh sát PƯN thực hiện chức năng phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác về ANTT. Chức năng trực tiếp phòng ngừa, phát hiện đấu tranh chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác về ANTT của Cảnh sát PƯN được thể hiện ở các nội dung sau: Tổ chức xây dựng các phương án, chiến thuật tuần tra kiểm soát, giữ gìn TTATXH ở các địa bàn trọng điểm, phức tạp về ANTT. Phát hiện, giải quyết, xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật về ANTT theo quy định. Chủ động phát hiện nguyên nhân, điều kiện làm nảy sinh tội phạm và đề xuất các biện pháp khắc phục. Duy trì chế độ trực ban tác chiến phản ứng nhanh 24/24 giờ trong ngày để tiếp nhận, xử lý nhanh mọi vụ việc có liên quan đến ANTT và yêu cầu chính đáng của nhân dân đề nghị Công an giúp đỡ được báo đến số điện thoại 113. Tổ chức lực lượng, chuẩn bị các điều kiện về phương tiện, cơ sở vật chất, triển khai phương án tác chiến tối ưu, đến nơi xảy ra vụ việc nhanh nhất, áp dụng các biện pháp, chiến thuật nghiệp vụ một cách linh hoạt, sáng tạo để ngăn chặn kịp thời hoạt động của tội phạm, các hành vi vi phạm pháp luật, ổn định ANTT trên địa bàn. Tiến hành các biện pháp ban đầu cần thiết, nhằm ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật; bắt giữ đối tượng phạm tội quả tang; cấp cứu người bị thương; bảo vệ hiện trường; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; tính mạng, tài sản công dân Việt Nam và người nước ngoài;
  15. ổn định tình hình TTATXH nơi xảy ra; nắm tình hình có liên quan đến vụ việc... trên cơ sở đó bàn giao cho các đơn vị nghiệp vụ và Công an các cấp giải quyết theo quy định. Như vậy, việc thực hiện chức năng này của Cảnh sát PƯN thể hiện tính phòng ngừa thông qua ngăn chặn không để cho hành vi phạm tội và các vi phạm pháp luật khác tiếp tục diễn ra hoặc khi hành vi đó đã diễn ra thì ngăn chặn không để xảy ra những hậu quả xấu, đảm bảo được sự an toàn về người, tài sản cho nhân dân. Các biện pháp thực hiện chức năng phòng ngừa, ngăn chặn đấu tranh chống tội phạm của Cảnh sát PƯN là các biện pháp khẩn cấp để trấn áp, ngăn chặn tội phạm. Phạm vi thực hiện chức năng này, Cảnh sát PƯN chỉ giải quyết ban đầu đối với vụ việc xảy ra có liên quan đến ANTT khi cán bộ, nhân dân báo đến máy điện thoại 113, không đi sâu can thiệp vào các hoạt động nghiệp vụ chuyên môn của các lực l ượng nghiệp vụ khác. * Về nhiệm vụ của Cảnh sát PƯN. Căn cứ Điều 2 Quyết định 943/2001/QĐ-BCA(X13) ngày 27 tháng 9 năm 2001 của Bộ trưởng Bộ Công an về thành lập Đội Cảnh sát PƯN ở Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, lực lượng Cảnh sát PƯN có những nhiệm vụ sau: - Tổ chức lực lượng thường trực 24/24 giờ để tiếp nhận những thông tin liên quan đến ANTT và yêu cầu chính đáng của nhân dân đề nghị Công an giúp đỡ báo đến máy điện thoại khẩn cấp 113, để kịp thời xử lý nhanh tin ban đầu theo quy định. Quy định nhiệm vụ trên để xác định rõ trách nhiệm của lực lượng Cảnh sát PƯN phải thường xuyên tổ chức lực lượng ứng trực để tiếp nhận mọi thông tin có liên quan đến ANTT khi công dân, các cơ quan, tổ chức báo đến máy điện thoại 113 và những tin khác khi nhân dân yêu cầu sự giúp đỡ can thiệp của Công an. - Điều động lực lượng phản ứng nhanh đến nơi xảy ra vụ việc tiến hành các biện pháp ban đầu cần thiết, nhằm ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật; bắt giữ đối tượng phạm tội quả tang; cấp cứu người bị thương; bảo vệ hiện trường; bảo vệ tài sản của Nhà nước, tập thể; tính mạng, tài sản công dân Việt Nam và người nước ngoài; ổn định tình hình TTATXH nơi xảy ra; nắm tình hình có liên quan đến vụ việc... trên cơ sở đó bàn giao cho các đơn vị nghiệp vụ và Công an các cấp giải quyết theo quy định.
  16. Nhiệm vụ trên mang tính cấp bách để phòng ngừa, ngăn chặn ngay những hành vi vi phạm pháp luật, phạm tội. Nhiệm vụ của lực lượng Cảnh sát PƯN khi giải quyết các vụ việc tại hiện trường là các biện pháp giải quyết ban đầu để ổn định tình hình, không phải là hoạt động điều tra, khám phá, nhưng sẽ là cơ sở, tạo điều kiện thuận lợi cho các lực lượng nghiệp vụ khác điều tra, xử lý, giải quyết ở giai đoạn tiếp theo. - Truyền đạt, thông báo mệnh lệnh của Giám đốc Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về những thông tin liên quan của vụ việc đến các đơn vị nghiệp vụ, Công an các cấp để giải quyết theo thẩm quyền. - Trực tiếp tuần tra kiểm soát giữ gìn TTATXH ở địa bàn phức tạp và trọng điểm. Phát hiện, giải quyết, xử lý các hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật. Lực lượng Cảnh sát PƯN thực hiện nhiệm vụ tuần tra kiểm soát chỉ tập trung ở những địa bàn phức tạp, trọng điểm, không tiến hành tuần tra kiểm soát thường xuyên ở các địa bàn công cộng như lực lượng CSTT và Công an cơ sở. Tuy vậy, trong nhiệm vụ này cần phải quy định rõ hơn hoạt động tuần tra kiểm soát của lực lượng Cảnh sát PƯN khác gì với hoạt động tuần tra kiểm soát của lực lượng Cảnh sát cơ động, vì trên thực tế tuần tra kiểm soát của lực lượng Cảnh sát cơ động cũng được tiến hành ở các địa bàn trọng điểm, phức tạp vào những thời gian trọng điểm. - Tham mưu giúp Trưởng phòng chỉ đạo, hướng dẫn lực lượng Cảnh sát trật tự ở Công an quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thực hiện công tác bảo vệ trật tự công cộng, trật tự đô thị. Năm nhiệm vụ quy định trong văn bản của Bộ Công an là cơ sở pháp lý để điều chỉnh hoạt động của lực lượng Cảnh sát PƯN, giúp Công an các địa phương có chỗ dựa về mặt pháp lý để hướng dẫn, tổ chức, chỉ đạo hoạt động của lực lượng Cảnh sát PƯN trong thực tế công tác, chiến đấu. Trong các nhiệm vụ đó có hai nhiệm vụ mang tính chất cơ bản, đặc thù của Cảnh sát PƯN là: Tổ chức lực lượng và phương tiện cần thiết để tiếp nhận đầy đủ các thông tin về ANTT báo cho Công an qua hệ thống điện thoại khẩn cấp 113; tổ chức lực lượng ứng trực 24/24 giờ để sẵn sàng nhanh chóng cơ động nhanh đến nơi xảy ra vụ việc để giải quyết ban đầu, tiến hành ngay các biện pháp khẩn cấp để ngăn
  17. chặn hành vi vi phạm pháp luật đang hoặc sắp xảy ra nhằm hạn chế thiệt hại, giảm tính chất nghiêm trọng, nguy hiểm, tiến hành truy bắt đối tượng phạm tội quả tang, yêu cầu người vi phạm, người liên quan về trụ sở Công an gần nhất để giải quyết, tiến hành bảo vệ hiện trường, bảo vệ dấu vết, ổn định tình hình trật tự, tổ chức cấp cứu người bị thương. Tuy nhiên, theo các quy định hiện hành, trong các nhiệm vụ của Cảnh sát PƯN, chưa có nhiệm vụ nào quy định về mối quan hệ phối hợp giữa lực lượng Cảnh sát PƯN với các lực lượng nghiệp vụ khác và với Công an các cấp trong quá trình giải quyết các vụ việc phức tạp về ANTT xảy ra. Chúng tôi cho