Xem mẫu

  1. BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH --------------------------- Nguyễn Thị Mai Thu Chuyên ngành : Quản lý giáo dục Mã số : 60 14 05 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS BÙI NGỌC OÁNH Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
  2. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BGD&ĐT : Bộ Giáo dục và đào tạo BGH : Ban Giám hiệu BLV : Bình luận viên BTV : Biên tập viên CĐ PT-TH II : Cao đẳng Phát thanh- Truyền hình II CNH-HĐH : Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa ĐH : Đại học ĐHQG : Đại học Quốc gia ĐH KHXH&NV : Đại học Khoa học xã hội và nhân văn GD-ĐT : Giáo dục- Đào tạo GS : Giáo sư GS. VS : Giáo sư Viện sĩ GS. TS : Giáo sư Tiến sĩ GS.TSKH : Giáo sư Tiến sĩ Khoa học GV : Giáo viên KT : Kỹ thuật NXB : Nhà xuất bản PGS : Phó Giáo sư PGS. TS : Phó Giáo sư Tiến sĩ TW : Trung ương TNVN : Tiếng nói Việt Nam TP : Thành phố SV : Sinh viên sx : sản xuất SP : Sư phạm UBND : Ủy ban nhân dân XHCN : Xã hội chủ nghĩa
  3. LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng Khoa học Công nghệ - Sau đại học Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và giúp đỡ tôi trong suốt khóa học và trong việc hoàn thành luận văn này. Xin chân thành cảm ơn quý thầy cô giáo đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn, đóng góp nhiều ý kiến quý báu cho chúng tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu. Xin cảm ơn Ban giám hiệu trường Cao đẳng Phát thanh - Truyền hình II, các bạn đồng nghiệp đã hỗ trợ, giúp đỡ, động viên tạo điều kiện để chúng tôi yên tâm học tập. Đặc biệt, xin bày tỏ lòng biết ơn đến PGS.TS. Bùi Ngọc Oánh, người đã tận tâm hướng dẫn, chỉ bảo để chúng tôi hoàn thành luận văn này. Thành phố Hồ Chí Minh ngày tháng năm Tác giả Nguyễn Thị Mai Thu
  4. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội Đảng lần thứ X đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển giáo dục: “Ưu tiên hàng đầu cho việc nâng cao chất lượng dạy và học. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và tăng cường cơ sở vật chất của nhà trường, phát huy khả năng sáng tạo và độc lập suy nghĩ của học sinh.” Ở hệ thống các trường đại học, cao đẳng, đổi mới giáo dục bắt nguồn từ đổi mới phương pháp dạy học của người thầy, trong đó phải lấy việc phát triển năng lực thực hành, năng lực giải quyết vấn đề của sinh viên làm định hướng. Công tác thực tập là khâu quan trọng quyết định chất lượng, khả năng làm nghề của sinh viên sau khi ra trường. Tại buổi hội thảo “ Công tác thực tập sư phạm ở các trường sư phạm” được tổ chức ngảy 29/04/2008 tại trường ĐHSP Tp HCM, 49 bài tham luận của các tác giả từ các viện nghiên cứu, trường đại học, cao đẳng, sở GDĐT…đã chia sẻ các ý kiến về thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng thực tập, qua đó nhận định rằng công tác thực tập hiện nay của các trường hầu như bị thả nổi, chưa được coi trọng như công tác đào tạo chuyên môn. Vì thế, việc nâng cao chất lượng thực tập là vấn đề phải được đặc biệt coi trọng, và cần được thực hiện trong thời gian tới. 1.2. Thực tập là một phần rất quan trọng trong chương trình đào tạo báo chí. Đây là cơ hội quý giá để sinh viên báo chí tác nghiệp tại các cơ quan báo đài, rèn luyện năng lực cho bản thân, tích lũy kinh nghiệm trước khi chính thức bước vào nghề báo. Đợt thực tập sẽ giúp sinh viên báo chí có điều kiện tiếp cận, cọ sát thực tế sau phần học lý thuyết; đồng thời cũng là dịp để sinh viên nắm bắt một cách hoạt động của các cơ quan báo chí, học hỏi nghiệp vụ báo chí, kiểm tra và rèn luyện năng lực của chính bản thân mỗi người. Cũng thông qua đợt thực tập, các em có dịp tôi rèn năng khiếu chuyên môn (viết, đọc, nói); khả năng ứng xử nhạy bén, thông minh; kỹ năng giao tiếp, phẩm chất đạo đức của một nhà báo tương lai, đáp ứng tốt nhất yêu cầu vốn rất khắc khe của cơ quan báo chí nói riêng và xã hội nói chung về một phóng viên báo chí. Trong từ 2 đến 3 năm được đào tạo tại trường Cao đẳng Phát thanh- truyền hình II (CĐ PT-TH II), sinh viên và học sinh có đợt thực tập vào học kỳ cuối của năm 2 (đối với học sinh hệ Trung cấp), và vào học kỳ cuối của năm 3 (đối với sinh viên hệ Cao đẳng). Đợt thực tập là dịp để các em có điều kiện tiếp xúc với môi trường thực tế, con người thực tế, hoàn cảnh thực tế,
  5. trên cơ sở vận dụng những kiến thức đã học để sáng tạo ra những tác phẩm báo chí có chất lượng, sử dụng được trên các phương tiện thông tin đại chúng, được bạn đọc, công chúng chấp nhận. Từ ngày thành lập đến nay, việc tổ chức và quản lý thực tập ở trường Cao đẳng PT-TH II đã được các thế hệ Ban giám hiệu quan tâm chỉ đạo và thực hiện, song nhìn lại vẫn còn một số tồn tại. Nhất là trong giai đoạn trước mắt, trường vừa được nâng cấp lên hệ Cao đẳng với số lượng sinh viên tăng cao, đòi hỏi phải có kế hoạch tương ứng. 1.3. Nghiên cứu khoa học về vấn đề thực tập nghề cho học sinh sinh viên nói chung đã có nhiều tài liệu, luận văn thạc sĩ khác đề cập, song chưa có một công trình nghiên cứu về quản lý thực tập báo chí của ngành Phát thanh-Truyền hình khu vực phía Nam. Vì vậy, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Thực trạng việc quản lý thực tập báo chí tại trường Cao đẳng Phát thanh- Truyền hình II”, với mong muốn góp phần nâng cao hiệu quả thực tập cho học sinh, sinh viên; thực hiện phương châm giáo dục đúng đắn của Đảng “Học đi đôi với hành”. 2. Mục đích nghiên cứu Phân tích thực trạng của việc quản lý thực tập của trường Cao đẳng PT-TH II trong những năm qua, để tìm ra những giải pháp cụ thể nhằm giúp nhà trường, các bộ phận có liên quan có thể quản lý việc thực tập của học sinh hệ trung học chuyên nghiệp và sinh viên hệ cao đẳng một cách chặt chẽ, hiệu quả hơn. 3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu -Thực trạng công tác quản lý thực tập báo chí tại trường CĐ PT-TH II. 3.2. Khách thể nghiên cứu - Hoạt động thực tập của sinh viên khoa báo chí trường CĐ PT-TH II. - Sinh viên trường Cao đẳng PT-TH II. - Giáo viên trường Cao đẳng PT-TH II. 4. Phạm vi nghiên cứu - Công tác quản lý việc thực tập báo chí ở khoa báo chí trường CĐ PT-TH II. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu, đề tài tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau: - Xây dựng những cơ sở lý luận liên quan đến việc thực tập và quản lý thực tập báo chí. - Thực trạng việc quản lý thực tập báo chí của trường CĐ PT-TH II. - Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý thực tập.
  6. 6. Giả thuyết nghiên cứu Việc quản lý thực tập báo chí của trường Cao đẳng PTTH II từ trước đến nay đã dạt được những kết quả nhất định, song vẫn còn một số tồn tại trong một số khâu như việc chuẩn bị cho kỳ thực tập, tổ chức thực tập…. Vì vậy, nếu đánh giá đúng thực trạng, xác định được nguyên nhân, nêu được ra các giải pháp quản lý khoa học, chủ động, phù hợp hơn với tình hình thực tế sẽ giúp nhà trường quản lý tốt hơn việc thực tập của sinh viên, góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy ở trường Cao đẳng PTTH II. 7. Phương pháp nghiên cứu 7.1. Phương pháp điều tra bằng phiếu - Xây dựng phiếu trưng cầu ý liến dựa trên cơ sở lý luận, mục đích nghiên cứu, trong đó gồm  Câu hỏi dành cho sinh viên  Câu hỏi dành cho giáo viên, cán bộ quản lý - Xử lý số liệu, thống kê, tính phần trăm, bình luận từng vấn đề. 7.2. Phương pháp phỏng vấn Nhằm tìm hiểu những thuận lợi, khó khăn, mong muốn, nguyện vọng của các em về việc thực tập, những ý kiến đóng góp đề xuất về việc quản lý của trường, khoa cho việc thực tập. Đối tượng phỏng vấn:  Cán bộ quản lý  Giáo viên hướng dẫn  Sinh viên thực tập  Cơ sở hướng dẫn thực tập 7.3. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm để đánh giá chất lượng:  Nhận xét kết quả học tập các môn báo chí của sinh viên.  Nhận xét kết quả thực tập tại cơ sở.  So sánh, đối chiếu, đánh giá, phân loại, tổng kết. 7.4. Phương pháp nghiên cứu tài liệu  Nghiên cứu các văn bản về chủ trương, chính sách của Bộ giáo dục đào tạo, Nghị quyết của Đảng, văn bản của Ngành giáo dục.  Tham khảo các nguồn tư liệu từ sách báo, tạp chí, internet có liên quan đến vấn đề nghiên cứu. 7.5. Phương pháp quan sát
  7. Thực hiện bằng cách tiếp cận, xem xét để thu thập dữ liệu thực tế về hoạt động thực tập và hoạt động quản lý thực tập, để đánh giá sự phù hợp giữa phương pháp quan sát và phương pháp điều tra. Đối tượng quan sát: Phòng đào tạo, Khoa báo chí, Sinh viên khoa báo chí, các Trưởng phó khoa, các cơ sở tiếp nhận sinh viên đến thực tập. Mục đích của việc quan sát là tìm hiểu thực trạng của việc quản lý thực tập của Phòng đào tạo, Khoa báo chí, sự phối hợp với các bộ phận có liên quan. 7.6. Phương pháp sử dụng toán thống kê Dùng toán thống kê xử lý số liệu điều tra, phân tích kết quả nghiên cứu, định lượng chính xác từng nội dung, nâng cao tính thuyết phục của các số liệu được nêu ra trong luận văn.
