Xem mẫu

  1. Cơ chế phát triển sạch theo nghị định thư Kyôtô khả năng và triển vọng tham gia của Việt BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO Nam TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG ------------------ TRẦN THỊ NGUYỆT GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 2007 - 2010 Chuyên ngành : Kinh tế thế giới và Quan hệ Kinh tế Quốc tế LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN TRUNG VÃN HÀ NỘI - 2007
  2. 1 LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngày nay, toàn cầu hoá là xu thế khách quan đang thu hút các quốc gia vào quỹ đạo này. Hệ quả tất yếu của xu thế đó là tự do hoá thị trƣờng tài chính, tự do hoá thị trƣờng tiền tệ. Tiến trình hội nhập chủ động của Việt Nam đƣợc đánh dấu bởi một chuỗi các sự kiện nhƣ: gia nhập ASEAN; tham gia AFTA, APEC; ký kết Hiệp định thƣơng mại song phƣơng Việt - Mỹ, Hiệp định tự do, xúc tiến và bảo hộ đầu tƣ với Nhật Bản…Đặc biệt tháng 11/2006 vừa qua, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thƣơng mại thế giới (WTO). Để hội nhập thành công, cạnh tranh là vấn đề quan trọng luôn đƣợc đặt lên vị trí hàng đầu trong nền kinh tế nói chung và trong chiến lƣợc phát triển của một ngân hàng nói riêng. Cạnh tranh càng trở nên cấp thiết hơn khi chúng ta phải thực hiện các cam kết mở cửa thị trƣờng dịch vụ tài chính ngân hàng khi hội nhập sâu vào nền kinh tế, trong khi đó năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam còn ở mức thấp. Các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam muốn tồn tại và phát triển, bắt kịp với nhịp độ hội nhập của thế giới thì không còn cách nào khác là phải khai thác triệt để lợi thế và nhanh chóng nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Ngân hàng Đầu tƣ và Phát triển Việt Nam hiện nay là một trong bốn Ngân hàng thƣơng mại quốc doanh lớn nhất của Việt Nam. Trong bối cảnh mới về hội nhập, việc phân tích thực trạng về năng lực cạnh tranh, đánh giá toàn diện những điểm mạnh, yếu, cơ hội và thách thức để từ đó đề xuất giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Đầu tƣ và Phát triển Việt nam là hết sức cấp thiết. Đề tài: “Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế 2007-2010” là vấn đề vừa có ý nghĩa lý luận, vừa mang tính thực tiễn cao. 2. Tình hình nghiên cứu Liên quan đến đề tài nghiên cứu đã có những công trình khoa học, các bài nghiên cứu đã công bố nhƣ:
  3. 2 - Chu Văn Cấp (2003), Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội. - CIEM và UNDP (2004), Nâng cao năng lực cạnh tranh Quốc gia, NXB Giao thông vận tải, Hà Nội. - Nguyễn Thị Quy (2005), Năng lực cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại trong xu thế hội nhập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. - Phạm Thanh Bình, Phạm Huy Hùng (2005), Nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, Công trình nghiên cứu khoa học ngành ngân hàng, Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam. Trong các nghiên cứu trên, vấn đề cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh tranh đã đƣợc tiếp cận ở những góc độ, những ngành và lĩnh vực cụ thể khác nhau. Tuy nhiên chƣa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách cụ thể về mặt lý luận, thực tiễn và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Đầu tƣ và Phát triển Việt Nam giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn 2007-2010. Đề tài này có mục đích và đối tƣợng nghiên cứu độc lập riêng, do đó không trùng lặp với bất kỳ công trình nghiên cứu nào nói trên. 3. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận cơ bản và đánh giá thực tiễn về năng lực cạnh tranh, đề tài đƣa ra những giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Đầu tƣ & Phát triển Việt Nam giai đoạn hội nhập 2007-2010. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về năng lực cạnh tranh của ngân hàng thƣơng mại Việt Nam giai đoạn hậu WTO. - Phân tích và đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Đầu tƣ và Phát triển Việt Nam trƣớc những cơ hội và thách thức của giai đoạn hậu WTO. - Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Đầu tƣ và Phát triển Việt Nam trong giai đoạn hậu WTO (2007-2010).
  4. 3 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tƣợng nghiên cứu là năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Đầu tƣ & Phát triển Việt Nam. - Phạm vi nghiên cứu: o Về không gian, đề tài nghiên cứu năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Đầu tƣ & Phát triển Việt Nam theo Lộ trình mở cửa hệ thống ngân hàng Việt Nam trong cam kết gia nhập WTO. o Về thời gian, đề tài tập trung phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh trong giai đoạn 2001-2006 và đề xuất giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho giai đoạn hậu WTO 2007-2010. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn dựa vào phƣơng pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin và quan điểm, chủ trƣơng của Đảng, Nhà nƣớc về phát triển các Ngân hàng thƣơng mại trong giai đoạn hội nhập. Đề tài này cũng sử dụng phƣơng pháp duy vật biện chứng, kết hợp phƣơng pháp duy vật lịch sử, phƣơng pháp logic và lịch sử, khái quát hóa và cụ thể hóa. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phƣơng pháp khoa học khác nhƣ phƣơng pháp thống kê, phƣơng pháp so sánh, phƣơng pháp phân tích và tổng hợp những tài liệu thu thập để đánh giá tình hình hiện tại và dự báo tƣơng lai. 7. Kết cấu luận văn Ngoài lời mở đầu, danh mục từ viết tắt, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn đƣợc bố cục thành 3 chƣơng: - Chương 1: Lý luận chung về năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn hội nhập hậu WTO; - Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trong giai đoạn hội nhập hậu WTO; - Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao năng lực canh tranh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trong giai đoạn hội nhập 2007-2010.
  5. 4 CHƢƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HỘI NHẬP HẬU WTO 1.1. NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI (NHTM) 1.1.1. Khái niệm cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của NHTM 1.1.1.1. Cạnh tranh là gì? Theo từ điển Longman của Anh thì “cạnh tranh là sự nỗ lực của một bên nhằm có được ưu thế hơn những đối thủ của mình trong kinh doanh”[42, tr.20]. Hoặc theo Giáo trình Marketing Quốc tế, Đại học Ngoại thƣơng Hà Nội do PGS.TS Nguyễn Trung Vãn làm chủ biên thì “cạnh tranh là quá trình giành giật những lợi thế từ phía đối thủ về phía doanh nghiệp mình nhằm đạt được hiệu quả kinh doanh tối ưu”[35, tr.37]. Nhƣ vậy, xét về khía cạnh kinh tế, cạnh tranh đƣợc hiểu là quá trình ganh đua hoặc tranh giành giữa ít nhất hai đối thủ để có đƣợc những nguồn lực hoặc ƣu thế về sản phẩm hoặc khách hàng về phía mình nhằm đạt đƣợc lợi ích tối đa. Cạnh tranh là một trong những quy luật cơ bản của nền kinh tế thị trƣờng. Nó là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp không ngừng cải tiến hoạt động sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất và chất lƣợng sản phẩm. Vì vậy, cạnh tranh cũng là động lực nâng cao hiệu quả hoạt động của mỗi nền kinh tế. Để đạt đƣợc những lợi thế trong kinh doanh, doanh nghiệp phải dựa trên những NLCT nhất định sẽ đƣợc tác giả trình bày chi tiết ở phần dƣới đây. 1.1.1.2. Năng lực cạnh tranh (NLCT) của doanh nghiệp nói chung Mặc dù có nhiều công trình nghiên cứu về năng lực hay lợi thế cạnh tranh song cho đến nay, tất cả các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng, rất khó có thể đƣa ra một định nghĩa chuẩn cho NLCT trong mọi trƣờng hợp. Đến thời gian gần đây, nổi bật nhất trong các học thuyết về NLCT là học thuyết của Michael Porter với những nghiên cứu khá toàn diện về NLCT của các doanh nghiệp, ngành sản xuất cũng nhƣ của một quốc gia. Tuy nhiên, Michael Porter cũng thừa nhận không thể đƣa ra một định nghĩa tuyệt đối về khái niệm NLCT của doanh nghiệp. Theo ông,
  6. 5 “Để có thể cạnh tranh thành công, các doanh nghiệp phải có được lợi thế cạnh tranh dưới hình thức hoặc là có được chi phí sản xuất thấp hơn hoặc là có khả năng khác biệt hoá sản phẩm để đạt được những mức lợi nhuận cao hơn trung bình. Muốn duy trì lợi thế cạnh tranh, các doanh nghiệp càng ngày càng vươn tới những lợi thế cạnh tranh tinh vi hơn, qua đó có thể cung cấp những hàng hoá hay dịch vụ có chất lượng cao hơn hoặc sản xuất có hiệu suất cao hơn”[44, tr. 10] Nhƣ vậy, Michael Porter đã tiếp cận khái niệm NLCT ở khía cạnh động. Để cạnh tranh thành công, doanh nghiệp phải luôn thay đổi để có sản phẩm mới, quá trình sản xuất mới, thị trƣờng mới. Ông cũng đã nhấn mạnh NLCT còn bao gồm việc doanh nghiệp phải duy trì và liên tục tăng cƣờng lợi thế cạnh tranh của mình. 1.1.1.3. NLCT của NHTM nói riêng a. Khái niệm và những đặc điểm chung của NHTM Ra đời từ rất sớm, NHTM đƣợc coi là mạch máu lƣu thông, là chất dầu bôi trơn cho cỗ máy nền kinh tế thị trƣờng. Nhà kinh tế học Peter S.Rose cho rằng: “NHTM là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán nhằm thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế” [43, tr. 7]. Tại điều 20, Luật các Tổ chức tín dụng của Việt Nam cũng nêu rõ: Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm NHTM, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã và các loại hình ngân hàng khác. [28, tr. 12] Nhƣ vậy, theo định nghĩa nào thì NHTM cũng đƣợc hiểu một loại hình doanh nghiệp đặc biệt vì hàng hoá sử dụng trong kinh doanh là tiền tệ. NHTM đóng vai trò tổ chức tài chính trung gian, hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ và dịch vụ. Hoạt động cơ bản và thƣờng xuyên của NHTM là nhận tiền gửi của khách hàng (huy động vốn) với trách nhiệm hoàn trả, sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nhiệm
  7. 6 vụ chiết khấu và cung ứng các dịch vụ thanh toán (sử dụng vốn). Theo xu hƣớng chung hiện nay, các NHTM đã mở rộng nhiều loại hình nghiệp vụ hiện đại rất phong phú và đa dạng nhằm thoả mãn tốt nhất các nhu cầu của xã hội. b. NLCT của NHTM Cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng là việc sử dụng tối đa các nguồn lực của mình so với các đối thủ để khẳng định vị trí của mình trên thị trƣờng tài chính. Nói một cách đầy đủ hơn: NLCT của NHTM là khả năng ngân hàng đó tạo ra, duy trì và phát triển những lợi thế nhằm duy trì và mở rộng thị phần, đạt được mức lợi nhuận cao hơn mức trung bình của ngành và liên tục tăng, đồng thời đảm bảo sự hoạt động an toàn và lành mạnh, có khả năng chống đỡ và vượt qua những biến động bất lợi của môi trường kinh doanh.[37, tr. 20] 1.1.2. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá NLCT của NHTM Trong lĩnh vực ngân hàng hiện chƣa có một phƣơng pháp luận chung để đánh giá NLCT của các ngân hàng hay hệ thống các ngân hàng đã đƣợc kiểm nghiệm và chứng minh. Tuy nhiên, hệ thống đánh giá ngân hàng CAMELS và lý thuyết về NLCT của Michael Porter cho thấy, việc đánh giá NLCT của một ngành, cụ thể ở đây là đánh giá các NHTM, không chỉ bao gồm việc tập trung nghiên cứu những nguồn lực nội tại hiện có của ngân hàng, hay chỉ tiêu hoạt động của ngân hàng đó, hay vị thế và uy tín, mà còn phụ thuộc vào rất nhiều các yếu tố khác nhƣ đối thủ cạnh tranh, sản phẩm thay thế, các nguồn lực mà ngân hàng có thể thích ứng với những thay đổi thế nào, ngân hàng có khả năng thay đổi chiến lƣợc cạnh tranh của mình không, các điều kiện môi trƣờng vĩ mô sẽ tác động nhƣ thế nào đến khả năng đó của ngân hàng trƣớc những thách thức và thời cơ mới. Nhƣ vậy, hệ thống chỉ tiêu đánh giá NLCT của hệ thống ngân hàng ở một quốc gia sẽ bao gồm hai bộ phận: Các chỉ tiêu đánh giá NLCT nội tại của các NHTM trên góc độ vi mô và các chỉ tiêu đánh giá tác động của những nhân tố ảnh hƣởng đến NLCT của hệ thống ngân hàng. Trong phạm vi của luận văn, tác giả xin đƣa ra một số chỉ tiêu cơ bản sau để đánh giá NLCT của NHTM trên khía cạnh tài chính và phi tài chính sau:
  8. 7 1.1.2.1. Năng lực tài chính Năng lực tài chính của một NHTM là khả năng tạo lập nguồn vốn và sử dụng vốn phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng, thể hiện ở mức vốn tự có, chất lƣợng tài sản, khả năng thanh khoản và khả năng sinh lời trong hoạt động kinh doanh. a. Mức vốn tự có (Capital) Yếu tố đầu tiên đƣợc nhắc đến nhƣ là điều kiện tiên quyết cho việc thành lập một NHTM chính là vốn tự có. Theo Luật các Tổ chức tín dụng của Việt Nam, “vốn tự có là giá trị thực của vốn điều lệ, các quỹ dự trữ, một số tài sản “Nợ” khác của tổ chức tín dụng theo quy định của NHNN. Vốn tự có là căn cứ để tính toán các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng”[28, tr. 3] Với định nghĩa nhƣ vậy, vốn tự có thƣờng có chức năng bảo vệ NHTM, giúp NHTM chống lại rủi ro phá sản, bù đắp những thua lỗ về tài chính và nghiệp vụ; tạo niềm tin cho công chúng và là sự đảm bảo đối với chủ nợ về sức mạnh tài chính của ngân hàng; cung cấp năng lực tài chính cho sự tăng trƣởng và phát triển các hình thức dịch vụ mới, chƣơng trình và trang thiết bị mới; và đảm bảo duy trì ổn định lâu dài của NHTM. Vốn tự có bao gồm vốn cấp 1 và vốn cấp 2, trong đó: Vốn cấp 1 (vốn cơ sở - core capital) bao gồm giá trị ghi sổ của cổ phiếu thƣờng, cổ phiếu ƣu đãi chƣa đến hạn, lợi nhuận không chia, thu nhập từ công ty con, tài sản vô hình xác định không tính tới danh tiếng của công ty. Vốn cấp 2 (vốn bổ sung – supplemental capital) bao gồm các khoản mục dự phòng tổn thất từ cho vay và cho thuê, các công cụ vốn nợ thứ cấp, các khoản nợ cho phép chuyển đổi,v.v.. Các cơ quan quản lý ngân hàng và thị trƣờng tài chính thƣờng đòi hỏi vốn ngân hàng phải phát triển tƣơng ứng với sự tăng trƣởng của danh mục cho vay và những tài sản rủi ro khác. Tiêu chuẩn quốc tế quy định ngân hàng không đƣợc cho vay quá 15% vốn và thặng dƣ vốn đối với một khách hàng. Đối với các khoản vay đƣợc đảm bảo an toàn thì giới hạn này là 25%.
  9. 8 Đánh giá mức vốn tự có của NHTM đƣợc thực hiện qua đánh giá quy mô vốn chủ sở hữu và Tỷ lệ an toàn vốn (CAR - Capital Adequacy Ratio - đƣợc tính bằng Vốn tự có trên Tổng tài sản điều chỉnh theo rủi ro1. Hiệp ƣớc Uỷ ban giám sát về hoạt động Ngân hàng (BASEL) 2 về tiêu chuẩn vốn quốc tế quy định CAR tối thiểu phải đạt 8% trong đó vốn cấp 2 không vƣợt quá 50% vốn cấp 1. Tỷ lệ CAR cao cho thấy khả năng về tài chính mạnh, tạo đƣợc uy tín, sự tin cậy, yên tâm cho khách hàng. Vì vậy, có thể khẳng định vốn tự có phản ánh sức mạnh tài chính của một ngân hàng và khả năng chống đỡ rủi ro của ngân hàng đó. Đây là một trong những nguồn lực quan trọng nhất quyết định NLCT của một ngân hàng. b. Chất lượng tài sản (Asset Quality) Tài sản của một NHTM thể hiện ở phần “Có” trong Bảng cân đối kế toán của NHTM đó. Quy mô, cơ cấu và chất lƣợng tài sản “Có” sẽ quyết định đến sự tồn tại và phát triển của NHTM. Tài sản “Có” bao gồm tài sản sinh lời (chiếm từ 80-90% tổng tài sản “Có”) và tài sản không sinh lời (chiếm từ 10-20% tổng tài sản “Có”). Chất lƣợng tài sản của NHTM là một chỉ tiêu tổng hợp nói lên khả năng bền vững về tài chính, năng lực quản lý của một tổ chức tín dụng. Đánh giá Chất lƣợng tài sản đƣợc thể hiện qua các chỉ tiêu: tỷ lệ nợ xấu3 trên tổng Tài sản “Có”, mức độ lập dự phòng và khả năng thu hồi các khoản nợ xấu, mức độ tập trung và đa dạng hoá danh mục tín dụng…. c. Khả năng thanh khoản của ngân hàng (Liquidity) Khả năng thanh khoản của một ngân hàng là khả năng sẵn sàng chi trả, thanh toán cho khách hàng và bù đắp những tổn thất khi xảy ra rủi ro trong hoạt động kinh doanh. 1 Tổng tài sản điều chỉnh theo rủi ro bao gồm: tài sản theo tỷ lệ rủi ro trong bảng cân đối kế toán và các khoản mục nằm ngoài bảng cân đối kế toán theo tỷ lệ rủi ro. Các tỷ lệ rủi ro này đƣợc quy định cho từng hạng mục tài sản. Khi xác định mức độ an toàn vốn của các NHTM ngƣời ta không căn cứ vào tổng tài sản của ngân hàng mà căn cứ vào tổng tài sản điều chỉnh theo rủi ro. 2 Đây là một Uỷ ban đƣợc thành lập bởi các nhà điều hành các ngân hàng trung ƣơng tại 10 Quốc gia vào năm 1974 nhằm cải thiện các hƣớng dẫn giám sát mà các ngân hàng trung ƣơng áp dụng đối với các ngân hàng bán buôn và bán lẻ. Uỷ ban đƣa ra các hƣớng dẫn giám sát ngân hàng đối với các nƣớc thành viên và không thành viên và hỗ trợ các chính quyền nhằm thực thi các khuyến nghị của Uỷ ban. 3 Nợ xấu là những khoản nợ không còn khả năng trả hoặc có nguy cơ không trả đƣợc. Tại Việt Nam, theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22 tháng 4 năm 2004 của Ngân hàng Nhà nƣớc, các khoản nợ đƣợc phân loại là Nhóm 1-Nợ đủ tiêu chuẩn, Nhóm 2-Nợ cần chú ý (Nợ quá hạn dƣới 90 ngày), Nhóm 3-Nợ dƣới tiêu chuẩn (Nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày), Nhóm 4- Nợ nghi ngờ (Nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày) và Nợ có khả năng mất vốn (Nợ quá hạn từ trên 360 ngày). Nợ nhóm 3, nhóm 4, nhóm 5 đƣợc coi là nợ xấu.
  10. 9 Khả năng thanh khoản của một ngân hàng thể hiện qua chỉ tiêu định lƣợng: Chỉ tiêu thanh khoản (cho biết tỷ trọng tài sản thanh khoản (dƣới 1 năm) trên tổng tài sản), và chỉ tiêu định tính về năng lực quản lý thanh khoản của NHTM và đặc biệt là khả năng quản lý rủi ro thanh khoản của ngân hàng đó. Theo thông lệ quốc tế, chỉ tiêu thanh khoản đạt 30% đƣợc coi là an toàn, đảm bảo cho ngân hàng có thể đáp ứng đƣợc nhu cầu rút tiền hay thanh toán tức thời với số lƣợng lớn. d. Khả năng sinh lời (Earnings) Khả năng sinh lời phản ánh kết quả hoạt động của một ngân hàng đồng thời phản ánh một phần kết quả cạnh tranh của ngân hàng đó. Đây là chỉ tiêu tổng hợp đánh giá hiệu quả kinh doanh và mức độ phát triển của một NHTM. Để đánh giá khả năng sinh lời của NHTM – ngƣời ta thƣờng sử dụng các chỉ tiêu sau: giá trị tuyệt đối của lợi nhuận sau thuế, tốc độ tăng trƣởng lợi nhuận, cơ cấu của lợi nhuận (cho biết lợi nhuận đƣợc hình thành từ nguồn nào) và đặc biệt là các chỉ tiêu tỉ suất lợi nhuận ròng trên vốn tự có (ROE), lợi nhuận ròng trên tổng tài sản (ROA), thu nhập lãi cận biên (NIM)… ROE là chỉ tiêu đo lƣờng khả năng sinh lời từ vốn tự có. Nói cách khác, ROE đánh giá lợi ích mà cổ đông (chủ sở hữu ngân hàng) có đƣợc từ nguồn vốn bỏ ra. Chỉ tiêu ROE luôn nhận đƣợc sự quan tâm từ hai phía chủ ngân hàng và nhà quản lý. Các nhà quản trị ngân hàng luôn muốn tăng ROE để thoả mãn yêu cầu của cổ đông thông qua nhiều biện pháp nhƣ kiểm soát rủi ro có hiệu quả, hạn chế khoản vay xấu… ROA là một thông số cho biết khả năng quản lý của Ban quản trị ngân hàng trong việc chuyển tài sản của ngân hàng thành lợi nhuận ròng. ROA càng lớn thể hiện hiệu quả kinh doanh của ngân hàng là cao và cơ cấu tài sản sinh lời và không sinh lời (earning assets và non-earning assets) khá hợp lý. Tuy nhiên, ROA quá cao không phải là tín hiệu tốt đối với các ngân hàng. Trong tình huống đó, ngân hàng đang rơi vào tình trạng rủi ro cao do lợi nhuận kỳ vọng và rủi ro có mối quan hệ thuận chiều. Một ngân hàng đƣợc coi là có khả năng sinh lời cao nếu ROE cao hơn mức lợi nhuận kỳ vọng với các cổ phiếu đầu tƣ trên thị trƣờng đó và ROA đạt từ 1,2% đến 1,5%.
  11. 10 Tỷ suất thu nhập lãi cận biên (NIM) đo lƣờng mức chênh lệch giữa thu lãi từ tài sản sinh lời và chi lãi trên Tổng tài sản sinh lời của ngân hàng. Ngân hàng có thể đạt đƣợc NIM hiệu quả trong khoảng 1,8%-3% thông qua việc cân đối cơ cấu tài sản hợp lý và nguồn vốn có chi phí thấp. Ngoài ba chỉ tiêu cơ bản kể trên, có thể đánh giá khả năng sinh lời của ngân hàng qua các chỉ tiêu: Tỷ lệ thu nhập cận biên ngoài lãi, thu nhập trên cổ phiếu (Earning per share – EPS), tỷ lệ tài sản sinh lời…Việc đánh giá hoạt động của ngân hàng có mức độ hiệu quả nhƣ thế nào cần tổng hợp của nhiều chỉ tiêu. Vai trò của các chỉ tiêu này có thể đƣợc đánh giá khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích và hoàn cảnh cụ thể của công việc nghiên cứu phân tích. Nhƣ vậy, một NHTM có năng lực tài chính tốt phải là NHTM luôn duy trì đƣợc hoạt động bình thƣờng và phát triển một cách ổn định, bền vững trong mọi điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội ở trong nƣớc và trên thế giới. NHTM có khả năng cung cấp tín dụng có hiệu quả và các dịch vụ tài chính ngân hàng cho nền kinh tế, phù hợp với quá trình phát triển kinh tế, xã hội trong nƣớc và thế giới. NHTM còn phải bảo đảm đƣợc sự tồn tại và phát triển của mình một cách an toàn, không xảy ra những đổ vỡ hay phá sản. Năng lực tài chính của một NHTM càng đƣợc đảm bảo thì mức độ rủi ro trong hoạt động ngân hàng càng thấp và NLCT của NHTM trên thị trƣờng càng cao. Do vậy, năng lực tài chính của NHTM phải không ngừng đƣợc nâng cao và hoàn thiện, đó là điều kiện không thể thiếu đƣợc của bất cứ một NHTM nào nếu muốn tồn tại trong bối cảnh thị trƣờng cạnh tranh gay gắt nhƣ hiện nay. 1.1.2.2. Năng lực phi tài chính Bên cạnh năng lực tài chính nói trên, NLCT của một NHTM còn đƣợc đánh giá ở khía cạnh năng lực phi tài chính, thể hiện ở năm chỉ tiêu cơ bản sau: a. Năng lực cung ứng dịch vụ ngân hàng Theo nhà kinh tế học Peter S. Rose, “Thành công của mỗi ngân hàng hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu,
  12. 11 cung cấp các dịch vụ đó một cách hiệu quả và bán chúng theo mức giá cạnh tranh”[43, tr. 78]. Do nét nổi bật của ngành ngân hàng là các dịch vụ hầu nhƣ không có sự khác biệt lớn nên các NHTM có thể phát huy khả năng cạnh tranh của mình không chỉ bằng chất lƣợng, bằng công dụng cơ bản của dịch vụ mà còn bằng sự độc đáo, tiện ích, trọn gói, và đa dạng hoá dịch vụ. Năng lực cung ứng dịch vụ một mặt tạo cho ngân hàng phát triển ổn định hơn, mặt khác cho phép ngân hàng phát huy lợi thế nhờ quy mô. Việc đánh giá năng lực cung ứng dịch vụ của ngân hàng có thể xét trên khía cạnh chủ yếu: các yếu tố hữu hình (địa điểm, mức độ hiện đại của máy móc thiết bị…), chất lƣợng nhân viên cung ứng dịch vụ, tính tiếp cận đƣợc (mức tiện lợi hay dễ dàng trong tiếp cận dịch vụ), mức độ an toàn và chính xác của dịch vụ cung cấp. b. Năng lực công nghệ Trong cuốn Quản trị thƣơng mại, Peter Rose đã viết: “Hệ thống ngân hàng hiện đại ngày càng giống với một ngành của chi phí cố định…Mỗi NHTM muốn duy trì lợi nhuận và khả năng cạnh tranh thường phải mở rộng hoạt động bằng cách giành ưu thế hơn các ngân hàng nhỏ mà họ không có khả năng theo kịp những đổi mới về công nghệ”[43, tr. 667]. Chỉ tiêu năng lực công nghệ có ý nghĩa quan trọng trong đánh giá NLCT của ngân hàng trong chiến lƣợc dài hạn. Công nghệ ngân hàng không chỉ bao gồm những công nghệ mang tính tác nghiệp nhƣ hệ thống thanh toán điện tử, hệ thống ngân hàng bán lẻ, máy rút tiền tự động (ATM)…mà còn bao gồm hệ thống quản lý thông tin (MIS), hệ thống báo cáo rủi ro…trong nội bộ ngân hàng. Năng lực công nghệ của NHTM thƣờng đƣợc đánh giá thông qua các chỉ tiêu: khả năng trang bị công nghệ mới (bao gồm thiết bị hiện đại), mức độ đáp ứng của công nghệ ngân hàng đối với nhu cầu của thị trƣờng để duy trì và nâng cao thị phần dịch vụ, tính liên kết công nghệ giữa các ngân hàng và tính độc đáo về công nghệ của mỗi ngân hàng… c. Nhân lực và quản trị điều hành Nguồn nhân lực là yếu tố quyết định không thể thiếu của bất kỳ doanh nghiệp nào bên cạnh máy móc thiết bị và vốn. Là một ngành cung cấp dịch vụ điển
  13. 12 hình, chất lƣợng dịch vụ ngân hàng phụ thuộc chặt chẽ vào ngƣời trực tiếp cung ứng dịch vụ. Quá trình sản xuất và tiêu dùng dịch vụ ngân hàng diễn ra một cách đồng thời, và khách hàng tiếp xúc trực tiếp với ngƣời cung ứng dịch vụ nên nhân viên ngân hàng đƣợc xem là đại diện hình ảnh của ngân hàng trƣớc khách hàng. NLCT về nhân lực của một ngân hàng thể hiện ở những yếu tố nhƣ: chính sách tuyển dụng, cơ chế thù lao, quá trình đào tạo, trình độ nghiệp vụ, kinh nghiệm trong ngành, đạo đức nghề nghiệp… Quản trị điều hành là những cơ chế, quy định thông qua đó NHTM đƣợc điều hành và kiểm soát. Cơ cấu quản trị điều hành xác định quyền hạn và trách nhiệm giữa những thành viên khác nhau trong công ty, bao gồm các Cổ đông, Hội đồng quản trị, Ban điều hành, Ban kiểm soát và những ngƣời liên quan khác của ngân hàng. Đồng thời, quản trị điều hành cũng thiết lập các nguyên tắc và quy trình, thủ tục ra quyết định trong ngân hàng, qua đó ngăn chặn sự lạm dụng quyền lực và chức vụ, giảm thiểu những rủi ro không đáng có cho ngân hàng. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của khối tài chính ngân hàng cả về số lƣợng và quy mô, đặc biệt là sự hình thành các tập đoàn ngân hàng tài chính lớn thì quản trị điều hành, công cụ quan trọng giúp tách biệt giữa sở hữu và quản lý, đƣợc xem là một yếu tố rất quan trọng của NLCT. Đánh giá năng lực quản trị điều hành của NHTM thƣờng thông qua các chỉ tiêu: mô hình và cơ chế vận hành một ngân hàng hiện đại áp dụng các thông lệ quốc tế về quản trị doanh nghiệp; trình độ của bộ máy ban lãnh đạo, của lực lƣợng chủ yếu, lao động có tay nghề cao; khả năng thích ứng của cơ chế điều hành trƣớc diễn biến của thị trƣờng,… d. Năng lực quản trị rủi ro Có thể khẳng định rằng, hiệu quả kinh doanh của một NHTM phụ thuộc rất lớn vào năng lực quản trị rủi ro của ngân hàng đó. Xét một cách tổng thể, rủi ro đối với NHTM thƣờng tập trung ở rủi ro tín dụng, rủi ro thị trƣờng và rủi ro tác nghiệp. Quản trị rủi ro phải đƣợc thực hiện đối với riêng từng rủi ro và đối với toàn bộ danh mục rủi ro. Mỗi NHTM, muốn có NLCT cao, phải xây dựng cho mình mức rủi ro mà
  14. 13 NHTM có thể chấp nhận đƣợc (risk appetite level) trong các hoạt động kinh doanh. NHTM cần đánh giá rủi ro để quyết định những rủi ro nào mình có thể kiểm soát đƣợc và những rủi ro nào không thể kiểm soát đƣợc. Đối với những rủi ro có thể kiểm soát đƣợc, NHTM phải đánh giá liệu có chấp nhận những rủi ro này không, hay mức độ giảm thiểu rủi ro mà NHTM mong muốn đạt đƣợc thông qua quá trình kiểm soát. Đối với những rủi ro không kiểm soát đƣợc, NHTM phải quyết định chấp nhận những rủi ro đó, hoặc quyết định không tham gia, hoặc giảm mức độ tham gia vào hoạt động kinh doanh có rủi ro đó. Nhƣ vậy, thông qua việc tăng cƣờng năng lực quản trị rủi ro, ngân hàng sẽ đảm bảo cho hoạt động kinh doanh đƣợc an toàn và phát triển bền vững, nâng cao NLCT cho ngân hàng. e. Thương hiệu, mạng lưới chi nhánh và quan hệ ngân hàng đại lý Đối với một NHTM, thƣơng hiệu doanh nghiệp và mạng lƣới chi nhánh có ý nghĩa rất quan trọng vì nó ảnh hƣởng tới hiệu quả tiếp xúc giữa khách hàng và ngân hàng. Nếu một ngân hàng xây dựng đƣợc hình ảnh tốt, có uy tín với khách hàng hay đối tác thì ngân hàng đó sẽ có lợi thế cạnh tranh rất lớn, có khả năng tạo nhiều cơ hội kinh doanh đem lại nhiều lợi nhuận cho các bên. Mạng lƣới chi nhánh rộng khắp cũng là điều kiện cho sự hiện diện thƣơng mại của ngân hàng đó, là kênh phân phối các hoạt động dịch vụ của ngân hàng đến với khách hàng. Việc phát triển quan hệ ngân hàng đại lý cũng có ý nghĩa rất quan trọng trong kinh doanh ngân hàng. Quan hệ đại lý của một ngân hàng đƣợc hiểu là quan hệ với một định chế tài chính để cung cấp dịch vụ cho bên thứ ba. Thông qua việc thiết lập và phát triển quan hệ đại lý rộng khắp, NHTM có thể có đƣợc “cánh tay nối dài” để hợp tác cung cấp dịch vụ cho các khách hàng trên quy mô toàn cầu trong nhiều lĩnh vực nhƣ thanh toán quốc tế, tài trợ xuất nhập khẩu, kinh doanh tiền tệ, đồng tài trợ, bảo lãnh, nhờ thu tiền mặt, thanh toán séc, hỗ trợ về đào tạo, trao đổi thông tin, vv… Nhƣ vậy năng lực tài chính và năng lực phi tài chính, hai khía cạnh có quan hệ tác động qua lại, bổ trợ cho nhau sẽ hình thành cơ bản NLCT của doanh nghiệp nói chung và của một ngân hàng nói chung. Tuy nhiên, ngoài các chỉ tiêu đánh giá
  15. 14 NLCT nội tại của các NHTM trên giác độ vi mô nhƣ nêu trên, môi trƣờng vĩ mô và môi trƣờng tác nghiệp cũng có ảnh hƣởng rất lớn tới NLCT của một NHTM theo trình bày ở phần dƣới đây. 1.1.3. Các yếu tố môi trƣờng kinh doanh ảnh hƣởng tới NLCT của NHTM 1.1.3.1. Nhóm yếu tố thuộc môi trƣờng vĩ mô a. Sự biến động của nền kinh tế trong và ngoài nước Nếu coi hệ thống ngân hàng là một hệ tuần hoàn trong một cơ thể sống là nền kinh tế thì hệ tuần hoàn đó có hoạt động tốt hay không, có đủ máu để lƣu thông và chất lƣợng máu cũng nhƣ hệ thống mao mạch có tốt hay không lại phụ thuộc vào sức khoẻ của cơ thể sống ấy. Ngân hàng cũng là một ngành chứa đựng rất nhiều rủi ro. Mỗi một bất lợi của môi trƣờng kinh tế vĩ mô đều có thể ảnh hƣởng đến hoạt động bình thƣờng của một ngân hàng. Một nƣớc có nền kinh tế phát triển ổn định, tốc độ tăng trƣởng cao, các chỉ số về lạm phát, lãi suất và tỷ giá phát triển ổn định, sự biến đổi cơ cấu kinh tế theo hƣớng tích cực sẽ là điều kiện rất thuận lợi cho sự phát triển của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Ngƣợc lại, sự bất ổn về kinh tế có thể tạo ra sự dè dặt, giảm sút của những nỗ lực đầu tƣ của các doanh nghiệp nói chung và các NHTM nói riêng. Bên cạnh tác động của nền kinh tế trong nƣớc, tình hình kinh tế toàn cầu, kinh tế khu vực cũng ảnh hƣởng rất lớn đến lĩnh vực ngân hàng nhƣ là nghiệp vụ mua bán ngoại tệ, đầu tƣ tài chính và các giấy tờ có giá trên thị trƣờng tài chính quốc tế hoặc trực tiếp đi vay/cho vay nƣớc ngoài… b. Sự phát triển của khoa học và công nghệ Khoa học và công nghệ trên thế giới ngày nay đƣợc phát triển rất nhanh chóng và ngày càng hiện đại. Chính sự phát triển kỳ diệu của khoa học và công nghệ đã tác động mạnh mẽ tới nhiều ngành kinh tế, trong đó có ngành ngân hàng. Thực tế cho thấy sự phát triển của khoa học và công nghệ đã thúc đẩy hiện đại hoá dịch vụ ngân hàng, tạo nhiều tiện ích trong các giao dịch ngân hàng cung cấp cho khách hàng, thu hút nhiều khách hàng đến với ngân hàng hơn. Đó là hệ thống mạng internet, mạng thanh toán SWIFT, quản trị thông tin nội bộ, các công nghệ về thẻ
  16. 15 điện tử, các công nghệ in ấn tinh xảo chứng chỉ ngân hàng, các thiết bị phân biệt tiền giả… Vì vậy, sự phát triển của khoa học và công nghệ đòi hỏi sự hiện đại hoá công nghệ ngân hàng nhƣ là một tất yếu, khách quan, quyết định sự sống còn của các ngân hàng. c. Môi trường văn hoá, xã hội, chính trị và pháp luật Môi trƣờng văn hoá, xã hội ảnh hƣởng rất nhiều đến yếu tố con ngƣời. Đối với khách hàng thì nó sẽ ảnh hƣởng đến thị hiếu, nhu cầu và thói quen tiêu dùng. Đối với cán bộ nhân viên trong ngân hàng thì nó sẽ ảnh hƣởng tới đạo đức nghề nghiệp. Ngoài ra, trong bối cảnh hội nhập quốc tế, ngân hàng phải chuẩn mực hoá theo mô hình ngân hàng hiện đại để có thể cung cấp các loại dịch vụ đạt chất lƣợng ở mặt bằng chung và có thể hoà nhập vào hệ thống dịch vụ ngân hàng trên toàn cầu. Sự ổn định, nhất quán về chính trị và pháp luật sẽ tạo sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tƣ vào ngân hàng. Các chính sách quản lý của ngân hàng trung ƣơng có thể tạo điều kiện cho các ngân hàng đƣợc hoạt động tự chủ hơn, mặt khác cũng có thể gây cản trở trong hoạt động của ngân hàng. 1.1.3.2. Nhóm yếu tố thuộc môi trƣờng tác nghiệp Môi trƣờng tác nghiệp là các yếu tố xuất hiện trong một ngành sản xuất kinh doanh, quyết định tính chất và khả năng cạnh tranh của ngành kinh doanh đó. Theo Michael Porter, môi trƣờng tác nghiệp gồm 5 yếu tố cơ bản: đối thủ cạnh tranh, đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn, các sản phẩm thay thế, khách hàng và nhà cung cấp. Dƣới đây, chúng ta sẽ xem xét các yếu tố của môi trƣờng tác nghiệp này trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng nhƣ sau: a. Đối thủ cạnh tranh Mức độ cạnh tranh hiện tại của ngành ngân hàng phụ thuộc vào mức độ tăng trƣởng của ngành, quy mô thị trƣờng, số lƣợng các đối thủ cạnh tranh và quy mô của họ cũng nhƣ mức độ quan trọng của các rào cản rút lui (thu hồi vốn đầu tƣ, hình ảnh, thƣơng hiệu và uy tín của các ngân hàng, các hạn chế về pháp luật). Một trong những thách thức của các ngân hàng hiện nay là không chỉ cạnh tranh trong một quốc gia mà còn phải cạnh tranh với các ngân hàng toàn cầu và các
  17. 16 định chế tài chính phi ngân hàng (các công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, công ty tài chính, các loại quỹ đầu tƣ…) ngay tại thị trƣờng nội địa. Do đó, khi nghiên cứu mức độ cạnh tranh trong ngành ngân hàng, cần phải xem xét tầm quan trọng chiến lƣợc của hoạt động kinh doanh hiện tại đối với toàn bộ hoạt động và mục tiêu mà đối thủ cạnh tranh đặt ra, đặc biệt là tiềm lực của đối thủ cạnh tranh mạnh nhất trên thị trƣờng, nhƣ khả năng kinh doanh, nguồn lực cạnh tranh của họ, trạng thái tài chính và thị phần hiện tại. b. Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn trong lĩnh vực ngân hàng chính là những định chế tài chính chƣa tham gia vào ngành nhƣng rất có thể sẽ trở thành đối thủ cạnh tranh trực tiếp của các ngân hàng trong tƣơng lai. Việc đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn này có gia nhập vào ngành hay không cũng nhƣ việc tham gia đó nhanh hay chậm phụ thuộc vào các rào cản gia nhập nhƣ vốn đầu tƣ, kinh nghiệm, các mối quan hệ, uy tín và khả năng phản ứng trả đũa của các đối thủ cạnh tranh sẵn có trong ngành đối với những đối thủ mới gia nhập. Một điều hiển nhiên là các rào cản gia nhập có thể thay đổi cả về số lƣợng và tính chất theo chiều hƣớng có lợi cho đối thủ cạnh tranh hiện tại và bất lợi cho các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng hoặc ngƣợc lại. c. Sản phẩm thay thế Đối với ngành ngân hàng, các sản phẩm thay thế hiện nay chƣa nhiều, nếu có chăng thì vẫn chƣa thay thế đƣợc một cách toàn diện các chức năng của ngân hàng. Tuy nhiên, các sản phẩm này cũng có thể tạo nên một khả năng cạnh tranh mạnh, chiếm dần thị trƣờng của ngân hàng. Ví dụ, thị trƣờng chứng khoán với chức năng cầu nối giữa doanh nghiệp và các nhà đầu tƣ sẽ làm suy giảm ở cả hai thị trƣờng quan trọng của ngân hàng là thị trƣờng tiền gửi và thị trƣờng tín dụng. Hay nhƣ các công ty bảo hiểm, cho thuê tài chính, tiết kiệm bƣu điện… có thể tấn công vào thị trƣờng tiền gửi của dân cƣ. d. Khách hàng Cũng nhƣ các ngành kinh doanh khác, khách hàng trong ngành ngân hàng đóng một vai trò rất quan trọng, có thể ảnh hƣởng tới lợi nhuận của các ngân hàng,
  18. 17 nhất là khi trong ngành có khá nhiều đối thủ cạnh tranh. Là một lĩnh vực kinh doanh mà sự khác biệt của dịch vụ hầu nhƣ không nhiều, giá cả lãi suất cũng gần giống nhau thì các ngân hàng chỉ có thể thu hút khách hàng bằng chất lƣợng dịch vụ bằng cách nâng cao các tiện ích cho khách hàng, các điều kiện thanh toán ƣu đãi bằng uy tín thƣơng hiệu, sự nỗ lực tạo dựng và phát triển các mối quan hệ tốt đẹp và lâu dài với khách hàng. e. Nhà cung cấp Đối với ngành ngân hàng, số lƣợng nhà cung cấp là rất lớn và sức mạnh của nhà cung cấp đối với các ngân hàng là rất thấp nên các nhà cung cấp khó có thể gây áp lực cho các ngân hàng. Cụ thể là đầu vào của ngành ngân hàng là tiền gửi dân cƣ và các tổ chức kinh tế xã hội. Sự khác biệt giữa các loại đầu vào là không lớn và các đầu vào thay thế có sẵn. Nếu một cá nhân không đến gửi tiền tại ngân hàng thì cũng không ảnh hƣởng nhiều tới nguồn vốn của ngân hàng, nghĩa là ngân hàng ít bị sức ép từ phía ngƣời gửi tiền. Ảnh hƣởng của đầu vào đến chi phí hoặc đến sự khác biệt của sản phẩm là thấp. Hơn nữa, chi phí của việc chuyển từ nhà cung cấp này sang nhà cung cấp khác không đáng kể. Mặc dù vậy, trong một thời điểm nào đó, nếu ngân hàng để mất lòng tin với dân chúng hoặc có sự phản ứng của dân chúng trƣớc những biến động chính trị, kinh tế, xã hội mà đồng loạt rút tiền khỏi ngân hàng thì ngân hàng có thể bị phá sản vì không có đủ tiền mặt ngay để đáp ứng. Nhƣ vậy, ở phần đầu của chƣơng 1, chúng ta đã khái quát hệ thống chỉ tiêu đánh giá NLCT và các yếu tố thuộc môi trƣờng kinh doanh ảnh hƣởng tới NLCT của NHTM. Phần tiếp theo của chƣơng sẽ đề cập tới Lộ trình mở cửa hệ thống Ngân hàng Việt Nam theo cam kết gia nhập WTO, từ đó đặt ra vấn đề cấp bách phải năng cao NLCT cho các NHTM tại Việt Nam.