rằng, cần phải quy định rõ vấn đề này để xác định trách nhiệm của các lực lượng nghiệp vụ và Công an địa phương trong phối hợp với lực lượng Cảnh sát PƯN giải quyết triệt để, có hiệu quả các vụ việc phức tạp xảy ra. Cùng với việc quy định nhiệm vụ của lực lượng Cảnh sát PƯN, trong các văn bản pháp lý cũng cần quy định rõ quyền hạn của lực lượng này để đảm bảo cho việc thực hiện nhiệm vụ, như: thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính, thẩm quyền trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn và đảm bảo việc xử lý vi phạm hành chính, thẩm quyền khám người trong trường hợp phạm tội quả tang... Ngoài ra, theo chúng tôi, cần phải bổ sung thêm nhiệm vụ "Tổ chức xây dựng lực lượng Cảnh sát phản ứng nhanh vững vàng về phẩm chất chính trị, trong sáng về đạo đức, giỏi về nghiệp vụ chuyên môn, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà cấp trên giao phó". * Về tổ chức bộ máy của Cảnh sát PƯN. Căn cứ Quyết định số 943/2001/QĐ-BCA(X11) của Bộ trưởng Bộ Công an về thành lập Đội Cảnh sát PƯN ở Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thì tổ chức bộ máy của Cảnh sát PƯN được quy định như sau: + ở Công an cấp tỉnh: Đội Cảnh sát phản ứng nhanh được thành lập thuộc phòng CSTT (đối với địa phương có phòng CSTT) hoặc thuộc phòng Cảnh sát QLHC về TTXH Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. + ở Công an cấp huyện: đối với các thành phố trực thuộc Trung ương, được thành lập Đội Cảnh sát PƯN thuộc Công an quận, huyện. ở các địa phương khác, Đội
  18. CSTT thuộc Công an huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (nơi có Đội CSTT) thực hiện chức năng phản ứng nhanh và những yêu cầu của Đội Cảnh sát PƯN theo quy định. + ở cấp phường: không có lực lượng Cảnh sát PƯN chuyên trách, mà Công an phường phải tổ chức thực hiện chức năng PƯN trên địa bàn phường. Đội Cảnh sát PƯN do Đội trưởng chỉ huy có từ 1 đến 2 Phó Đội trưởng giúp việc và một số cán bộ chiến sĩ, do Giám đốc quyết định trong tổng biên chế Bộ ấn định cho Công an tỉnh, thành phố. Đội Cảnh sát PƯN có trụ sở thường trực và số máy điện thoại khẩn cấp gọi Công an là 113, được trang bị các phương tiện thông tin liên lạc, phương tiện giao thông và công cụ hỗ trợ cần thiết đảm bảo yêu cầu chiến đấu PƯN. * Về đặc điểm hoạt động của Cảnh sát PƯN. - Cảnh sát PƯN là lực lượng thường xuyên thường trực chiến đấu 24/24 giờ, tiếp nhận, xử lý nhanh ban đầu các vụ việc có liên quan đến ANTT xảy ra do nhân dân, các cơ quan, tổ chức báo tin. Khác với các lực lượng nghiệp vụ khác, yêu cầu đặt ra đối với hoạt động của Cảnh sát PƯN là mọi thông tin có liên quan đến ANTT được báo đến số điện thoại 113 phải được tiếp nhận và xử lý một cách nhanh nhất. Mục đích hoạt động của Cảnh sát PƯN là ngăn chặn, đấu tranh ban đầu với các vụ việc về ANTT và hoàn tất các thủ tục để chuyển giao cho các đơn vị nghiệp vụ và Công an cơ sở. Vì vậy, Cảnh sát PƯN đến hiện trường