Xem mẫu

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ LIÊN VỊ TỪ CẦU KHIẾN TRONG TIẾNG VIỆT LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC MÃ SỐ: 602201 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. DƯ NGỌC NGÂN Thành phố Hồ Chí Minh -2007 Lời cảm ơn Luận văn này là kết quả học tập của tôi từ tháng 10 năm 2004 đến tháng 10 năm 2007 tại trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh với sự giúp đỡ của rất nhiều người. Từ những ngày đầu khoá học, tôi đã ấn tượng sâu sắc về những tri thức mà các bậc Giáo sư, Tiến sĩ đã truyền giảng trong từng buổi học, tôi say mê thích thú về những vấn đề mới mẻ được gợi ra. Những ngày cuối khóa miệt mài với luận văn, tôi lại may mắn nhận được sự chỉ bảo ân cần của các thầy, cô trong hội đồng khoa học, đặc biệt là Phó Giáo sư Tiến sĩ Dư Ngọc Ngân, người hướng dẫn khoa học, người cô đã dạy dỗ và động viên tôi rất nhiều. Tôi cũng không quên những thầy cô của Phòng Khoa học Công nghệ – Sau đại học của Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện cho tôi học tập, thực hiện và bảo vệ luận văn. Sau cùng là lời cảm ơn chân thành của tôi đối với địa phương nơi tôi ở, cơ quan nơi công tác, cảm ơn gia đình và các đồng nghiệp, bạn bè đã hỗ trợ và động viên tôi học tập trong suốt thời gian qua. Thành phố Hồ Chí Minh – 2007 QUY ƯỚC VIẾT TẮT BN : bổ ngữ BNĐT : bổ ngữ đối thể BNND : bổ ngữ nội dung HĐ : hành động HĐCK : hành động cầu khiến TPMR : thành phần mở rộng VN : vị ngữ VT : vị từ VTCK : vị từ cầu khiến VTHĐ : vị từ hành động VTNH : vị từ ngôn hành VTTT : vị từ trung tâm MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Mục đính giao tiếp của con người xét cho cùng là nhằm thoả mãn những nhu cầu của cá nhân dựa trên các chuẩn mực xã hội. Chính vì vậy mà hành động cầu khiến của chủ thể nói năng giữ một vai trò hết sức quan trọng. Yêu cầu, sai khiến, ra lệnh là hành động thường xuyên và quan trọng đến mức hầu như không một ngôn ngữ nào trên thế giới là không có kiểu câu mang ý nghĩa này. Thế nhưng không phải bao giờ một hành động cầu khiến đưa ra cũng được tiếp thể thực hiện theo đúng mục đích của chủ thể phát ngôn. Điều này có nhiều lý do mà một trong những lý do rất quan trọng, có tính quyết định đó chính là tùy thuộc vào hiệu lực ngôn trung của phát ngôn cầu khiến. Trong tiếng Việt có nhiều phương thức để diễn đạt ý nghĩa cầu khiến: phương thức tỉnh lược chủ ngữ, dùng từ tình thái, dùng vị từ ngôn hành, dùng các kiểu câu mang ý nghĩa cầu khiến,v.v. Trong đó, cách diễn đạt trực tiếp bằng biểu thức chứa vị từ cầu khiến có phạm vi sử dụng nhiều hơn cả. Do vậy, xem xét bản chất, đăc biệt là khả năng hành chức của vị từ cầu khiến (VTCK) có ý nghĩa rất lớn đối với việc sử dụng loại từ này trong giao tiếp ngôn ngữ thường ngày. Tuy nhiên, có thể nói các công trình nghiên cứu Việt ngữ từ trước đến nay chưa đề cập một cách rõ ràng, đầy đủ bản chất các vấn đề liên quan đến VTCK. Luận văn của chúng tôi không có tham vọng như vậy nhưng mong muốn qua khảo sát các cứ liệu thu thập được, sẽ góp phần nhận diện rõ hơn đặc điểm của vị từ này, làm tăng thêm hiệu quả giao tiếp khi thực hiện một hành động cầu khiến. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Trong lịch sử nghiên cứu tiếng Việt, ý nghĩa cầu khiến được các tác giả đề cập đến từ nhiều góc độ trong quá trình phân loại các lớp từ, phân chia các kiểu câu và xem xét khả năng hiệu lực tại lời. Nhưng để khẳng định một kiểu loại vị từ (động từ) cầu khiến thì còn nhiều quan điểm khác nhau. 2.1. Quan điểm ngữ pháp truyền thống Các tác giả Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Phạm Duy Khiêm chia động từ thành 2 loại, nhưng không thấy nhắc đến VTCK trong danh sách phân loại này: -Động từ đơn: là những tiếng động từ do một tiếng, biểu diễn hẳn một việc gì: nói, cười, ăn, uống, mua, bán, đứng, ngồi,… - Động từ ghép: là những tiếng động từ do hai tiếng ghép với nhau thành một tiếng. Trong đó: + Do hai tiếng có nghĩa riêng ghép nhau thành một nghiã: bẩm báo, bênh vực, buôn bán,… + Do hai tiếng ghép nhau mà tiếng sau có công dụng làm cho “lọn nghĩa” tiếng đứng trước: bán rao, đánh lừa, hỏi thăm,… + Do một tiếng động từ ghép với danh từ: biết ơn, đánh hơi, làm việc,… + Do một tiếng động từ ghép với một tiếng đệm đặt sau: bàn bạc, gặp gỡ,… + Do hai tiếng không có nghĩa ghép nhau thành một tiếng: ăn năn, cằn nhằn, phàn nàn,… Phạm Tất Đắc phân tích tự loại động từ bao gồm: - Động từ chỉ sự hành động: ăn, nói, gặp gỡ,… - Động từ chỉ sự thực hiện: là, thì, có. - Động từ chỉ sự thụ động: bị, được, phải,… Theo tác giả này “rất nhiều khi động từ không có chủ từ trong những câu nói có ý sai khiến, khuyên răn” [9;tr.50]. Laurence C.Thompson, trong công trình A Vietnamese Grammar chia động từ tiếng Việt thành 2 kiểu loại: - Động từ hành động (action verb): đi, làm, hát, ở,… - Động từ trạng thái (state verb): khó, tốt, hay, xấu, biết,… Bùi Đức Tịnh dựa vào nghĩa để phân biệt bốn loại động từ: -Động từ viên ý: chỉ dùng một mình với chủ ngữ cũng làm nên câu trọn nghĩa: vâng lời, lo ngại,… ... - tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn