Xem mẫu

Làng tranh dân gian Đông Hồ, xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh: hiện trạng và hướng phát triển Nguyễn Thị Hạnh Viện Việt Nam học và Khoa học Phát triển Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Việt Nam học; Mã số: 60 31 60 Người hướng dẫn: PGS. TS Nguyễn Chí Bền Năm bảo vệ: 2012 Abstract. Khái quát các nét cơ bản nhất về vị trí địa lý, điều kiện dân cư, xã hội, cũng như lịch sử làng nghề, lịch sử nghề tranh và một số nét văn hóa dân gian, văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của làng nghề Đông Hồ. Nghiên cứu một số đặc điểm về nội dung, nghệ thuật và quy trình làm tranh dân gian Đông Hồ ở Việt Nam. Phân tích thực trạng biến đổi và và đưa ra một số khuyến nghị, giải pháp nhằm khắc phục tình trạng mai một của nghề làm tranh dân gian ở Đông Hồ hiện nay. Keywords. Văn hóa dân gian; Tranh Đồng Hồ; Việt Nam học; Văn hóa Việt Nam Content. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tranh dân gian - di văn hóa quý giá được hình thành qua nhiều thế hệ, nó không chỉ đáp ứng nhu cầu về tinh thần, tâm linh và cảm thụ mỹ thuật của nhân dân lao động mà còn chứa đựng những nội dung nhằm giáo dục đạo đức, nhân cách trong cuộc sống đời thường. Tranh dân gian ở miền Bắc có ba dòng chính: tranh điệp Đông Hồ (Bắc Ninh), tranh thờ Hàng Trống (Hà Nội), tranh đỏ Kim Hoàng (Hà Tây cũ), từ bao thế kỷ qua đã góp vào dòng chảy chung của mỹ thuật dân gian Việt Nam, tạo nên một vẻ đẹp không thể thiếu được cho lịch sử văn hóa dân tộc. Làng Đông Hồ từ lâu đã nổi tiếng vùng Kinh Bắc bởi những sắc thái văn hóa rất riêng và độc đáo như thế. Đồng thời, Đông Hồ còn được biết đến bởi đó là một trung tâm sản xuất tranh dân gian lớn, là làng nghệ thuật dân gian lâu đời. Tranh khắc gỗ Đông Hồ là loại hình nghệ thuật tranh dân gian, xuất hiện khá sớm, theo nguồn cơ sở đáng tin cậy thì ít nhất cũng hơn năm thế kỷ tồn tại. Tranh Đông Hồ đã tồn tại thực sự trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân ta, là món ăn tinh thần không thể thiếu được của người nông dân Việt Nam qua nhiều thế kỷ. Trong quá trình phát triển của mỹ thuật hiện đại Việt Nam, tranh Đông Hồ chiếm một vị trí đáng kể, là nguồn cảm hứng sáng tác của nhiều họa sỹ và nhà điêu khắc. Mặc dù Đông Hồ nổi tiếng về sản xuất tranh dân gian và làm hàng mã, song từ trước đến nay các nhà nghiên cứu thường quan tâm đến nghề làm tranh, ít quan tâm 1 đến nghề làm mã, hoặc chỉ quan tâm một cách sơ lược, không đặt nó trong bối cảnh chung hay tương quan với nghề tranh. Hầu như chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này. Hiện nay, nghề làm tranh ở Đông Hồ đang có nguy cơ mai một. Việc khôi phục và duy trì một làng nghề cổ truyền là một vấn đề rất quan trọng, rất cấp thiết, vừa có ý nghĩa bảo tồn các giá trị truyền thống, vừa là mặt hàng xuất khẩu quan trọng. Hơn nữa, từ trước đến nay tuy đã có nhiều bài viết về tranh dân gian Đông Hồ, song chưa có nhiều công trình nghiên cứu trên diện rộng và sâu về làng Đông Hồ, nhất là từ góc độ văn hóa dân gian với ý nghĩa là một làng nghề truyền thống với những biến đổi gần đây của một dòng tranh dân gian. Từ những nội dung khách quan đó, chúng tôi chọn đề tài: Làng tranh dân gian Đông Hồ, xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh: Hiện trạng và hướng phát triển làm luận văn tốt nghiệp cao học của mình. 2. Mục đích, phạm vi nghiên cứu 2.1 Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu các nhân tố tự nhiên và xã hội trong quá trình hình thành và phát triển làng nghề tranh dân gian Đông Hồ. Tìm hiểu những đóng góp của nghề làm tranh trong