càng sớm thì khả năng ngăn chặn tội phạm càng cao và hậu quả để lại càng nhỏ. Với phương thức hoạt động cơ động nhanh và phương tiện tiếp nhận thông tin thuận tiện, nên các thông tin liên quan đến hoạt động của tội phạm và các vi phạm pháp luật thường được cán bộ, nhân dân báo đến số điện thoại khẩn cấp 113. Điều này đòi hỏi lực lượng Cảnh sát PƯN phải tổ chức lực lượng thường trực chiến đấu 24/24 giờ trong ngày để tiếp nhận, xử lý kịp thời các thông tin đó. Do tính cấp bách của các vụ việc xảy ra nên đòi hỏi Cảnh sát PƯN phải nhanh chóng điều động lực lượng đến nơi xảy ra vụ việc, tiến hành các các biện pháp khẩn cấp ngăn chặn kịp thời những hành vi nguy hiểm cho xã hội, trấn áp, bắt giữ đối tượng phạm tội quả tang, bảo vệ an toàn tính mạng con
  19. người, tài sản của Nhà nước, tập thể, tài sản công dân, nhanh chóng ổn định tình hình TTATXH ở nơi xảy ra vụ việc. Như vậy, Cảnh sát PƯN làm nhiệm vụ giải quyết ban đầu các vụ việc xảy ra có liên quan đến ANTT để ổn định tình hình, không đi sâu vào các hoạt động nghiệp vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm của các lực lượng nghiệp vụ khác. Tuy vậy, Cảnh sát PƯN thực hiện nhiệm vụ giải quyết nhanh, ban đầu các vụ việc xảy ra là cơ sở rất quan trọng để nâng cao khả năng ngăn chặn tội phạm, làm giảm đến mức thấp nhất hậu quả thiệt hại do tội phạm gây ra, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các lực lượng nghiệp vụ và Công an các cấp giải quyết có hiệu quả các vụ việc đó ở giai đoạn tiếp theo. Từ đặc điểm trên cho thấy, khi giải quyết các vụ việc xảy ra có liên quan đến ANTT do cán bộ, nhân dân báo đến số điện thoại khẩn cấp 113 cần phải phân định rõ chức năng, nhiệm vụ giải quyết của lực lượng Cảnh sát PƯN và chức năng nhiệm vụ giải quyết của các lực lượng nghiệp vụ khác, đồng thời phải có quy chế phối hợp chặt chẽ giữa lực l ượng Cảnh sát PƯN với các lực lượng nghiệp vụ khác có liên quan trong giải quyết các vụ việc xảy ra có liên quan đến ANTT. - Hoạt động của Cảnh sát PƯN mang tính chiến đấu cao, tính cơ động nhanh để giải quyết kịp thời những vụ việc nguy hiểm, cấp bách xảy ra có liên quan đến ANTT. Các vụ việc xảy ra có liên quan đến ANTT do công dân và các cơ quan, tổ chức báo đến số điện thoại khẩn cấp 113 phần lớn là những vụ việc nguy hiểm, phức tạp, liên quan đến hoạt động của các loại tội phạm hình sự nguy hiểm hoạt động táo bạo, mang tính côn đồ hung hãn, sử dụng các loại vũ khí đâm thuê, chém mướn, thanh toán lẫn nhau giữa các băng, nhóm tội phạm hoặc là các vụ việc mâu thuẫn phức tạp trong nội bộ nhân dân có nguy cơ dễ dẫn đến phạm pháp hình sự... Vì vậy, để phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn kịp thời hoạt động của các loại tội phạm nguy hiểm và các vi phạm pháp luật khác về ANTT, bảo vệ an toàn tính mạng, tài sản công dân, đòi hỏi việc tổ chức lực lượng, chỉ đạo, chỉ huy lực lượng Cảnh sát PƯN trong tiếp nhận, xử lý thông tin, giải quyết vụ việc xảy ra, đều thể hiện tính mệnh lệnh chiến đấu của lực lượng vũ trang; các phương án, kế hoạch triển khai lực lượng phải đảm bảo tính nhanh chóng, kịp thời, có đủ lực lượng, phương tiện cần thiết, có mặt nhanh nhất tại nơi xảy ra vụ việc. Phương án, chiến thuật trấn áp tội phạm, ngăn chặn hoạt động của tội phạm, các hành vi vi phạm pháp luật, xử lý
  20. các tình huống phức tạp mang tính chiến đấu cao, bảo vệ an toàn tính mạng, tài sản công dân, triệt tiêu các điều kiện, vô hiệu hóa hoạt động, không để bọn tội phạm tiếp tục gây nguy hiểm cho xã hội, nhanh chóng lập lại sự ổn định tình hình TTATXH ở nơi xảy ra vụ việc. Điều đó đòi hỏi việc tổ chức lực lượng Cảnh sát PƯN phải đảm bảo có đủ số lượng cần thiết theo mô hình thành các đơn vị trực chiến, thường trực chiến đấu, luôn trong tư thế sẵn sàng nhận nhiệm vụ, ứng phó, điều động lực lượng kịp thời để giải quyết các vụ việc phức tạp xảy ra khi công dân, các cơ quan, tổ chức báo tin, yêu cầu hỗ trợ giúp đỡ. Cũng từ đặc điểm trên đòi hỏi các cán bộ chiến sĩ lực lượng Cảnh sát PƯN phải được lựa chọn, bồi dưỡng, huấn luyện đảm bảo có sức khỏe tốt, có bản lĩnh cao, có trình độ tác chiến trong xử lý tình huống, được trang bị vũ khí, phương tiện mang tính chiến đấu. - Hoạt động của Cảnh sát PƯN luôn đặt trong điều kiện nguy hiểm, phức tạp, trực tiếp đối đầu với những đối tượng có hành vi côn đồ, hung hãn, manh động, hoạt động táo bạo trắng trợn, sử dụng hung khí chống đối người thi hành công vụ. Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của lực lượng Cảnh sát PƯN được quy định tại Quyết định số 943/2001/QĐ-BCA(X13) ngày 27/9/2001 của Bộ trưởng Bộ Công an cho thấy: khi tiếp nhận thông tin về các vụ việc phức tạp xảy ra liên quan đến ANTT, lực lượng Cảnh sát PƯN phải đến ngay nơi xảy ra vụ việc tiến hành các biện pháp giải quyết ban đầu. Các hoạt động đó là: bằng mọi cách phải ngăn chặn ngay hành vi phạm tội, hành vi vi phạm pháp luật, bắt giữ đối tượng phạm tội; xử lý các tình huống phức tạp, nguy hiểm đe dọa trực tiếp đến sự an toàn về tính mạng con người, tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Trong thực tế, khi tiến hành các hoạt động trên, lực lượng Cảnh sát PƯN thường xuyên phải đối mặt với các tội phạm nguy hiểm, hoạt động manh động, táo bạo, những đối tượng côn đồ, hung hãn, sẵn sàng sử dụng hung khí chống trả lại l ực lượng Cảnh sát. Điều đó đòi hỏi lực lượng Cảnh sát PƯN phải có tinh thần trách nhiệm cao trước nhiệm vụ, công việc được giao, có bản lĩnh nghề nghiệp, mưu trí, dũng cảm, sẵn sàng vượt mọi khó khăn, trở ngại với tinh thần cảnh giác cao, chủ động tấn công tội phạm, linh hoạt, sáng tạo trong sử dụng các chiến thuật, biện pháp xử lý các tình huống nguy hiểm phức tạp để vừa đảm bảo an toàn về người, tài sản cho cán bộ, nhân dân, vừa đảm bảo được sự an toàn lực lượng trong đấu tranh ngăn chặn hoạt động của tội phạm.
nguon tai.lieu . vn