  19. 18 1.2. SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HỘI NHẬP HẬU WTO 1.2.1 Khái quát về Tổ chức thƣơng mại thế giới (WTO) và hệ thống Ngân hàng Việt Nam 1.2.1.1 Khái quát về Tổ chức thƣơng mại thế giới (WTO) WTO là tổ chức thƣơng mại quy mô toàn cầu, hiện có 150 thành viên (gồm các quốc gia và vùng lãnh thổ), đƣợc thành lập ngày 1/1/1995. Tiền thân của tổ chức này là Hiệp định chung về thuế quan và thƣơng mại (GATT), đƣợc 23 quốc gia ký kết vào năm 1947 nhằm tăng cƣờng giao lƣu thƣơng mại giữa các quốc gia thông qua việc cắt giảm các hàng rào bảo hộ ở mỗi nƣớc thành viên. WTO là một tổ chức bao gồm các cơ quan có thẩm quyền nhƣ: Hội nghị Bộ trƣởng, Đại hội đồng, các Uỷ ban chức năng và Cơ quan giải quyết tranh chấp. Giúp việc cho các cơ quan này là Ban Thƣ ký với hơn 600 nhân viên, đứng đầu là Tổng thƣ ký. Trụ sở WTO đặt tại Giơ-ne-vơ, Thụy Sỹ. a. Chức năng và nguyên tắc của WTO WTO có 4 chức năng cơ bản: (i) Quản lý giám sát và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi các hiệp định của WTO; (ii) Thúc đẩy tự do hoá thƣơng mại thông qua các cuộc đàm phán đa phƣơng về tự do hoá thƣơng mại; (iii) Giải quyết tranh chấp thƣơng mại giữa các thành viên theo các quy tắc, trình tự, thủ tục do WTO quy định và (iv) Hỗ trợ kỹ thuật cho các nƣớc đang phát triển thông qua các chƣơng trình tƣ vấn, đào tạo nguồn nhân lực, hợp tác với các tổ chức quốc tế khác. WTO hoạt động dựa trên 3 nguyên tắc cơ bản: (i) Không phân biệt đối xử, đây là nguyên tắc quan trọng nhất, thể hiện qua hai chế độ là đối xử tối huệ quốc (MFN) và đối xử quốc gia (NT); (ii) Thúc đẩy thƣơng mại quốc tế đối với hàng hoá và dịch vụ thông qua đàm phán dỡ bỏ rào cản giữa các quốc gia (cắt giảm thuế nhập khẩu, loại bỏ các biện pháp phi thuế, xử lý các hành vi gây lệch lạc thƣơng mại nhƣ trợ cấp, phá giá..); (iii) Minh bạch hoá: bao gồm minh bạch về chính sách và minh bạch về tiếp cận thị trƣờng.
  20. 19 Các văn kiện pháp lý của WTO bao gồm 4 “trụ cột” chính: (i) Hiệp định chung về thuế quan và thƣơng mại (GATT), chuyên điều chỉnh thƣơng mại hàng hoá; (ii) Hiệp định chung về thƣơng mại dịch vụ (GATS), chuyên điều chỉnh thƣơng mại dịch vụ; (iii) Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thƣơng mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPs) và (iv) Thoả thuận về quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp. b. Một số quy định chung của WTO đối với ngành dịch vụ ngân hàng Hiệp định chung về Thƣơng mại Dịch vụ (GATS) quy định những nghĩa vụ và nguyên tắc hoạt động trong thƣơng mại dịch vụ. Các nghĩa vụ của GATS có thể đƣợc phân theo hai nhóm: Các nghĩa vụ chung đƣợc áp dụng cho tất cả các nƣớc thành viên và nghĩa vụ thực hiện các cam kết về tiếp cận thị trƣờng và đối xử quốc gia trong các ngành và phân ngành của mỗi nƣớc. Theo đó, WTO có đƣa ra một số quy định chung đối với ngành ngân hàng nhƣ sau: o Đãi ngộ tối huệ quốc (MFN): Các thành viên có nghĩa vụ đối xử nhƣ nhau với tất cả các nƣớc hoặc khi một thành viên dành ƣu đãi cho một nƣớc thì phải dành ƣu đãi cho tất cả các thành viên, trừ khi quốc gia đó có những miễn trừ MFN đƣợc nêu trong danh mục cam kết của mình khi gia nhập WTO. Các ƣu đãi áp dụng hạn chế trên cơ sở song phƣơng sẽ đƣợc dành cho tất cả các nƣớc thành viên WTO. Chẳng hạn nhƣ khi Việt Nam dành ƣu đãi cho Hoa Kỳ trong lĩnh vụ dịch vụ ngân hàng theo BTA thì Việt Nam cũng phải dành những ƣu đãi tƣơng tự trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng cho tất cả các thành viên còn lại của WTO. o Minh bạch: Minh bạch là nghĩa vụ chung bắt buộc trong GATS và cũng đƣợc áp dụng trong lĩnh vực ngân hàng. Ít nhất mỗi năm một lần, các nƣớc thành viên có nghĩa vụ thông báo và cung cấp cho Hội đồng Thƣơng mại Dịch vụ thông tin liên quan về các quy định pháp luật ngân hàng hiện hành và việc sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản pháp luật ngân hàng. o Đãi ngộ quốc gia (NT): các nƣớc thành viên có nghĩa vụ đối xử nhƣ nhau giữa các doanh nghiệp trong nƣớc và nƣớc ngoài. Cụ thể trong lĩnh vực dịch
nguon tai.lieu . vn