việc hình thành sắc thái diện mạo văn hóa làng và giá trị văn hóa nghệ thuật của nó trong nền văn hóa hiện đại Việt Nam. Đồng thời, nghiên cứu để tìm ra nguồn gốc lịch sử làng cũng như các nét đặc trưng trong sinh hoạt, phong tục và hội hè, lễ thức ở Đông Hồ. Luận văn chúng tôi cũng đi sâu, tập trung làm rõ thực trạng làng nghề làm tranh hiện nay trước thay đổi của hoàn cảnh. Chúng tôi còn tập trung vào một số định hướng hay những khuyến nghị để bảo tồn và phát triển làng Đông Hồ trong giai đoạn hiện nay. 2.2 Phạm vi nghiên cứu Dưới góc độ văn hóa và nghệ thuật, làng tranh Đông Hồ sẽ được nghiên cứu và khảo sát từ nhiều bình diện khác nhau. Phần làng: Chúng tôi tập trung tìm hiểu về vị trí địa lý, địa hình, lịch sử, dân cư, truyền thống văn hóa, di tích lịch sử, hội hè, phong tục tập quán,…. Phần nghề: Tìm hiểu quá trình phát triển của nghề làm tranh qua các thể loại, đề tài, quy trình kỹ thuật,…Trong đó, luận văn đặc biệt nhấn mạnh về nghề làm tranh, về lịch sử ra đời cũng như giá trị nghệ thuật và nội dung của tranh dân gian Đông Hồ. Bên cạnh đó, chúng tôi khảo sát hiện trạng biến đổi của làng tranh và nghề làm tranh dân gian trong giai đoạn hiện nay. Từ đó, chúng tôi bước đầu đưa ra một số khuyến nghị, giải pháp để bảo tồn và phát triển nghề làm tranh dân gian trong tương lai không xa, đến năm 2020. 3. Lịch sử vấn đề nghiên cứu Làng nghề là một đề tài khoa học khá hấp dẫn về mặt lý thuyết và thực tiễn nên từ lâu đã được đề cập dưới nhiều góc độ khác nhau. Ở nước ta đã và đang có rất nhiều hoạt động nghiên cứu cũng như có nhiều dự án khoa học, ấn phẩm về các làng nghề thủ công nghiệp của các cá nhân, các nhà khoa học… 2 Trước hết phải kể đến các cuốn sử thời phong kiến, như Đại Việt sử ký toàn thư của Sử quán triều Lê (15), Khâm định Việt sử thông giám cương mục của Quốc sử quán triều Nguyễn [42], hay các sách địa chí (quốc chí, tỉnh chí, xã chí), như Dư địa chí của Nguyễn Trãi [56], Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn [43], Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú [11]; các cuốn tỉnh chí, xã chí… đều nói đến các làng nghề và các sản phẩm nghề ở từng vùng quê trong cả nước. Đây là nguồn sử liệu quan trọng khi tìm hiểu, nghiên cứu về nghề và làng nghề truyền thống nói chung. Thứ hai là các công trình nghiên cứu về lịch sử các ngành nghề, về các làng nghề và vùng nghề khác nhau, như ba tập Nghề cổ truyền do Sở Khoa học công nghệ và Môi trường và Sở VHTT Hải Hưng biên soạn và xuất bản [47], Quê gốm Bát Tràng của Đỗ Thị Hảo [22], Nghề thủ công truyền thống Việt Nam và các vị tổ nghề; Làng nghề, phố nghề Thăng Long- Hà Nội của hai tác giả Trần Quốc Vượng, Đỗ Thị Hảo (2000), Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam của Bùi Văn Vượng [67],… Tác giả Chu Quang Trứ với cuốn sách Tìm hiểu các nghề thủ công điêu khắc cổ truyền [60]. Tác giả tập trung chú ý giới thiệu các nghề thủ công nghệ thuật hay còn gọi là thủ công mỹ nghệ, với vấn đề đặt ra là giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hoá trong các nghề truyền thống đó. Tác giả Bùi Xuân Đính (chủ biên), Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Dân tộc học, với cuốn sách Làng nghề thủ công huyện Thanh Oai (Hà Nội)- truyền thống và biến đổi [16]. Gần đây có các công trình sách và bài viết trên các báo, tạp chí về làng nghề như: 36 làng nghề Thăng Long - Hà Nội của Lam Khê, Khánh Minh [30]; Nghệ nhân làng nghề Thăng Long Hà Nội của Nguyễn Thọ Sơn, [48]; 36 nghệ nhân Hà [62]; Các ngành nghề Việt Nam của Vũ Ngọc Khánh, 2010 [29]; Nghề chổi đót ở Phổ Phong của Tạ Doãn Cường, [13]… Đặc biệt đã có rất nhiều bài viết trên các trang báo điện tử hàng ngày luôn cập nhật về hiện trạng làng nghề truyền thống, về những đổi thay hay xu hướng vận động, phát triển của làng nghề nói chung và làng tranh Đông Hồ nói riêng như: Bài “Tranh xuân, mời đến Đông Hồ” trên trang điện tử Vietbao.vn, đăng ngày 11/2/2005. Bài “Chơi tranh và sống bằng tranh” cũng trên trang điện tử Vietbao.vn – Mạng thông tin Việt Nam ra thế giới- đăng ngày 21/5/2007. Bài “Dung dị làng tranh Đông Hồ” đăng trên báo điện tử Thanh Niên online- diễn đàn của Hội liên hiệp Thanh niên Việt Nam, ngày 17/2/2010, chuyên mục “Văn hóa- nghệ thuật…. Thời Pháp thuộc, tranh dân gian đã được các học giả nước ngoài quan tâm, tìm hiểu, nghiên cứu, đặc biệt là các học giả người Pháp, Đức, Nga. Trong số đó, phải kể đến công lao đóng góp của học giả người Pháp là Maurice Durand. Sau nhiều năm nghiên cứu, ông tập hợp tư liệu để in thành cuốn sách lấy tiêu đề là Tranh dân gian Việt Nam (Imagerie populaire Vietnamienne, Paris, 1960), sách dầy gần 500 trang. Một cuốn sách đặc biệt quan trọng khác của tác giả Henri Oger (tái bản 2009)- Technique du people annamite- Mechanics and Crafts of the Annamites - Kỹ thuật của người An Nam, tập I, II, III, [19]. Từ khi hòa bình lập lại (1954) đến nay, tranh dân gian Việt Nam được giới thiệu rộng rãi ở trong và ngoài nước. Hơn 40 năm qua, đã có rất nhiều bài viết, các 3 cuốn sách về tranh dân gian nói chung, tranh dân gian làng Đông Hồ nói riêng. Nhà nghiên cứu Nguyễn Bá Vân có công sưu tầm một hệ thống thư mục các sách, báo, tạp chí nói về tranh dân gian, với số lượng khá lớn. Cuốn Tranh dân gian Việt Nam của hai tác giả Nguyễn Bá Vân và Chu Quang Trứ xuất bản năm 1984 [63], là cuốn sách đầu tiên mang tính hệ thống về đề tài này do người Việt Nam biên soạn, sách dầy 120 trang. Nội dung các công trình, bài viết đã công bố đề cập nhiều vấn đề khác nhau như: nguồn gốc, đặc điểm, ý nghĩa, các thể loại, tinh thần dân tộc,… Tuy nhiên, hầu như chưa có cuốn sách nào khảo sát chuyên sâu về Đông Hồ từ góc nhìn văn hóa dân gian với tư cách là một làng nghề truyền thống đang trên đà biến đổi. Như vậy, thực tế nghiên cứu về làng xã, làng nghề nói chung và làng nghề tranh dân gian Đông Hồ nói riêng rất đa dạng, phong phú về đề tài, thể loại. Điểm qua một cách khái quát những công trình đi trước có thể giúp cho luận văn có được tính hệ thống và sự kế tục lịch sử nghiên cứu. Tiếp nối truyền thống quý báu đó, luận văn sẽ vừa kế thừa những kết quả nghiên cứu trước đó làm nguồn tư liệu quý, đồng thời vừa có đóng góp mới cho tư liệu nghiên cứu nói chung. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Chúng tôi sử dụng nhiều phương pháp trong nghiên cứu khoa học xã hội bao gồm các phương pháp cụ thể và phương pháp liên ngành. Các phương pháp khoa học cụ thể được sử dụng trong luận văn bao gồm: Phương pháp tiếp cận thu thập thông tin; Phương pháp nghiên cứu tài liệu. Tác giả đi vào phân tích tài liệu dựa trên các kết quả, công trình nghiên cứu của đồng nghiệp đi trước, như các tài liệu từ nguồn tạp chí và báo cáo khoa học trong ngành, tác phẩm khoa học, tạp chí và báo cáo khoa học ngoài ngành, tài liệu lưu trữ, thông tin đại chúng v...v; Phương pháp thực nghiệm: quan sát, điều tra tại cộng đồng làng xóm của Đông Hồ. Phương pháp liên ngành được sử dụng đó lµ sự kết hợp giữa phương pháp địa văn hóa và phương pháp vùng văn hóa. Kết quả thu được từ những phương pháp độc lập như điền dã, khảo sát thực địa, phỏng vấn sâu,… Chúng tôi sử dụng tư duy lô gic và phương pháp tổng hợp để nghiên cứu, mong muốn làm rõ làng Đông Hồ là một đối