  8. Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Hoạt động thực tập nói chung từ lâu đã được thực hiện ở các trường Sư phạm, Y khoa… Vấn đề thực tập không phải là một vấn đề hoàn toàn mới lạ, xuất phát từ yêu cầu rèn luyện nâng cao tay nghề cho sinh viên, tạo điều kiện cho sinh viên tiếp xúc với môi trường thực tế, trên cơ sở vận dụng những kiến thức đã học; vấn đề này đã được nhiều nhà khoa học, giáo dục quan tâm nghiên cứu. Bộ giáo dục và Đào tạo (GD-ĐT) đã ban hành bộ chương trình thực tập sư phạm thống nhất cho tất cả các trường sư phạm. Qua nhiều lần chỉnh sửa, thay đổi, bổ sung (vào các năm 1974, 1982, 1986), chương trình thực tập sư phạm chính thức được áp dụng tại các trường Cao đẳng sư phạm hiện nay. Đó chính là bộ chương trình được ban hành kèm theo các Quyết định số 3086/GD-ĐT ngày 27/7/1996, Quyết định số 3637/GD-ĐT ngày 30/8/1996 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục. Đã có nhiều công trình nghiên cứu dưới nhiều dạng khác nhau, nhằm mục đích nâng cao chất lượng thực tập như: + Các Hội thảo, Hội nghị chuyên đề những năm gần đây: - Hội thảo “Công tác thực tập sư phạm ở các trường sư phạm” do Viện nghiên cứu Giáo dục tổ chức tháng 04/2008, xoay quanh các vấn đề đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng công tác thực tập sư phạm. - Hội thảo hoa học Quốc gia “Sinh viên với đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội, nhu cầu đất nước” do GS.TSKH Nguyễn Thiện Nhân- Bộ trưởng Bộ GD-ĐT- Phó thủ tướng chính phủ chủ trì, ngày 20/8/2008, nhấn mạnh việc ngành giáo dục chủ động xây dựng chương trình chú trọng thực học, thực hành, chuẩn bị kỹ năng nghề cho người học; các cơ sở đào tạo tăng cường tổ chức các hoạt động, các loại hình câu lạc bộ để sinh viên có điều kiện rèn luyện các kỹ năng liên quan đến nghề, phát huy đựơc năng lực của bản thân sau khi ra trường. - Hội thảo “Công tác thực tập và đào tạo báo chí” do khoa Báo chí Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội tổ chức ngày 19/04/2008. - Hội thảo “Thực hành về nghiệp vụ Báo chí” do Chi cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng Bắc Giang tổ chức trong 2 ngày 7, 8/4/2008.
  9. - Hội thảo khoa học “Đào tạo Báo chí đáp ứng nhu cầu xã hội, thực tiễn và những vấn đề đặt ra” do Học viện Báo chí và tuyên truyền tổ chức ngày 22/04/2008. Hội thảo tập trung thảo luận về chất lượng sinh viên ra trường; đổi mới phương pháp đào tạo; bồi dưỡng cán bộ làm công tác giảng dạy; tăng cường sự liên kết giữa nhà trường và các cơ quan báo chí. - Hội thảo “Tiềm năng và khả năng của Trường Đại học Tiền Giang trong hợp tác về khoa học công nghệ”, nhấn mạnh việc phối hợp tổ chức hướng dẫn sinh viên khối ngành kỹ thuật, công nghiệp thực hành, thực tập tại các Trung tâm chuyển giao công nghệ của Sở công nghệ. - Hội thảo khoa học “Xây dựng chương trình thống nhất cho trình độ Cao đẳng” của Trường Cao đẳng PT-TH I kết hợp với Trường Cao đẳng PT-TH II tổ chức (Từ ngày 26 đến 28/07/2007), nhấn mạnh việc tăng cường thời lượng thực hành, kỹ năng tác nghiệp cho sinh viên báo chí; tiến tới đào tạo theo chế tín chỉ theo qui định của Bộ GD-ĐT. + Một số đề tài nghiên cứu khoa học: - “Thực trạng việc quản lý thực tập ở trường Cao đẳng bán công hoa sen và một số giải pháp” (2004)–Luận văn thạc sĩ của tác giả Bùi Trân Thúy- Trường Cao đẳng bán công Hoa sen. Đây là một công trình nghiên cứu phân tích thực trạng của việc quản lý thực tập của trường Hoa Sen. Từ đó đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm giúp cho nhà trường, các bộ phận liên quan, các khoa, ngành có thể quản ký việc thực tập của sinh viên một cách chặt chẽ, hiệu quả hơn. -“Quản lý hoạt động thực tập sư phạm ở trường Cao đẳng sư phạm Nha Trang- Thực trạng và giải pháp” (2003) – Luận văn thạc sĩ của tác giả Phan Phú- Trường Cao đẳng sư phạm Nha Trang. Đây là một công trình nghiên cứu đi sâu vào việc phân tích thực trạng của việc quản lý thực tập tại trường Cao đẳng sư phạm Nha Trang, các nguyên nhân dẫn đến thực trạng, để từ đó đưa ra những giải pháp căn cứ trên các điều kiện thực tế của trường nhằm quản lý tốt hơn hoạt động thực tập. -“Kiến tập và thực tập sư phạm” (1999) – Giáo trình đào tạo giáo viên Trung học cơ sở hệ Cao Đẳng sư phạm dùng cho các trường Cao Đẳng sư phạm của Tiến sĩ Nguyễn Đình Chỉnh và Tiến sĩ Phan Trung Thanh. Các tác giả đã nêu lên những vấn dề đang được đặt ra hiện nay đối với hoạt động thực tập sư phạm và đề xuất những giải pháp khắc phục nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho giáo sinh.
  10. -“Thực tập sư phạm” (1997) của Tiến sĩ Nguyễn Đình Chỉnh đã nêu lên và giải quyết những vấn đề cơ bản như: xác định nội hàm khái niệm cơ bản là năng lực sư phạm; mối quan hệ giữa lý thuyết và thực hành; thực tập sư phạm đối với những môn học công cụ như: tâm lý học, giáo dục học, phương pháp dạy học bộ môn; các hình thức tổ chức thực tập sư phạm ở các trường sư phạm. Như vậy, các đề tài quản lý hoạt động thực tập tuy chưa nhiều nhưng thực sự là vấn đề được nhiều người quan tâm nghiên cứu và cần được tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về từng chuyên ngành. Với nguồn tài liệu thu thập được, chúng tôi nhận thấy chưa có tác giả nào đề cập và nghiên cứu vấn đề này ở phạm vi một trường Cao đẳng giảng dạy báo chí, nên đã chọn đề tài “Thực trang quản lý thực tập báo chí tại trường Cao đẳng phát thanh-truyền hình II”. Những công trình nghiên cứu nêu trên sẽ là cơ sở khoa học để tham khảo, giúp chúng tôi nắm chắc, sâu hơn về lĩnh vực nghiên cứu. 1.2. Cơ sở lý luận 1.2.1. Một số quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước 1.2.1.1. Về giáo dục đào tạo Đảng cộng sản Việt Nam luôn khẳng định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Văn kiện Đại hội Đảng VII ghi rõ: “Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo được xem là quốc sách hàng đầu, đóng vai trò then chốt trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc, là một động lực đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu; vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới”. Một trong những giải pháp phát triển giáo dục ở nước ta từ nay đến năm 2010 được chính phủ trình trước Quốc hội tháng 10 năm 2004 là: “Tập trung đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy học…giảm bớt giờ lên lớp, tăng thời gian tự học và thảo luận chuyên đề” Mục tiêu phát triển các cấp bậc học, trình độ và loại hình giáo dục được ghi rõ trong Chiến lược phát triển giáo dục 2001- 2010: “Phát triển giáo dục không chính quy như là một hình thức huy động tiềm năng của cộng đồng để xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội cho mọi người, ở mọi trình độ, lứa tuổi, mọi nơi có thể học tập suốt đời, phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của mỗi cá nhân, góp phần nâng cao dân trí và chất lượng nguồn nhân lực”. [17] Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX tiếp tục khẳng định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy động lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Tiếp tục nâng cao
  11. chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lí giáo dục; “thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa”. Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề, đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân bằng những hình thức giáo dục chính quy và không chính quy, thực hiện “giáo dục cho mọi người”, “cả nước trở thành một xã hội học tập”. Thực hiện phương châm “Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn với xã hội”. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta ngày càng coi trọng vai trò của giáo dục, quan tâm nhiều hơn, đòi hỏi giáo dục phải đổi mới và phát triển, đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của tầng lớp nhân dân về học tập và tiếp thu những kiến thức, kĩ năng nghề nghiệp, rèn luyện những phẩm chất, năng lực cần thiết trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập nền kinh tế quốc tế. Phương hướng phát triển giáo dục trong những năm sắp tới là phải: Tiếp tục nâng cao chất lượng toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, phát huy tinh thần độc lập, sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề. Để thực hiện được nhiệm vụ trên, cần phải đặc biệt coi trọng công tác hướng nghiệp và phân luồng cho học sinh, chuẩn bị cho thanh niên, thiếu niên đi vào lao động nghề nghiệp; mở rộng quy mô và phát triển đa dạng các loại hình trường Trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Hiện đại hóa một số trường dạy nghề, tăng nhanh tỷ lệ lao động được đào tạo trong toàn bộ lao động xã hội. Đào tạo để thế hệ trẻ có nghề nghiệp theo yêu cầu của xã hội là nhiệm vụ trước mắt mà ngành giáo dục phải đặc biệt quan tâm. Trong hệ thống giáo dục quốc dân, hệ thống giáo dục đại học- cao đẳng chiếm một vị trí vô cùng quan trọng. Vì thế, nâng cao chất lượng giáo dục cao đẳng, đại học để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn giáo dục, thiết thực phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước là yêu cầu bức thiết trong giai đoạn hiện nay. Điều 36 của Luật giáo dục đã ghi: “Đào tạo trình độ cao đẳng phải đảm bảo cho sinh viên có những kiến thức khoa học cơ bản và chuyên ngành cần thiết; chú trọng rèn luyện kỹ năng cơ bản và năng lực thực hiện công tác chuyên môn”. Nét đặc thù cơ bản trong nội dung và phương pháp đào tạo ở các trường cao đẳng, đại học chính là đào tạo nghề. Trong đào tạo nghề thì việc rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp cho sinh viên để đáp ứng nhu cầu của thực tế xã hội là một yêu cầu phải đựơc đặt lên hàng đầu. Do vậy, nội dung thực hành, thực tập phải chiếm một tỷ trọng khá lớn trong nội dung chương trình đào
  12. tạo. Nâng cao chất lượng đào tạo nghề, cũng chính là thực hiện theo tinh thần của Nghị quyết IX: “Đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tư duy sáng tạo và năng lực tự đào tạo của người học, coi trọng thực hành, thực nghiệm, ngoại khóa, làm chủ kiến thức, tránh nhồi nhét, học vẹt, học chay”. Quy định về “Công tác hướng nghiệp, tư vấn việc làm trong các cơ sở giáo dục đại học và trung cấp chuyên nghiệp” (Ban hành kèm theo Quyết định số: 68/2008/QĐ-BGDĐT ngày 09/12/2008 của Bộ trưởng Bộ giáo dục đào tạo) cũng ghi rõ: các đơn vị đào tạo cần “ Tăng cường sự phối hợp giữa cơ sở giáo dục với đơn vị sử dụng lao động để việc đào tạo của nhà trường tiếp cận với thực tiễn và đáp ứng nhu cầu của xã hội; Tổ chức câu lạc bộ hướng nghiệp, hoạt động ngoại khóa, giao lưu với đơn vị sử dụng lao động, giúp người học bổ sung kiến thức thực tế và kỹ năng cần thiết để hòa nhập với môi trường làm việc sau khi tốt nghiệp”. Những ý kiến có giá trị trên đây về trách nhiệm trong việc giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ cho chúng ta thấy mục tiêu đào tạo ở nhà trường bậc cao đẳng, đại học là cung cấp kiến thức chuyên môn, rèn luyện kỹ năng cho sinh viên bằng cách tạo điều kiện để sinh viên thực tập, tiếp xúc, va chạm với thực tế. Chính vì vậy, việc thực tập có một vai trò quan trọng trong quá trình đào tạo, nhất là đối với bậc cao đẳng, đại học. 1.2.1.2. Về công tác báo chí trong sự nghiệp đổi mới của đất nước Đất nước ta đã có hơn 20 năm đổi mới, bản thân báo chí cũng đổi mới chính mình, với tốc độ phát triển khá nhanh so với trước đây. Đội ngũ báo chí Việt Nam đã chung lòng, chung sức, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đổi mới của đất nước. Nhiều tác phẩm báo chí đã nhanh nhạy tuyên truyền và cổ vũ các tầng lớp nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; phát hiện và đề xuất những ý kiến xác đáng giúp Đảng, Nhà nước xây dựng, bổ sung, hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ Cách mạng trong giai đoạn mới. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn khẳng định công tác báo chí là một lĩnh vực đặc biệt quan trọng trong toàn bộ công tác tư tưởng của Đảng, nhất là những giai đoạn có ý nghĩa bước ngoặc của cách mạng. Đảng cộng sản Việt Nam luôn coi trọng công tác tuyên truyền báo chí, coi báo chí là: “công cụ sắc bén trong công tác tư tưởng của Đảng”, là “lực lượng xung kích trên mặt trận tư tưởng văn hóa”. Báo chí cách mạng thật sự là người “tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể, tổ chức tập thể” các phong trào hành động cách mạng của nhân dân do Đảng lãnh đạo.
  13. Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Đảng mạnh vì Đảng ta tư tưởng nhất trí, hành động nhất trí, suốt từ trên xuống dưới. Tờ báo của Đảng có nhiệm vụ làm cho tư tưởng hành động thông suốt và thống nhất”. Nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu cũng đã từng nhắc nhở: Báo chí Việt Nam rất cần phát huy nội lực trong thời kỳ mới, nâng cao chất lượng chính trị, văn hóa, khoa học của tác phẩm báo chí Việt nam….Muốn hiểu, muốn chia xẻ với nhân dân phải có mặt ở những nơi tiêu biểu nhất, sôi động nhất của cuộc sống. Phát biểu tại buổi làm việc với Trung ương Hội Nhà báo Việt Nam, nhân kỷ niệm 82 năm ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam, ngày 20/06/2007, đồng chí Trương Tấn Sang -Ủy viên Bộ chính trị, Thường trực Ban Bí thư đã có bài phát biểu quan trọng. Đồng chí nhấn mạnh: “Báo chí góp phần tích cực vào việc tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; thông tin, cổ vũ các phong trào hành động cách mạng, phản ánh tâm tư, nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân; phát hiện, cổ vũ những nhân tố mới, điển hình tiên tiến, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, chống âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; góp phần thắt chặt tình hữu nghị, sự hợp tác nhiều mặt của đất nước ta với bạn bè quốc tế.” Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X chỉ rõ: “Hướng báo chí xuất bản làm tốt chức năng tuyên truyền, thực hiện đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước; Tạo điều kiện cho các lĩnh vực xuất bản, thông tin đại chúng phát triển, nâng cao chất lượng tư tưởng văn hóa, vươn lên hiện đại về mô hình, cơ cấu tổ chức, cơ sở vật chất- kỹ thuật; đồng thời xây dựng cơ chế quản lý phù hợp, chủ động và khoa học” Đặt báo chí trong tiến trình đổi mới, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đánh giá: “Sau Đại hội Đảng lần thứ X, qua một số hoạt động của Đảng và Nhà nước, bước đầu đã tạo được sự đồng thuận và hưởng ứng tích cực của nhân dân, nhất là về phát triển kinh tế, cải cách hành chính và về thái độ kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Kết quả này có sự đóng góp tích cực của báo chí”. Chỉ thị số 37/2006/CT-TTg, ngày 29/11/2006, của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện kết luận của Bộ chính trị về một số biện pháp tăng cường lãnh đạo và quản lý báo chí, ghi rõ: Thực hiện nghiêm túc quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, rà soát, kiện toàn, bố trí đúng cán bộ lãnh đạo và đội ngũ phóng viên báo chí thuộc quyền, đảm bảo tiêu chuẩn chính trị, nghiệp vụ.
  14. Kế hoạch 03-KH/TW của Ban Bí thư có các quy định rất quan trọng như: Quy định về sự phối hợp giữa các cơ quan làm công tác lãnh đạo, quản lý báo chí, các cơ quan chủ quản và các cơ quan hữu quan; Chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, phóng viên báo chí. Tháng 7/2007, tại Hội nghị lần thứ V, Ban Chấp hành Trung ương ra quyết định về “Công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới”, trong đó nhấn mạnh hoạt động báo chí và công tác chỉ đạo, quản lý báo chí có một vị trí xứng đáng; đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc, sự lãnh đạo thường xuyên của Đảng đối với báo chí. Chỉ thị 22/CT/TW của Bộ Chính trị (Khóa VIII), Thông báo 162 của Bộ Chính trị (Khóa IX) đã khẳng định: Hoạt động báo chí phải tuân thủ sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và đảm bảo đúng pháp luật, phát triển báo chí phải đi đôi với quản lý tốt. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn có sự quan tâm đặc biệt đến công tác đào tạo, đào tạo lại nhằm nâng cao trình độ của phóng viên báo chí. Tuy nhiên, để phát triển một nền báo chí phục vụ công cuộc đổi mới trong giai đoạn CNH-HĐH theo định hướng XHCN, vẫn đang rất cần những giải pháp hiệu quả nâng cao chất lượng của công tác đào tạo. 1.2.2. Một số khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu 1.2.2.1. Quản lý Có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm quản lý: - Theo Từ điển Tiếng Việt - Viện Ngôn ngữ học, Hoàng Phê chủ biên, NXB Đà Nẵng 1998, quản lý có nghĩa là: + Trông coi và giữ gìn theo những yêu cầu nhất định. + Tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định.[23] - Quản lý là chức năng của những hệ thống có tổ chức với bản chất khác nhau (xã hội, sinh vật, kỹ thuật), nó bảo toàn cấu trúc xác định của chúng, duy trì chế độ hoạt động, thực hiện những chương trình, mục đích nhất định. (Đại Bách khoa Liên Xô, 1997) - “Hoạt động có sự tác động qua lại giữa hệ thống và môi trường, do đó: quản lý được hiểu là việc đảm bảo hoạt động của hệ thống trong điều kiện có sự biến đổi liên tục của hệ thống và môi trường, là chuyển động của hệ thống đến trạng thái mới thích ứng với hoàn cảnh mới” [33] - Quản lý là tác động có định hướng, có kế họach của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động nói chung là khách thể quản lý nhằm thực hiện được mục tiêu dự kiến. [31, tr.35]
  15. - Quản lý là nhằm phối hợp nỗ lực của nhiều người, sao cho mục tiêu của từng cá nhân biến thành những thành tựu của xã hội. (Trần Kiểm- Giáo trình “Quản lý giáo dục và trường học”- Viện khoa học giáo dục, Hà Nội. [44, tr.15] - Quản lý là một quá trình tác động gây ảnh hưởng của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu chung. (Khoa học tổ chức và quản lý-một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Trung tâm nghiên cứu khoa học tổ chức quản lý - NXB Thống kê- Hà Nội - 1999). [36] - Quản lý là tác động có mục đích đến tập thể những con người để tổ chức và phối hợp hoạt động của họ trong quá trình lao động. (TS. Nguyễn Bá Sơn: Một số vấn đề cơ bản về khoa học quản lý, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000). [32] - Quản lý là những tác động của chủ thể quản lý trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dung, điều chỉnh, điều phối các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức (chủ yếu là nội lực) một cách tối ưu nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất. [45] - Quản lý là: phải biết đào tạo, bồi dưỡng, chia sẻ trách nhiệm, quyền hạn và phải biết ủy quyền. [37] - Hoạt động quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức. [31] Như vậy, quản lý bao gồm các thành phần: + Chủ thể quản lý và tác động trong quản lý. + Mục tiêu quản lý. + Đối tượng quản lý. Những điểm chung của các khái niệm nêu trên đã cho chúng ta một cái nhìn tổng thể về khái niệm quản lý. Quản lý chính là những tác động có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý lên khách thể quản lý trong một tổ chức nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ hội của tổ chức, thông qua việc thực hiện một cách sáng tạo các chức năng quản lý, để đạt được mục tiêu đã được xác định. *Bản chất của hoạt động quản lý: Trong quá trình vận động, sự phát triển của xã hội và quản lý không thể tách rời nhau; khi lao động đạt tới một trình độ nhất định, có sự phân công xã hội thì quản lý như là một chức năng, là điều kiện tất yếu khách quan. Trong một tồ chức nhóm, cộng đồng, chủ thể quản lý tác động có định hướng, có chủ đích đến khách thể quản lý nhằm đạt được mục đích. Những tác động qua lại đó có tác động lan
  16. tỏa. Trong xã hội có giai cấp thì hoạt động quản lý phục vụ quyền lợi của giai cấp thống trị, do vậy hoạt động quản lý mang tính giai cấp rõ rệt. Hoạt động quản lý mang tính khoa học cao, bởi sự tác động giữa chủ thể quản lý đến khách thể quản lý thông qua công cụ, phương tiện, phương pháp phù hợp với quy luật khách quan thì mới đạt được hiệu quả. Hoạt động quản lý vừa có tính khoa học vừa có tính nghệ thuật. Tính nghệ thuật của hoạt động quản lý thể hiện những tác động hợp quy luật, hoàn cảnh. Vậy, hoạt động quản lý vừa có tính khách quan vừa có tính chủ quan vì được thực hiện bởi người quản lý. Mặt khác, nó vừa có tính giai cấp, vừa có tính kỹ thuật, vừa có tính khoa học, vừa có tính nghệ thuật, vừa có tính pháp luật Nhà nước vừa có tính xã hội. Chúng là những mặt đối lập trong một thể thống nhất. Đó là biện chứng, là bản chất của hoạt động quản lý. Quản lý còn có tác dụng định hướng sự phát triển của tổ chức trên cơ sở xác định mục tiêu và hướng mọi nỗ lực của các cá nhân, của tổ chức vào mục tiêu chung đó. Tổ chức, điều hòa, phối hợp và hướng dẫn hoạt động của các cá nhân trong tổ chức, giảm độ bất định nhằm đạt đựơc mục tiêu quản lý đã xác định. Tạo ra động lực cho hoạt động bằng cách kích thích, đánh giá, khen thưởng, trách phạt, tạo ra môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự phát triển cá nhân và tổ chức, đảm bảo phát triển ổn định, bền vững và có hiệu quả. Bản chất của hoạt động quản lý là tổ chức, chí huy và điều khiển phù hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm thực hiện có hiệu quả những mục tiêu của tổ chức (đơn vị) đã đề ra. 1.2.2.2. Quản lý giáo dục - Theo M.M. Mêchti- Zade, quản lý giáo dục là tập hợp những biện pháp (tổ chức, phương pháp cán bộ, kế hoạch hóa, tài chính, cung tiêu…) nhằm bảo đảm sự vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục, bảo đảm sự tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống cả về mặt số lượng cũng như chất lượng. - Theo GS.TS Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý giáo dục (và nói riêng, quản lý trường học) là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp với qui luật của chủ thể quản lý (hệ giáo dục) nhằm làm cho hệ vận hành theo đuờng lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường XHCN của Việt Nam mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ thống giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất.” [31]
  17. - Theo TS Trần Kiểm thì khái niệm “quản lý giáo dục” có nhiều cấp độ. Hai cấp độ chủ yếu là cấp vĩ mô và cấp vi mô. [44] Đối với cấp vĩ mô: Quản lý giáo dục là những tác động tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp qui luật) của chủ thể quản lý đến tất cả các mắt xích của hệ thống (từ cấp cao nhất đến các cơ sở giáo dục của nhà trường) nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ mà xã hội đặt ra cho ngành Giáo dục. Đối với cấp vi mô: Quản lý giáo dục được hiểu là hệ thống những tác động tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp qui luật) của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, công nhân viên, tập thể học sinh, cha mẹ học sinh và các lực lượng xã hội trong và ngoài trường nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường. - Theo TS. Nguyễn Gia Quý “Quản lý giáo dục là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đưa hoạt động giáo dục tới mục tiêu đã định, trên cơ sở nhận thức vận dụng đúng những qui luật khách quan của hệ thống giáo dục quốc dân.” [35] - Quản lý giáo dục là việc đảm bảo sự hoạt động của tổ chức trong điều kiện có sự biến đổi liên tục của hệ thống giáo dục và môi trường, là chuyển hệ thống đến trạng thái mới thích ứng với hoàn cảnh mới. - Quản lý giáo dục là thiết kế và duy trì một môi trường mà trong đó các cá nhân làm việc với nhau trong các nhóm có thể hoàn thành các nhiệm vụ và các mục tiêu giáo dục đã định. - Quản lý giáo dục là quá trình đạt đến mục tiêu giáo dục của hệ thống giáo dục bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra. *Quản lý giáo dục gồm:  Chủ thể quản lý: Bộ máy quản lý các cấp, trong đó vai trò quan trọng là các cán bộ quản lý, những người điều hành toàn bộ hoạt động giáo dục.  Khách thể quản lý: Hệ thống giáo dục quốc dân, các trường học, người dạy, người học.  Quan hệ quản lý: Đó là những mối quan hệ giữa người học và người dạy; quan hệ giữa người quản lý với người dạy, người học; quan hệ người dạy- người học; quan hệ giữa giáo giới-cộng đồng… Các mối quan hệ đó có ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo, chất lượng hoạt động của nhà trường, của toàn bộ hệ thống giáo dục. Như vậy, chúng tôi hiểu rằng, quản lý giáo dục là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng, của chủ thể quản lý lên đối tượng giáo dục và khách thế quản lý giáo dục về các mặt chính trị, văn hóa, xã hội, kinh tế… bằng một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương tiện, các biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự
  18. phát triển của đối tượng. Nói khác, quản lý giáo dục là tìm kiếm, xây dựng những giải pháp, biện pháp quản lý phù hợp, dựa trên tình hình thực tế về nhân lực, về điều kiện vật chất của một cơ quan giáo dục để có thể ngày càng nâng cao, phát triển hệ thống giáo dục đó trong chiều hướng phát triển của toàn xã hội. Quản lý giáo dục được xem như một khoa học nhằm góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng đào tạo. Công cụ Chủ thể quản lý giáo dục Đối tượng và khách thể quản lý Mục tiêu giáo dục Phương pháp Sơ đồ 1.1: Mô hình quản lý giáo dục 1.2.2.3. Quản lý nhà trường Nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân thuộc mọi loại hình đều được thành lập theo quy hoạch, kế hoạch của nhà nước nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục. Trường học là bộ phận của xã hội, là tổ chức giáo dục cơ sở của hệ thống giáo dục quốc dân. Hoạt động dạy và học là hoạt động trung tâm của nhà trường, mọi hoạt động đa dạng, phức tạp khác đều hướng vào hoạt động trung tâm này. Do vậy, quản lý trường học thực chất là: Quản lý hoạt động dạy- học, tức là làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng thái khác để dần tiến tới mục tiêu giáo dục. GS.VS Phạm Minh Hạc đã đưa ra khái niệm về quản lý nhà trường như sau: “Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh. Việc quản lý nhà trường là quản lý hoạt động dạy học, tức là làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng thái khác để dần dần tiến tới mục tiêu giáo dục.” [41]
  19. PGS.TS Trần Tuấn Lộ xác định “Quản lý trường học là sự quản lý của Hiệu trưởng đó với toàn bộ những con người, những hoạt động, những tổ chức và những phương tiện vật chất, kỹ thuật, tài chính của trường để đạt cho được mục tiêu của sự giáo dục (và đào tạo) học sinh loại trường đó” [45] Tóm lại, Quản lý nhà trường là những hoạt động có ý thức, có kế hoạch và hướng đích của chủ thể quản lý tác động đến các hoạt động của nhà trường hướng vào việc thực hiện mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo có chất lượng và hiệu quả. 1.2.2.4. Quản lý hoạt động thực tập - Quản lý hoạt động thực tập là quá trình vận dụng các chức năng quản lý (lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra) một cách sáng tạo để tổ chức, điều hành toàn bộ các hoạt động có liên quan đến việc thực tập. Cụ thể là:  Xây dựng kế hoạch thực tập với nội dung thực tập rõ ràng.  Tổ chức thực hiện hoạt động thực tập với sự phân công phân nhiệm cho từng nội dung công việc đến từng người, từng bộ phận có liên quan.  Kiểm tra thực tập theo những quy định và thời điểm nhất định.  Đánh giá hoạt động thực tập. - Quản lý hoạt động thực tập cũng bao hàm ý nghĩa tìm những giải pháp tốt nhất để thực hiện một cách có hiệu quả nội dung thực tập trên cơ sở đảm bảo những điều kiện thuận lợi giúp sinh viên có thể thực tập tốt và tích lũy thêm được kiến thức, kinh nghiệm cho bản thân. Từ đó, kiến thức đã học được củng cố và nâng cao để sinh viên có thể vững vàng hơn về các kỹ năng cũng như có những nhận thức đúng đắn hơn về nghề nghiệp. Mục đích cuối cùng của quản lý thực tập là thực hiện được mục tiêu của kỳ thực tập bằng những biện pháp tốt nhất, khả thi nhất. Quản lý tốt việc thực tập cũng chính là thông qua các biện pháp mà nâng cao hiệu quả thực tập cho sinh viên, làm cho thực tập trở thành một thời gian bổ ích đối với sinh viên. * Thực tập là gì? Thực tập là làm trong thực tế để áp dụng và củng cố kiến thức lý thuyết, trau dồi thêm về nghiệp vụ chuyên môn (Từ điển tiếng Việt - Viện Ngôn ngữ học, Hoàng Phê chủ biên - NXB Đà Nẵng 1998) Theo định nghĩa của Đại tự điển tiếng Việt (Nguyễn Như Ý chủ biên): Thực tập là tập làm trong thực tế để áp dụng, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn: sinh viên đi thực tập ở nhà máy, sau đợt thực tập phải nộp tổng kết, báo cáo cho nhà trường.
  20. Thực tập (Stage) theo định nghĩa của tự điển LaRousse thì đây là giai đoạn học tập, nghiên cứu qua thực tế, được yêu cầu đối với học viên theo học một số nghề (thực tập luật sư, thực tập sư phạm), cũng là giai đoạn mà một người phải tạm thời đến làm việc tại doanh nghiệp để hoàn tất chương trình đào tạo. * Thực tập báo chí là gì? Theo TS. Nguyễn Thị Minh Thái- Khoa Báo chí trường ĐH KHXH&NV (ĐHQG HN), thực tập báo chí là giai đoạn sinh viên báo chí thực hiện các khả năng làm phóng viên, bình luận viên, biên tập viên, cộng tác viên, thông tín viên cho các cơ quan truyền thông đại chúng như báo in, đài phát thanh, đài truyền hình, báo trực tuyến, hãng thông tấn, các cơ quan xuất bản, quảng cáo, quan hệ công chúng… [56] Theo TS. Đinh Văn Hường- chủ nhiệm khoa báo chí Trường Đại học KH XN & NV (ĐHQG HN), thực tập báo chí là một phần rất quan trọng trong chương trình đào tạo cử nhân báo chí, là cơ hội quí giá để sinh viên tiếp xúc với thực tế tác nghiệp tại các cơ quan báo đài, rèn luyện năng lực cho bản thân, tích lũy kinh nghiệm trước khi chính thức bước vào nghề báo. Kỳ thực tập chủ yếu là để sinh viên hội nhập với môi trường báo chí, vận dụng những gì đã học vào công việc, rèn luyện phong cách làm việc, biết ứng xử trong các mối quan hệ… [13] Theo ThS. Phạm Đình Lân- Phó chủ nhiệm khoa Báo chí trường ĐH KHXH&NV ĐQG HN: “Thực tập báo chí là để sinh viên biết thêm về hoạt động của các cơ quan báo chí, có cơ hội để thực hành kiến thức trong nhà trường, thu thập kinh nghiệm thực tiễn, chuẩn bị hành trang khi ra trường. Đây có thể là thời gian chuyển giao để các em tiếp cận với nghề nghiệp, với công việc sắp tới”. Theo bà Melinda McAdams- GS ngành báo chí trực tuyến của Trường Báo chí và truyền thông, ĐH Florida, Mỹ, thực tập báo chí có nghĩa là sinh viên phải làm những công việc y như họ sẽ làm thật tại tòa soạn sau khi tốt nghiệp. Họ phải lao vào cuộc sống, tìm tòi đề tài và viết bài. [60] Từ những ý kiến trên có thể nói, thực tập báo chí là một hình thức thực hành nghề nghiệp, rèn luyện các kỹ năng chuyên môn, tác nghiệp báo chí, giúp sinh viên từng bước nâng cao tay nghề, hoàn thiện ý thức và tình cảm nghề nghiệp. Đây là khoảng thời gian sinh viên tìm một cơ sở truyền thông và đến đó làm việc như một nhân viên thực thụ, chấp hành mọi qui định của nơi thực tập, được nơi tiếp nhận quản lý và đánh giá. Thời gian này sẽ giúp sinh viên làm việc một cách vững vàng hơn sau khi tốt nghiệp, hoặc sẽ chọn đựơc những công việc phù hợp hơn với khả năng của chính mình trong tương lai.
nguon tai.lieu . vn