Xem mẫu

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Trải qua một thời kỳ dài của nền kinh tế nông nghiệp với cơ chế bao cấp,
nhiệm vụ chủ yếu của các công trình thủy lợi ở nước ta là cấp nước tưới tiêu
phục vụ sản xuất nông nghiệp. Hiện nay, trong điều kiện mới của nền kinh tế
thị trường, hoạt động sản xuất kinh doanh của các hệ thống công trình thủy lợi
đã có những thay đổi đa dạng và mang tính tổng hợp hơn. Nhiều hệ thống
thuỷ lợi phục vụ tưới tiêu hiện đang được đầu tư, nâng cấp để đảm nhiệm
thêm nhiệm vụ mới như: cấp nước thô (nước lấy từ nguồn nước sông tự
nhiên, chưa qua công đoạn làm sạch) phục vụ cho các nhà máy nước sạch
phục vụ công nghiệp và dân sinh; cấp nước cho nuôi trồng thủy sản, du lịch,
giao thông thuỷ,.... Do việc phải đảm trách thêm những nhiệm vụ sản xuất
kinh doanh mới này, công tác quản lý, vận hành các công trình trở nên phức
tạp hơn, và chi phí sản xuất cũng tăng cao hơn so với khi hệ thống chỉ có một
nhiệm vụ phục vụ tưới tiêu cho sản xuất nông nghiệp.
Do công tác định giá sản phẩm và hoạt động dịch vụ chưa được quan tâm
thích đánh, hay nói chính xác hơn, do chưa có hệ thống định mức kinh tế kỹ
thuật, định mức chi phí trong hoạt động sản xuất, nên hiện nay vấn đề cân đối
tài chính trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các hệ thống thuỷ lợi gặp
rất nhiều khó khăn và luôn rơi vào tình trạng xung đột trong các quan hệ hợp
đồng kinh tế mà không có căn cứ phân định đúng sai. Thực tế này đã dẫn đến
tình trạng, nguồn kinh phí thu được của các hệ thống công trình thủy lợi từ
cấp nước nông nghiệp và các ngành tham gia hưởng lợi không đủ để duy tu
bảo dưỡng và vận hành các công trình của hệ thống cấp nước và các hệ thống
thủy lợi dẫn nước tạo nguồn. Do thiếu kinh phí trong hoạt động vận hành và
duy tu cải tạo, nên các hệ thống thuỷ lợi hiện có ngày một xuống cấp, đời
sống cán bộ công nhân viên của các loại hình doanh nghiệp này ngày càng
khó khăn. Để duy trì hoạt động cầm chừng của các hệ thống này, hàng năm

2

nhà nước phải cấp bù một khoản ngân sách không nhỏ. Nếu không có những
định hướng đúng trong quản lý kinh tế và sản xuất kinh doanh, thì mãi mãi
hoạt động của các hệ thống thuỷ lợi vẫn ở trong vòng luẩn quẩn.
Đã đến lúc cần phải vận dụng các biện pháp pháp luật, hành chính, kinh tế,
kỹ thuật và tuyên truyền, giáo dục,... để giải quyết những mâu thuẫn giữa
cung và cầu và tình trạng tài nguyên nước không đủ so với nhu cầu dùng
nước tăng trưởng tương đối nhanh, giải quyết mâu thuẫn giữa tình trạng môi
trường bị xấu đi, trong khi khả năng xử lí và khắc phục không đầy đủ, giải
quyết mâu thuẫn giữa tình trạng giá nước vẫn còn thu tương đối thấp trong
khi phải đầu tư xây dựng công trình là lắp đặt các trang thiết bị quản lí vận
hành công trình nước với chất lượng cao và kinh phí đầu tư lớn.
Vì những lý do nêu trên, tác giả đã lựa chọn đề tài luận văn “Nghiên cứu
phương pháp xây dựng định mức chi phí cấp nước thô từ hệ thống công trình
thủy lợi phục vụ sinh hoạt và công nghiệp”. Việc nghiên cứu phương pháp
xây dựng định mức chi phí nói chung, định mức chi phí cấp nước thô từ hệ
thống công trình thủy lợi phục vụ sinh hoạt và công nghiệp nói riêng, là một
trong những công tác rất cần thiết và cấp bách cần thiết phải được triển khai
ngay. Kết quả của việc nghiên cứu này sẽ là cơ sở quan trọng để các đơn vị có
thể chủ động tổ chức xây dựng, rà soát điều chỉnh định mức cho đơn vị mình,
đồng thời giúp các cơ quan quản lý có thẩm quyền ở địa phương kiểm tra,
thẩm định kết quả tính toán và quyết định ban hành áp dụng các chỉ tiêu định
mức chi phí trong hoạt động quản lý khai thác hệ thống công trình thủy lợi.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhằm mục đích tìm ra phương pháp xây dựng định mức
chi phí cấp nước thô phù hợp với thực trạng tổ chức sản xuất, điều kiện trang
bị kỹ thuật và trình độ quản lý của doanh nghiệp quản lý khai thác công trình
thuỷ lợi trong điều kiện nền kinh tế thị trường, phù hợp với điều kiện tự
nhiên, kinh tế xã hội của một hệ thống công trình cụ thể.

3

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

a. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là phương pháp xây dựng định mức kinh
tế kỹ thuật nói chung, phương pháp xây dựng định mức chi phí cấp nước thô
ở các hệ thống công trình thuỷ lợi nói riêng.
b. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các hoạt động quản lý vận hành, sản xuất
kinh doanh, cung cấp dịch vụ cho các đối tượng hưởng lợi từ hệ thống công
trình thuỷ lợi. Đề tài tập trung nghiên cứu các hoạt động và chi phí phát sinh
do hoạt động cấp nước thô từ hệ thống công trình thuỷ lợi cho các hoạt động
sản xuất nước sạch phục vụ công nghiệp và sinh hoạt.
4. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện nội dung, nhiệm vụ của đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng
các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau: Phương pháp thống kế, kinh
nghiệm; Phương pháp so sánh; Phương pháp chuyên gia; Phương pháp phân
tích theo mô hình toán; Phương pháp tổng hợp; và một số phương pháp kết
hợp khác.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
a. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Trên cơ sở tổng quan các cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động nghiên
cứu và xây dựng định mức, luận văn đã đề xuất và lựa chọn được phương
pháp xây dựng định mức chi phí cấp nước thô phù hợp, có cơ sở khoa học
trong quản lý khai thác các hệ thống công trình thuỷ lợi ở nước ta hiện nay.
Những kết quả nghiên cứu của đề tài là nội dung tham khảo hữu ích cho
những nghiên cứu, học tập và giảng dạy về xây dựng định mức.
b. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài

4

Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được xem như một hướng dẫn mẫu,
một gợi ý quan trọng cho hoạt động thực tiễn về xây dựng định mức kinh tế
kỹ thuật và tổ chức quản lý sản xuất ở các hệ thống công trình thuỷ lợi.
6. Nội dung nghiên cứu

Để đạt được mục tiêu nghiên cứu theo nhiệm vụ đã đề ra, nội dung nghiên
cứu của đề tài tập trung vào các nội dung chính như sau:
- Nghiên cứu tổng quan về công tác xây dựng và áp dụng định mức chi phí
cấp nước thô từ hệ thống công trình thủy lợi phục vụ sinh hoạt và công
nghiệp. Tổng kết các kết quả định mức chi phí thực tế tại một số vùng, miền.
- Nghiên cứu xây dựng quy trình và phương pháp lập một số định mức chi phí
chủ yếu (gồm một số loại định mức chủ yếu: Chi phí tiền lương trên một đơn
vị sản phẩm; Chi phí các khoản theo lương; Chi phí nạo vét kênh mương; chi
phí dụng cụ, vật tư duy trì vệ sinh kênh mương; Chi phí vật tư, nghiên nhiên
liệu bảo dưỡng thiết bị vận hành công trình; Chi phí sửa chữa thường xuyên
tài sản cố định; Chi phí quản lý doanh nghiệp; Chi phí khấu hao tài sản cố
định; Chi phí tri trả tạo nguồn; Một số chi phí khác).
- Áp dụng kết quả nghiên cứu phương pháp xây dựng định mức để tính toán
chi phí cấp nước thô từ hệ thống công trình thủy lợi phục vụ sinh hoạt và
công nghiệp của một hệ thống thuỷ lợi cụ thể.

5

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐỊNH MỨC
KINH TẾ KỸ THUẬT TRONG QUẢN LÝ KHAI THÁC CÔNG TRÌNH
THUỶ LỢI
1.1. Một số khái niệm về định mức
Định mức là một trong những công cụ quan trọng và cần thiết trong các
hoạt động tổ chức và quản lý mà chính phủ của các quốc gia trên thế giới. Ở
Việt Nam công tác lập và áp dụng nhiều loại định mức khác nhau được Chính
phủ công bố hoặc hướng dẫn xây dựng, áp dụng, nhằm kiểm soát các hoạt
động kinh tế của đất nước. Về mặt xây dựng và quản lý, định mức được chia
thành các loại sau đây:
a. Định mức Nhà nước áp dụng chung cho các ngành, các cấp, được quy định
cho những sản phẩm (công việc) chủ yếu, do Nhà nước thống nhất quản lý, có
liên quan đến các cân đối chung của nền kinh tế quốc dân;
b. Định mức áp dụng trong từng ngành, được quy định cho những sản phẩm
(công việc) khi chưa có định mức Nhà nước, khi cần cụ thể hóa định mức Nhà
nước,hoặc cho những sản phẩm (công việc) của ngành được phân cấp quản
lý;
c. Định mức tỉnh,thành phố và đặc khu trực thuộc trung ương áp dụng trong
phạm vi tỉnh, được quy định cho những sản phẩm (công việc) khi chưa có
định mức Nhà nước, định mức ngành; khi cần cụ thể hóa định mức Nhà nước,
định mức ngành; hoặc cho những sản phẩm (công việc) của tỉnh, được phân
cấp quản lý;
d. Định mức huyện, quận và thành phố, thị xã trực thuộc tỉnh áp dụng trong
phạm vi huyện được quy định cho những sản phẩm (công việc) khi chưa có
định mức Nhà nước, định mức ngành, định mức tỉnh, thành phố; khi cần cụ
thể hoá định mức của cấp trên, hoặc cho những sản phẩm (công việc) của
huyện được phân cấp quản lý;

nguon tai.lieu . vn