tượng nghiên cứu thuộc vùng văn hóa cụ thể, vùng Kinh Bắc, có lịch sử truyền thống lâu đời, trải qua bao biến đổi thăng trầm, đến nay, làng Đông Hồ vẫn đứng vững và phát triển trong xu thế chung của thời đại. 5. Đóng góp của đề tài Bước đầu, luận văn trình bày về lịch sử ra đời, phát triển của dòng tranh dân gian Đông Hồ trong bối cảnh lịch sử của tranh dân gian Việt Nam, góp tiếng nói riêng trong nghiên cứu tranh dân gian nước ta. Luận văn còn nêu rõ thực trạng làng nghề, nghề làm tranh và đưa ra một số khuyến nghị, giải pháp nhằm khắc phục tình trạng mai một của nghề làm tranh dân gian ở Đông Hồ hiện nay. 6. Bố cục luận văn Ngoài phần mở đầu, luận văn gồm có 3 chương: 4 Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và khái quát làng tranh dân gian Đông Hồ. Chương 1 của luận văn nêu lên một số khái niệm cơ bản sử dụng trong luận văn và điểm qua các nét cơ bản nhất về vị trí địa lý, điều kiện dân cư, xã hội, cũng như lịch sử làng nghề, lịch sử nghề tranh và một số nét văn hóa dân gian, văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của làng nghề Đông Hồ. Chƣơng 2: Tranh dân gian Đông Hồ. Nội dung chính của chương này nêu khái quát một số đặc điểm về nội dung, nghệ thuật và quy trình làm tranh dân gian Đông Hồ. Chƣơng 3: Thực trạng biến đổi và định hƣớng phát triển làng tranh dân gian Đông Hồ đến năm 2020. Chương 3 gồm hai phần, phần 1 nêu lên một số thực trạng của nghề làm tranh và làng nghề Đông Hồ; phần 2, luận văn đi sâu phân tích một số giải pháp, kiến nghị để bảo tồn và phát triển làng tranh dân gian Đông Hồ. CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KHÁI QUÁT LÀNG TRANH DÂN GIAN ĐÔNG HỒ 1.1 Một số khái niệm cơ bản 1.1.1 Khái niệm “làng nghề” Nhóm tác giả Mai Thế Hởn, GS. TS Hoàng Ngọc Hòa, PGS. TS Vũ Văn Phúc đã tổng hợp ba quan niệm về làng nghề [26; tr 11,12]: Quan niệm thứ nhất: Làng nghề là nơi mà hầu hết mọi người trong làng đều hoạt động cho nghề ấy và lấy đó làm nghề sống chủ yếu. Quan niệm thứ hai: Làng nghề là làng cổ truyền làm nghề thủ công, ở đấy không nhất thiết tất cả dân làng đều sản xuất hàng thủ công. Người thợ thủ công, nhiều khi cũng là người làm nghề nông. Nhưng do yêu cầu chuyên môn hóa cao đã tạo ra những người thợ chuyên sản xuất hàng thủ công truyền thống ngay tại làng nghề hay phố nghề ở nơi khác. Quan niệm thứ ba: Làng nghề là trung tâm sản xuất thủ công, nơi quy tụ các nghệ nhân và nhiều hộ gia đình chuyên tâm làm nghề truyền thống lâu đời, có sự liên kết hỗ trợ trong sản xuất, bán sản phẩm theo kiểu phường hội, kiểu hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ, và có cùng tổ nghề. Từ ba quan niệm trên chúng ta có thể thấy khái niệm về làng nghề đều liên quan đến các nghề thủ công cụ thể. Nhóm tác giả từ đó đã tóm lược bằng một định nghĩa, mà chúng tôi cũng đồng tình với quan điểm này: Làng nghề là một cụm dân cư sinh sống trong một thôn (làng) có một hay một số nghề được tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất kinh doanh độc lập. Thu nhập từ các nghề đó chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá trị sản phẩm của toàn làng [26; tr 13]. 1.1.2 Khái niệm “nghề thủ công truyền thống” Thông tư số 116/2006/TT-BNN, ngày 18/12/2006, mục giải thích từ ngữ có ghi rõ: Nghề truyền thống là nghề đã được hình thành từ lâu đời, tạo ra những sản phẩm độc đáo, có tính riêng biệt, được lưu truyền và phát triển đến ngày nay hoặc có nguy cơ bị mai một, thất truyền [52; theo website: www.vca.org.vn]. Chúng tôi đồng tình với quan điểm về nghề truyền thống này. 5 ... - tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn