- Trang Chủ
- Thạc sĩ - Tiến sĩ - Cao học
- LUẬN VĂN: Quá trình thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam từ năm 1998 đến 2006
Xem mẫu
- LUẬN VĂN:
Quá trình thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) về xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam từ năm
1998 đến 2006
- Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn hóa hiểu theo nghĩa rộng là sự hiểu biết và trí tuệ của con người, do con
người sáng tạo ra trong suốt chiều dài lịch sử. Nó thể hiện trình độ phát triển của mỗi dân
tộc và thời đại và là sự kết tinh những giá trị cao quý, tốt đẹp nhất trong các mối quan hệ
ứng xử giữa con người với con người, với xã hội và với tự nhiên.
Văn hóa giữ vai trò quan trọng vì nó liên quan đến mọi lĩnh vực trong đời sống xã
hội. Văn hóa như chất keo kết dính các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội... tạo nên sự
phát triển đồng thuận, hài hòa và bền vững. Cùng với thời gian, văn hóa đã làm nên bản
sắc riêng cho từng quốc gia, dân tộc.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ trên thế giới ngày nay chứng tỏ
tài năng, trí tuệ và sức mạnh của con người trong quá trình chinh phục tự nhiên, xã hội.
Tuy nhiên, mặt trái của sự phát triển cũng đang đặt ra nhiều thách thức cho cuộc sống
con người như ô nhiễm môi trường, thiên tai, bệnh tật... Vậy làm thế nào để tạo ra sự cân
bằng giữa tự nhiên và con người, giữa tăng trưởng kinh tế với ổn định và phát triển hài
hòa? Trong bối cảnh này, sự phát triển toàn diện của văn hóa có ý nghĩa rất to lớn!
Trong quá trình dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã sớm hình thành nên
nền văn hóa thể hiện bản lĩnh, cốt cách của dân tộc. Nền văn hóa ấy là sự kết tinh sức
mạnh, trí tuệ, tâm hồn của người Việt, cùng với sự giao lưu và tiếp thu tinh hoa văn hóa
của nhân loại. Chính sức mạnh của văn hóa đã giúp dân tộc Việt Nam giữ vững và phát
huy bản sắc của mình, không những không bị đồng hóa mà còn khôi phục, gìn giữ và
khẳng định chủ quyền quốc gia dân tộc.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, văn hóa Việt Nam ngày
càng phát triển và hoàn thiện, trở thành một "mặt trận" quan trọng góp phần quyết định
vào những thắng lợi to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, vị trí, vai trò và ý nghĩa của văn hóa cho sự phát triển bền vững ngày
càng được thể hiện rõ nét. Văn hóa, bản sắc dân tộc của văn hóa là một động lực không
- thể thiếu cho sự phát triển vì mục tiêu nhân văn, vì giá trị nhân đạo, vì con người với
cuộc sống đích thực con người. Mục tiêu đó chỉ có thể đạt được khi chúng ta thực hiện
thành công sự kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội, bởi
"kinh tế và văn hóa là hai chân của sự phát triển (...) phát triển kinh tế là cơ sở và điều
kiện quan trọng hàng đầu của phát triển văn hóa và ngược lại, phát triển văn hóa chính là
mục tiêu và động lực của phát triển kinh tế - xã hội" [50, tr.9]. Xu hướng chung của nhân
loại hiện nay là khơi dậy sức sống tiềm tàng của văn hóa dân tộc để phát triển và hòa
nhập, vì thế phát triển văn hóa, gìn giữ và phát huy bản sắc dân tộc, giải quyết đúng đắn
mối quan hệ giữa văn hóa với kinh tế, chính trị, xã hội chính là cơ sở, là sức mạnh nội
sinh, là nền tảng cho sự phát triển lâu bền - sự phát triển cho hôm nay và mai sau của dân
tộc Việt Nam.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong Cương lĩnh xây dựng đất nước đã được các hội nghị
Trung ương Đảng phát triển đầy đủ và phong phú hơn. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp
hành Trung ương (khóa VII) (tháng 1-1993) nhấn mạnh "Cùng với việc xây dựng và phát
triển nền kinh tế hàng hoá, phải xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc, theo định hướng xã hội chủ nghĩa với những đặc trưng cơ bản là dân tộc,
hiện đại, nhân văn" [28, tr.354]. Tại Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương
(khóa VIII), lần đầu tiên Đảng ra Nghị quyết riêng về "Xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc". Như vậy, vai trò của văn hóa được
Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng quan tâm trong tiến trình đổi mới đất nước.
Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa sẽ góp phần khắc phục
những nhận thức không đúng về vai trò của văn hóa trong sự phát triển đất nước như chỉ
quan tâm đổi mới và phát triển kinh tế mà chưa thấy hết tầm quan trọng của văn hóa với
tư cách là sức mạnh nội sinh, chưa thấy rõ nhiệm vụ của văn hóa trong việc giáo dục con
người phát triển toàn diện, hướng đến Chân - Thiện - Mỹ. Mặt khác, trong xu thế ngày
nay, việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc đi đôi với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để
tạo ra hệ giá trị văn hóa mới, hướng theo những giá trị văn minh chung của thời đại là
một thách thức lớn, có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của mỗi quốc gia dân tộc.
- Với những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài: " Quỏ trỡnh thực hiện Nghị quyết
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) về xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam từ năm 1998 đến 2006" để viết luận văn thạc sĩ chuyên
ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Văn hóa là một đề tài lớn, phức tạp được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên
cứu dưới nhiều góc độ khác nhau như tìm hiểu khái niệm, bản chất của văn hóa; mối
quan hệ giữa văn hóa với các lĩnh vực khác; vai trò của văn hóa với phát triển và xây
dựng con người... Nhìn chung, các công trình đó chủ yếu đề cập các vấn đề sau:
Một là, nghiên cứu lý luận chung về văn hóa, nổi bật là các tác giả, tác phẩm:
Phạm Quang Nghị (chủ biên), Một số vấn đề lý luận văn hóa thời kỳ đổi mới, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996; Hoàng Vinh, Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây
dựng văn hóa ở nước ta, Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 1999; Phan Ngọc, Bản
sắc văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Văn hóa, Hà Nội, 2001; Văn hóa và phát triển ở
Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2004; Đinh Xuân Dũng, Mấy cảm nhận về văn hóa, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2004; Trần Ngọc Hiên, Những vấn đề đặt ra đối với văn hóa Việt Nam trong xu thế
toàn cầu hóa, Tạp chí Cộng sản, số 20-2004. Nội dung cơ bản của các công trình này
trình bày khái niệm chung về văn hóa, bản sắc văn hóa dân tộc; mối quan hệ giữa văn hóa
và phát triển; phân tích các khái niệm về tư tưởng, đạo đức, lối sống; đời sống văn hóa cơ
sở; di sản văn hóa; vấn đề xã hội hóa các hoạt động văn hóa và mở rộng giao lưu, hợp tác
quốc tế về văn hóa; đồng thời đề cập những kết quả cơ bản trong quá trình xây dựng và
phát triển văn hóa ở Việt Nam.
Hai là, giới thiệu các quan điểm của Đảng về văn hóa, tìm hiểu sự lãnh đạo và sự
đổi mới tư duy lý luận của Đảng đối với lĩnh vực văn hóa. Một số công trình nổi bật như:
Bộ Lịch sử biên niên công tác tư tưởng - văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam gồm ba
quyển của Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương. Bộ lịch sử đã ghi lại toàn bộ công tác tư
tưởng - văn hóa của Đảng từ năm 1925 đến 2004; Phạm Khắc Khánh, Một số suy nghĩ về
phương thức lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 8-1998;
Nông Đức Mạnh, Tạo bước chuyển biến căn bản trong việc xây dựng và phát triển nền
- văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Tạp chí Cộng sản, số 14-2004; Nguyễn Đức
Bình, Suy nghĩ thêm về Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về văn hóa, Tạp chí Lý luận
chính trị, số 6-2004... Nội dung chủ yếu của các công trình này đề cập đến phương thức
lãnh đạo và bước đầu tổng kết sự lãnh đạo của Đảng đối với văn hóa, đồng thời nêu các giải
pháp nâng cao sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa.
Ba là, đề cập đến thực trạng văn hóa những năm đổi mới, có một số tác giả và
công trình khoa học, tiêu biểu như: Nguyễn Văn Linh, Đổi mới để tiến lên, Nhà xuất bản
Sự thật, Hà Nội, 1988; Phạm Văn Đồng,Văn hóa và đổi mới, Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1994; Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - Khoa Văn hóa xã hội chủ
nghĩa, Văn hóa dân tộc trong quá trình mở cửa ở nước ta hiện nay, Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 1996; Hồ Sĩ Vịnh,Văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999; Nguyễn Khoa Điềm, Xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001;
Đỗ Huy, Nhận diện văn hóa Việt Nam và sự biến đổi của nó trong thế kỷ XX, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002; Phạm Minh Hạc - Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên), Về phát
triển văn hóa và xây dựng con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003; Đỗ Thị Minh Thúy (chủ biên), Xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Thành tựu và kinh nghiệm, Nhà xuất bản
Văn hóa Thông tin và Viện Văn hóa, Hà Nội, 2004. Viện văn hóa và phát triển, Hội thảo
Mười năm xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc -
kết quả và những vấn đề đặt ra.
Một số công trình khoa học đi sâu nghiên cứu về từng lĩnh vực cụ thể của văn hóa
Việt Nam, tiêu biểu là các tác giả, tác phẩm: Đỗ Huy - Trường Lưu, Sự chuyển đổi của giá
trị trong văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993; Phạm Mai
Hùng - Lê Thúy Hoàn, Thử nêu giải pháp góp phần bảo vệ, sử dụng hiệu quả di tích lịch
sử - văn hóa trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Tạp chí Văn hóa
nghệ thuật, số 5-1998; Phạm Xuân Nam, Bản sắc văn hóa dân tộc và quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước; Tạp chí Cộng sản, số 11-1998; Lê Như Hoa, Bản lĩnh văn hóa
Việt Nam một hướng tiếp cận, Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 1998; Nguyễn
Văn Huyên, Văn hóa - phát huy bản sắc và hội nhập, Tạp chí Cộng sản, số 11-1998; Hoàng
Trinh, Bản sắc dân tộc và hiện đại hóa trong văn hóa, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
- Nội, 2000... Những công trình khoa học này phác họa những nét cơ bản tình hình văn hóa
Việt Nam thời kỳ đổi mới ở những lĩnh vực cụ thể như đạo đức, lối sống; gìn giữ bản sắc dân
tộc; giao lưu văn hóa; tính đa dạng văn hóa của các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt
Nam; xây dựng đời sống văn hóa; văn hóa nghệ thuật; báo chí, xuất bản....
Nhìn chung các công trình nghiên c ứu, các tác phẩm nói trên đã đề cập tương
đối toàn diện những nội dung c ơ bản của văn hóa như: Bản sắc văn hóa dân tộc, quan
hệ giữa văn hóa với phát triển, vai trò của văn hóa với mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội, văn hóa Việt Nam trong bước đường đổi mới và sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh
vực văn hóa... Những tri thức khoa học này đã giúp tác giả nhận thức rõ về bản chất,
vai trò của văn hóa, đồng thời cung cấp nguồn tư liệu làm cơ sở để thực hiện đề tài.
Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu quá trình
thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương năm (khóa VIII) về xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong những năm 1998 - 2006
một cách toàn diện, có hệ thống. Vì thế, nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần làm sáng
tỏ sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa trong thời kỳ đổi mới.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
- Nghiên cứu Nghị quyết Hội nghị Trung ương năm (khóa VIII) giúp ta nhận thức rõ
vai trò quan trọng của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Quán triệt các quan điểm chỉ đạo cơ bản và triển khai thực hiện các nhiệm vụ về
văn hóa nêu trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương năm (khóa VIII) , tạo sự thống nhất
tư tưởng trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội, tính chủ động, sáng tạo, tích cực xã hội
của nhân dân được phát huy.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Luận văn phân tích tầm quan trọng của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội. Thực trạng nền văn hóa Việt Nam trước năm 1998.
- Trình bày nội dung cơ bản của Nghị quyết Hội nghị Trung ương năm (khóa VIII)
- - Nêu bật kết quả của quá trình thực hiện một số nhiệm vụ mà Nghị quyết Hộ i
nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII) đề ra trong giai đoạn từ năm
1998 đến 2006, từ đó nêu lên những kinh nghiệm bước đầu.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Luận văn nghiên cứu quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc được nêu trong các
nghị quyết Đại hội và Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa là một phạm vi rất rộng,
trong luận văn này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu quá trình Đảng lãnh đạo và tổ chức chỉ
đạo thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể mà Nghị quyết Hội nghị Trung ương năm (khóa
VIII) đề ra như: Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới; Bảo tồn và
phát huy các di sản văn hóa dân tộc; Phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo và khoa học -
công nghệ, trong thời gian từ năm 1998 đến 2006.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa ; quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt
Nam về xây dựng nền văn hóa trong quá trình đổi mới đất nước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic là chủ yếu, kết hợp
phương pháp so sánh, đối chiếu, phân tích - tổng hợp, để giải quyết các nội dung có liên
quan đến đề tài.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam.
- - Làm rõ quá trình Đảng tổ chức, chỉ đạo thực hiện một số nhiệm vụ của Nghị
quyết Hội nghị Trung ương năm (khóa VIII). Bước đầu đánh giá những thành tựu, hạn
chế qua 8 năm thực hiện xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung luận
văn gồm 2 chương, 4 tiết.
- Chương 1
Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc (1998 - 2006)
1.1 tầm quan trọng của văn hóa đối với sự phát triển. Thực trạng nền văn
hóa việt nam trước năm 1998.
1.1.1. Vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
Bằng trí tuệ thiên tài cùng với sự kế thừa tinh hoa văn hóa nhân loại, C.Mác, Ph.
Ăngghen, V.I.Lênin đã xây dựng nên học thuyết tiên tiến, khoa học của thời đại. Trong
quá trình nghiên cứu sự vận động, phát triển của lịch sử, của con người, các ông cũng
đồng thời chỉ rõ bản chất, nguồn gốc và vai trò của văn hóa.
Chủ nghĩa Mác coi văn hóa là toàn bộ những thành quả đuợc tạo ra nhờ hoạt động
lao động sáng tạo của con người, là sự phát triển tất cả các thuộc tính của con người, “đối
với con người, bản chất con người đã trở thành giới tự nhiên đến mức nào, hoặc tự nhiên
đã trở thành bản chất người của con người đến mức nào. Do đó, căn cứ vào quan hệ đó có
thể xét đoán về trình độ văn hóa chung của con người” [49, tr.166].
Theo quan niệm của C.Mác, thế giới văn hóa là thế giới con người, do con người
tạo ra bằng hoạt động có ý thức, tích cực, sáng tạo. Qua hình thức văn hóa vật thể, chúng ta
có thể phán xét về con người đã tạo ra các vật thể văn hóa đó, về những đặc trưng, tính chất
của thời đại đã sản sinh ra chúng, về trình độ phát triển trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ của con
người trong một thời đại lịch sử. Văn hóa là một phạm trù lịch sử và lịch sử loài người đã
tiến lên không ngừng trên cơ sở phát huy những tinh hoa của tất cả các nền văn hóa trước đó.
C.Mác coi văn hóa là phương thức hoạt động sống đặc thù của con người - hoạt
động lao động sản xuất và hoạt động tinh thần. Hoạt động lao động sản xuất tạo ra toàn
bộ sự phong phú, đa dạng cho tồn tại của con người, hình thành mối quan hệ giữa con
người với thế giới tự nhiên xung quanh và quan hệ của con người với con người trong xã
hội. Hoạt động tinh thần thể hiện ở sự phát triển và hoàn thiện con người cả về thể xác
lẫn tâm hồn, cả về đạo đức lẫn năng lực trí tuệ và trình độ thẩm mỹ. Hai phương thức này
tồn tại, gắn bó với nhau trong một chỉnh thể thống nhất tạo nên con người với tư cách là
- một thực thể sinh học - xã hội. Văn hóa chính là cái làm nên nền tảng tinh thần, tạo ra hệ
các giá trị nhân đạo, nhân văn cho một cộng đồng xã hội và kết tinh những giá trị tốt đẹp
nhất trong quan hệ giữa con người với con người, với xã hội và với tự nhiên.
Chủ nghĩa Mác-Lênin đề cao vai trò của văn hóa trong xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Sự nghiệp giải phóng quần chúng về xã hội không thể ở bên ngoài logic phát triển
văn hóa của họ. Sự chuyển biến lớn về chính trị và các cuộc cải tạo kinh tế, xã hội luôn
gắn liền với cuộc cách mạng trong lĩnh vực văn hóa. Văn hóa có chức năng hoàn thiện xã
hội rõ rệt, vì thế khi lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, V.I.Lênin nhấn mạnh:
trước đây cách mạng vô sản phải đặt trọng tâm vào vấn đề chính trị và giành chính
quyền; ngày nay khi giai cấp công nhân đã giành được chính quyền, bước vào xây dựng
chủ nghĩa xã hội thì những nhiệm vụ văn hóa được đặt ra. Người khẳng định: “Bây giờ,
chúng ta chỉ cần hoàn thành cuộc cách mạng văn hóa là đủ để cho nước ta trở thành một
nước hoàn toàn xã hội chủ nghĩa” [45, tr.429]. Điều này cho thấy, văn hóa có sức mạnh
to lớn, là điều kiện cần và đủ để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản.
Mục tiêu mà chủ nghĩa xã hội hướng đến cũng chính là văn hóa, bởi đó là quá
trình giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bất công, khỏi sự tha hoá, tạo điều kiện cho
con người phát huy mọi năng lực sáng tạo, để sự phát triển tự do của mỗi người là điều
kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người. Sự nghiệp cao cả ấy chính là bản chất
của văn hóa - tất cả cho con người, vì con người, lấy con người làm trung tâm của mọi sự
phát triển.
Như vậy, tuy không nêu ra một định nghĩa cụ thể về văn hóa, song trong quá trình
nghiên cứu học thuyết giải phóng giai cấp, giải phóng con người và giải phóng xã hội,
các nhà kinh điển C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã chỉ cho chúng ta thấy vai trò to lớn
của văn hóa đối với sự phát triển của xã hội, của lịch sử nhân loại.
Nhận rõ vị trí đặc biệt quan trọng và ý nghĩa lớn lao của văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định:
Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát
minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn
- bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi
phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích
ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn [51, tr.431].
Trên tinh thần của chủ nghĩa duy vật biện chứng, xuất phát từ con người, Hồ Chí
Minh đã đưa ra một quan niệm về văn hóa rất đơn giản nhưng mang đậm tính khoa học
và nhân văn. Người chỉ rõ bản chất của văn hóa chính là những hoạt động sáng tạo của
con người trong quá trình tồn tại và phát triển. Văn hóa là dòng chảy xuyên suốt từ quá
khứ đến hiện tại và tương lai, tạo nên sức mạnh nội sinh cho sự phát triển của một dân
tộc. Các dân tộc khác nhau sẽ làm nên các nền văn hóa khác nhau, tạo nên sự đa dạng,
phong phú của văn hóa nhân loại. Đây là quan niệm rất bình dị nhưng đã chứa đựng
những tư tưởng lớn của thời đại.
Trong quá trình tìm đường cứu nước, lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân
tộc, xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh càng nhận rõ sức mạnh của văn hóa. Người chú
trọng đưa văn hóa vào đời sống của nhân dân, xây dựng nền văn hóa mới để xoá bỏ nền
văn hóa thực dân, giúp con người phát triển toàn diện. Nền văn hóa mới, theo quan niệm
của Hồ Chí Minh, là một nền văn hóa thấm sâu phẩm chất nhân văn và dân chủ, mà trước
hết là sự tôn trọng và yêu thương con người, góp phần cho sự phát triển toàn diện của con
người, đặc biệt là bồi dưỡng và nâng cao đời sống tinh thần, tư tưởng, tình cảm phong
phú, cao đẹp của con người. Đây chính là sứ mệnh, là chức năng chủ yếu của văn hóa.
Người luôn có niềm tin sâu sắc về khả năng văn hóa có thể nuôi dưỡng, xây đắp những lý
tưởng cao quý, những tư tưởng và tình cảm lớn, những phẩm chất tốt đẹp cho con người
để giúp con người vươn tới cái tốt đẹp, tiến bộ, đấu tranh chống lại cái xấu xa, lạc hậu.
Để xây dựng xã hội mới, theo Người, trước hết cần phải có những con người mới
xã hội chủ nghĩa. Con người là chủ thể sáng tạo văn hóa, đồng thời cũng là mục tiêu của
văn hóa. Có thể thấy rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xuất phát từ con người và lấy con
người làm trung tâm của mọi suy nghĩ và hành động, chính vì thế Người đã phát huy
được sức mạnh to lớn, vĩ đại của dân tộc Việt Nam.
Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa với kinh tế,
chính trị, xã hội. Coi đó là bốn vấn đề cùng phải coi trọng ngang nhau trong công cuộc
kiến thiết nước nhà. Văn hóa ở trong kinh tế và chính trị, có nhiệm vụ góp phần thúc đẩy
- xây dựng và phát triển kinh tế, phục vụ sự nghiệp cách mạng của nhân dân. Văn hóa soi
đường cho quốc dân đi.
Tiêu biểu cho những giá trị văn hóa cao đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân
loại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được Tổ chức Văn hóa, khoa học và giáo dục của Liên hiệp
quốc (UNESCO) tôn vinh là Nhà văn hóa lớn. Người đã nêu lên trước nhân loại tấm gương
của một người luôn luôn vươn tới đỉnh cao của văn hóa, coi văn hóa vừa như một phương
tiện để giải phóng nhân loại, vừa như mục tiêu của sự nghiệp giải phóng ấy, vì thế UNESCO
khẳng định:
Sự đóng góp quan trọng về nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các lĩnh
vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật là kết tinh của truyền thống văn hóa hàng ngàn năm
của nhân dân Việt Nam và những tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng
của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho việc thúc
đẩy sự hiểu biết lẫn nhau [44].
Những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và Hồ Chí Minh là cơ sở, nền tảng
cho việc xây dựng nền văn hóa mới ở nước ta.
Sự phát triển của xã hội là điều mà mọi quốc gia dân tộc đều hướng tới, song
phát triển như thế nào? Đó lại là một câu hỏi lớn và khó. Trước đây phổ biến quan niệm
chỉ coi văn hóa như là thành quả của kinh tế, nhấn mạnh yếu tố kinh tế và khoa học - kỹ
thuật, đồng nhất tăng trưởng kinh tế với phát triển. Nhiều lý thuyết phát triển ra đời và
khi áp dụng vào thực tế đã nảy sinh một số bất cập: tăng trưởng kinh tế nhưng lại không
giải quyết nạn thất nghiệp, dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo, bất ổn xã hội; không bảo
đảm quyền làm chủ của nhân dân, hủy hoại môi trường sống và suy thoái về văn hóa, đạo
đức xã hội... sự phát triển xã hội trở nên thiếu cân đối. Đây không phải là mô hình mà
loài người lựa chọn, hướng đến. Các quốc gia dân tộc ngày càng nhận rõ một xã hội phát
triển bền vững là một xã hội giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với
các vấn đề xã hội khác, bảo đảm cho con người được phát triển toàn diện về mọi mặt, xã
hội tiến bộ, công bằng, văn minh, môi trường được gìn giữ... Và như vậy, phát triển gắn
với con người, với văn hóa. Đó chính là sự phát triển không chỉ vì hôm nay mà còn cho
cả mai sau.
- Vai trò của văn hóa ngày càng được nhân loại thừa nhận. Vì thế UNESCO đã phát
động “Thập kỷ thế giới văn hóa vì phát triển” (1988-1997), gần 100 nước tham gia vào thập
kỷ này và nhiều chương trình nghiên cứu về văn hóa và phát triển và được tiến hành. Trong
lễ phát động, nguyên Tổng Giám đốc UNESCO - ông F.Mayor đã nêu lên luận điểm quan
trọng: “Trên thực tế, mối quan hệ có tính chất sống còn giữa các quá trình sáng tạo văn hóa
và phát triển kinh tế đang ngày càng trở nên quan trọng đối với toàn thể nhân loại nói chung”
[68, tr.20]. Bàn về vai trò của văn hóa đối với phát triển, ông nhấn mạnh:
Hễ nước nào tự đặt cho mình mục tiêu phát triển kinh tế mà tách rời môi trường
văn hóa thì nhất định sẽ xảy ra những mất cân đối nghiêm trọng cả về mặt kinh tế lẫn văn
hóa và tiềm năng sáng tạo của nước ấy sẽ bị suy yếu đi rất nhiều. Một sự phát triển chân
chính đòi hỏi phải sử dụng một cách tối ưu nhân lực và vật lực của mỗi cộng đồng. Vì
vậy, phân tích đến cùng, các trọng tâm, các động cơ và các mục đích của phát triển phải
được tìm trong văn hóa. Văn hóa cần coi mình là một nguồn cổ xúy trực tiếp cho phát
triển và ngược lại, phát triển thừa nhận văn hóa giữ một vị trí trung tâm, một vai trò điều
tiết xã hội [68, tr.23-24].
Văn hóa được xem là động lực, mục tiêu, là hệ điều tiết của phát triển.
Văn hóa là một chỉnh thể toàn vẹn bao gồm cả tinh thần và sức sống, năng lực và
bản lĩnh của một cộng đồng, một xã hội. Văn hóa là trình độ phát triển của chính bản thân
con người, nó không chỉ đơn thuần là “hoa lá” trang trí cho cuộc sống, làm đẹp cuộc
sống, mà nó nằm ngay trong năng lực hoạt động sống của con người, như là nguồn sức
mạnh vật chất tác động vào tất cả các yếu tố xã hội - từ tổ chức cho đến phương thức hoạt
động xã hội, từ mục tiêu cao đẹp cho tới trình độ hoạt động, thúc đẩy xã hội tiến lên theo
lý tưởng, khát vọng của con người.
Văn hóa còn là điều mà nhân loại mong muốn, khát khao chiếm lĩnh, vươn tới, là
mục tiêu phấn đấu của mỗi cá nhân, cộng đồng và xã hội. Chính quá trình phấn đấu
hướng tới cái chân - cái thiện - cái mỹ đã là động lực thúc đẩy sự phát triển. Văn hóa trở
thành đối tượng chiếm lĩnh của con người. Trong cuộc sống, nếu việc đáp ứng các nhu
cầu vật chất mà không bảo đảm tính văn hóa, không hướng đến nhu cầu văn hóa thì việc
đáp ứng các nhu cầu đó không có tính nhân bản. Vì thế, dù kinh tế có tăng trưởng cao,
khoa học - kỹ thuật phát triển mạnh mẽ đến đâu cũng sẽ không phải là mục đích tối cao
- và cuối cùng của con người, của nhân loại, nếu chúng không hướng tới các giá trị văn
hóa, vì con người và cho con người. Đấu tranh, phấn đấu để đạt tới văn hóa là động lực
thúc đẩy xã hội phát triển. Đó là một quá trình liên tục, đồng hành với lịch sử tiến hoá
loài người.
Văn hóa còn là hệ điều tiết của phát triển và tiến bộ xã hội. Nó điều tiết dư luận
xã hội, hành vi công dân, điều tiết xã hội trên mọi lĩnh vực, mọi mối quan hệ, mọi tổ chức
thể chế, thiết chế, cơ chế, chính sách... Văn hóa có mặt trong tất cả các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, xã hội, điều tiết tất cả các yếu tố này để hướng sự phát triển theo tiến bộ, văn
minh.
Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - kỹ thuật đang tạo ra khả năng
phát triển nhanh cho nền kinh tế thế giới. Một mặt, nó tạo ra những thời cơ lớn, tác động
sâu sắc đến đời sống con người. Mặt khác, nó cũng đem đến những vấn đề phức tạp trên
các lĩnh vực văn hóa, xã hội như: ô nhiễm môi trường, nạn thất nghiệp, các tệ nạn xã hội,
lối sống thực dụng, ích kỷ, lai căng, vọng ngoại, bản sắc dân tộc có khả năng bị mai một,
xói mòn... Trước tình hình đó, các quốc gia dân tộc đã chú trọng nhiều hơn đến phát triển
văn hóa. Trong thập kỷ thế giới văn hóa vì phát triển, UNESCO đã đề ra bốn mục tiêu
lớn, thể hiện rõ quan điểm gắn văn hóa với phát triển, bảo đảm cho văn hóa thấm sâu
vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Một là, thừa nhận vị trí của văn hóa trong phát triển, tìm mọi phương thức có thể
có cho sự hòa hợp giữa sản xuất và sáng tạo, và để kinh tế có thể bắt rễ trong văn hóa.
Không phấn đấu vì tăng trưởng kinh tế một cách đơn thuần, mù quáng. Tuyệt đối không
bao giờ hy sinh văn hóa để đổi lấy kinh tế.
Hai là, tôn trọng tất cả các nền văn hóa của các dân tộc, ở đây phải tuân thủ
nguyên tắc bình đẳng, không có thứ bậc, không có văn hóa dân tộc này tiên tiến hơn văn
hóa dân tộc kia. Khuyến khích các nền văn hóa dân tộc tự khẳng định và làm phong phú
các bản sắc văn hóa của dân tộc mình.
Ba là, mở rộng sự tham gia vào đời sống văn hóa, huy động các lực lượng và tự
do sáng tạo của cá nhân và cộng đồng, làm cho ngày càng có nhiều người được bình đẳng
trước các cơ hội hưởng thụ văn hóa, cũng như có đóng góp bằng sản phẩm lao động,
công trình, tác phẩm của mình vào sự phát triển nhân cách văn hóa của bản thân, gia đình
- văn hóa, văn hóa làng xã, thôn bản, phố phường, văn hóa trường học, văn hóa doanh
nghiệp...
Bốn là, đẩy mạnh hợp tác quốc tế về văn hóa. Gìn giữ truyền thống văn hóa của
dân tộc là điều căn bản, cốt yếu của mỗi nền văn hóa để tạo ra bản sắc riêng, không bị
mai một, xói mòn. Song trong quá trình phát triển, nền văn hóa dân tộc phải luôn tiếp
nhận, giao lưu hợp tác với các nước khác trên thế giới để tạo ra những chân giá trị mới
tiên tiến, phù hợp với xu thế chung của thời đại. Quá trình giao lưu hợp tác ấy dựa trên sự
bình đẳng, tự nguyện.
Có thể khẳng định, đó là những quan điểm đúng đắn, gắn văn hóa với phát triển
sẽ tạo ra sự phát triển bền vững, giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa con người với thiên
nhiên, con người với con người, giữa các quốc gia dân tộc với nhau... Văn hóa còn có thể
đưa đến sự đối thoại, sự cảm thông, sự hòa hợp cho thế giới. Nhân loại mơ ước về một
thế giới hoà bình, không còn sự kỳ thị, phân biệt, không còn chiến tranh, đói khát... Thế
giới ấy gắn liền với văn hóa.
Như vậy, ngày nay nhân loại thừa nhận văn hóa là động lực của phát triển dựa
trên vai trò điều tiết xã hội như là chức năng vốn có của văn hóa. Mỗi quốc gia thông qua
giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc của mình mà có chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội, đồng thời sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế - xã hội sẽ tạo những khả năng sáng
tạo đa dạng và phong phú bản sắc văn hóa dân tộc của mình. Nhận thức này có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng đối với Việt Nam, khi chúng ta tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước trong điều kiện nguồn tài chính và nguồn lực vật chất còn hạn hẹp
nhưng nguồn lực con người lại hết sức phong phú. Nếu biết khơi dậy, nhân lên mọi tiềm
năng phát triển của con người Việt Nam thì nguồn lực nội sinh - nhân tố quyết định sự
phát triển của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa, sẽ được phát huy mạnh mẽ.
1.1.2. Thực trạng nền văn hóa Việt Nam trước năm 1998
Văn hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng đồng
các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình dựng n ước và giữ nước, là kết quả giao
lưu và tiếp thụ tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để không ngừng hoàn thiện
mình. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm
rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc.
- Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam đảm đương sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách
mạng Việt Nam, nhân dân ta đã đứng lên khởi nghĩa, tiến hành kháng chiến, kiến quốc,
đánh thắng các đế quốc xâm lược và các thế lực phản động, giành độc lập dân tộc, thu
non sông về một mối, đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây
dựng những cơ sở ban đầu của chủ nghĩa xã hội, tiếp tục củng cố và phát triển nền văn
hóa dân tộc. Văn hóa trở thành một thành tố của chế độ xã hội chủ nghĩa cao đẹp, góp
phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trong khu vực và trên thế giới.
Nền văn hóa Việt Nam ngày càng được bồi đắp thêm bởi chủ nghĩa Mác-Lênin, bởi thành
quả của chiến tranh nhân dân và chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
Quá trình đổi mới của Việt Nam, xét đến cùng, cũng là văn hóa, bởi nói như cố
Thủ tướng Phạm Văn Đồng “Văn hóa là đổi mới, đổi mới là văn hóa”. Từ năm 1986 đến
năm 1998, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nền văn hóa Việt Nam đã đạt được nhiều thành
tựu trên các lĩnh vực và góp phần quan trọng vào sự nghiệp đổi mới đất nước.
Thứ nhất, tư tưởng, đạo đức và lối sống là những lĩnh vực then chốt của văn hóa,
đã có những chuyển biến quan trọng.
Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng tạo ra giá trị bền vững
làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và của cách mạng nước ta,
là nhân tố hàng đầu bảo đảm cho đời sống tinh thần xã hội phát triển đúng hướng. Trên
cơ sở nhận thức đúng đắn và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, sự nghiệp đổi mới
ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn. Nhân dân nhận thức ngày càng sâu sắc hơn
về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã cung cấp những cơ sở lý luận,
những căn cứ khoa học để đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn phủ nhận con
đường chủ nghĩa xã hội, phủ nhận những thành quả cách mạng của nhân dân ta. Tạo động
lực to lớn thúc đẩy công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu, tạo ra sự ổn định chính trị, sự
tăng trưởng cao về kinh tế, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng bước được
cải thiện, niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước được khôi phục và
củng cố.
Nhiều nét mới trong giá trị văn hóa và chuẩn mực đạo đức được hình thành. Theo
giáo sư Hoàng Vinh: định hướng giá trị mới đang chứng tỏ sức mạnh chi phối của nó
- trong đời sống thực tiễn. Sự chuyển đổi giá trị xã hội diễn ra trong tất cả các lĩnh vực
chính trị - xã hội, kinh tế, văn hóa, thẩm mỹ, đạo đức, tôn giáo, tín ngưỡng. Trong đó, sự
chuyển đổi ở hai lĩnh vực quan trọng nhất là kinh tế và chính trị đã có ảnh hưởng mạnh
mẽ đến sự chuyển đổi giá trị trong lĩnh vực đạo đức. Nhiều lĩnh vực giá trị mới đã được
hình thành. Trong thời kì đấu tranh giải phóng dân tộc, đạo đức xã hội hướng tới việc đề
cao ý thức cộng đồng, nhấn mạnh tinh thần hy sinh cá nhân, phục vụ lợi ích tập thể.
Trong giai đoạn hiện nay, con người trở về với đời sống đời thường, với những nhu cầu
chính đáng của mình. Các chuẩn mực đạo đức trong gia đình và ngoài xã hội được coi trọng.
Giá trị đạo đức được đánh giá không chỉ trên phương diện giữa con người với con người, mà
còn là quan hệ giữa con người với lao động sản xuất. Tài năng trong lao động được đề cao.
Cái thiện gắn với cái hữu ích. Các hoạt động từ thiện trong xã hội xuất hiện nhiều hơn. Sự
quan tâm đến người khác không chỉ dừng lại ở lời nói mà bằng hành động cụ thể... Đó chính
là xu thế vận động tích cực của giá trị đạo đức trong công cuộc đổi mới.
Lối sống mới được định hình trong khắp các lĩnh vực của đời sống xã hội. Truyền
thống, đạo lý tốt đẹp của dân tộc được phát huy, tạo ra môi trường văn hóa lành mạnh.
Trong những năm qua đã xuất hiện nhiều phong trào quần chúng ở từng ngành, từng giới,
từng cấp, các phong trào đó hướng về cội nguồn dân tộc, cội nguồn cách mạng, hướng về
làm việc thiện, xoá đói giảm nghèo, rèn luyện, học tập để lập nghiệp, làm giàu chính
đáng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các phong trào “Người tốt việc tốt”, “Uống nước nhớ
nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa”, “Xoá đói giảm nghèo”, “Xây dựng nếp sống văn minh, gia
đình văn hóa”... diễn ra sôi nổi, rộng khắp, thu hút nhiều cá nhân, tầng lớp tham gia. Thể
hiện nét đẹp trong văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Nhân dân ngày càng tham gia tích cực vào đời sống chính trị - xã hội. ý thức
chính trị của công dân được nâng lên, xu hướng càng tích cực. Nhân dân hăng hái tham
gia các phong trào thi đua yêu nước chào mừng các ngày lễ lớn của dân tộc, chăm lo xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết lương giáo, chống lại các thế lực thù địch và
những kẻ cơ hội chính trị, chia rẽ dân tộc, lợi dụng các tôn giáo, phá hoại thành quả của
sự nghiệp đổi mới, gây mất ổn định chímh trị - xã hội.
Tất cả những điều trên thể hiện niềm tin của nhân dân vào con đường mà Đảng đã
lựa chọn. Mặc dù xã hội còn nhiều vấn đề bức xúc nhưng nhìn chung “tính tích cực chính
- trị vẫn là dòng chính chi phối các hoạt động của đời sống xã hội”, tạo nên sự thống nhất
của nhân dân về quan điểm đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Do
đó, chúng ta vẫn giữ vững được ổn định chính trị, an ninh quốc phòng, mở rộng quan hệ
đối ngoại, nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế. Đây là một thành tựu quan
trọng trên lĩnh vực tư tưởng.
Thứ hai, sự nghiệp giáo dục, khoa học đạt được những thành tựu quan trọng. Hệ
thống giáo dục, đào tạo thống nhất trong cả nước với đủ các cấp học từ nhà trẻ đến sau
đại học. Một đội ngũ cán bộ khoa học đông đảo trên tất cả các lĩnh vực đã được đào tạo
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhiều thành tựu trong khoa
học kỹ thuật đã thúc đẩy sản xuất, phục vụ đời sống và quốc phòng. Khoa học đang dần
dần thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự nghiệp y tế, thể dục, thể thao phát
triển, góp phần bảo vệ, tăng cường sức khỏe cho nhân dân.
Thứ ba, văn học, nghệ thuật có nhiều chuyển biến quan trọng góp phần tích cực
vào việc nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân. Nhiều bộ môn nghệ thuật
truyền thống được gìn giữ. Có thêm nhiều tác phẩm có giá trị về đề tài cách mạng và
kháng chiến, về công cuộc đổi mới. Nhiều bộ sưu tập công phu từ kho tàng văn hóa dân
gian và văn hóa bác học Việt Nam trong nhiều thế kỷ được xuất bản, tạo cơ sở cho việc
nghiên cứu, bảo tồn và phát huy những giá trị tư tưởng, học thuật và thẩm mỹ của dân
tộc. Hoạt động lý luận, phê bình đã đạt được những kết quả tích cực, khẳng định mạnh
mẽ văn nghệ cách mạng và kháng chiến, đẩy lùi một bước những quan điểm sai trái.
Số đông văn nghệ sĩ được rèn luyện và thử thách trong thực tiễn cách mạng, có
vốn sống, giàu lòng yêu nước, trước những biến động của thời cuộc và những khó khăn
của đời sống vẫn giữ được phẩm chất, kiên định quan điểm sáng tác phục vụ nhân dân.
Nhiều văn nghệ sĩ tuy tuổi cao, vẫn tiếp tục sự nghiệp sáng tạo, lớp trẻ có nhiều cố gắng
tìm tòi cái mới.
Văn học, nghệ thuật các dân tộc thiểu số có bước tiến đáng kể. Đội ngũ những
nhà văn hóa người dân tộc thiểu số phát triển cả về số và chất lượng, đã có những đóng
góp quan trọng vào hầu hết các lĩnh vực văn học, nghệ thuật.
Thứ tư, thông tin đại chúng phát triển nhanh về số lượng và quy mô, về nội dung
và hình thức, ngày càng phát huy vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của
- xã hội. Hệ thống mạng lưới thông tin trong nước và quốc tế được thiết lập, tạo khả năng
lựa chọn, khai thác các nguồn thông tin bổ ích phục vụ đông đảo công chúng. Đội ngũ
các nhà báo ngày càng đông và có bước trưởng thành về chính trị, tư tưởng và nghiệp vụ.
Thứ năm, giao lưu văn hóa với nước ngoài từng bước được mở rộng. Văn hóa
Việt Nam đã có thêm nhiều loại hình văn hóa, nghệ thuật, diện mạo văn hóa trở nên
phong phú hơn, từ văn học, nghệ thuật, đến âm nhạc, sân khấu, điện ảnh, kiến trúc, hội
họa… Thông qua giao lưu văn hóa, nhân dân ta có thêm hiểu biết về các nền văn hóa,
công trình nghệ thuật, các hoạt động văn hóa của các quốc gia dân tộc. Bạn bè quốc tế
cũng hiểu thêm về đất nước, con người và truyền thống của dân tộc Việt Nam. Sự giao
lưu đã góp phần thúc đẩy phát triển văn hóa nói riêng và đất nước Việt Nam nói chung.
Đó là điều đáng ghi nhận.
Thứ sáu, hệ thống thể chế văn hóa được xây dựng tuy chưa hoàn chỉnh, nhưng về
căn bản bảo đảm được sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Thể chế văn
hóa mới khuyến khích nhân dân lao động tham gia sự nghiệp xây dựng văn hóa trên cả
hai mặt sáng tạo và hưởng thụ văn hóa; giúp đội ngũ văn nghệ sĩ chuyên nghiệp làm tốt
vai trò nòng cốt trong việc sáng tạo giá trị văn hóa mới; tạo điều kiện thực hiện tốt nhiệm
vụ giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc kết hợp với tiếp thụ tinh hoa văn hóa thế
giới.
Đảng và Nhà nước đã quan tâm tăng cường bộ máy tổ chức, ban hành những văn
bản pháp luật nhằm điều chỉnh hoạt động của ngành văn hóa.
Một bộ phận quan trọng của thiết chế văn hóa (nhà văn hóa, câu lạc bộ, bảo tàng,
thư viện, cửa hàng sách báo, khu vui chơi giải trí…) đã có những phương thức hoạt động
mới có hiệu quả.
Nhìn chung, những thành tựu nói trên đã thực sự trở thành động lực mạnh mẽ
thúc đẩy công cuộc đổi mới, là hành trang đưa dân tộc ta tiến lên trong những chặng
đường tiếp theo. Việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam trong thời kì 1998-
2006 không thể không phát huy những giá trị văn hóa đã đạt được. đây là cơ sở cho Đảng
và nhân dân tiếp tục xây dựng nền văn hóa mới, đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn cách
mạng Việt Nam.
- Bên cạnh các thành tựu nói trên, những hạn chế của đời sống văn hóa vẫn tồn tại
và rất đáng quan tâm. Nhìn nhận đúng thực trạng này sẽ góp phần định hướng phát triển
cho tương lai của nền văn hóa Việt Nam.
Sự suy thoái tư tưởng, đạo đức và lối sống. Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Đông
Âu, Liên Xô đã tạo nên cơn chấn động chính trị dữ dội, tác động mạnh mẽ đến niềm tin
vào lý tưởng xã hội chủ nghĩa trên toàn thế giới. “Làm nảy sinh chủ nghĩa hoài nghi với
nhiều hình thái khác nhau” [60, tr,24]. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch ra sức chống phá
các nước xã hội chủ nghĩa còn lại bằng âm mưu “Diễn biến hòa bình”, chúng coi lĩnh vực
văn hóa là mũi đột phá, “là cái cầu để dẫn vào trận địa tư tưởng”, hướng Việt Nam theo
con đường tư bản chủ nghĩa. Các hoạt động chống phá đó nhằm:
Phủ định vai trò lãnh đạo của Đảng, cũng như thành quả của cách mạng Việt
Nam.
Phủ định chủ nghĩa xã hội và phê phán sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội.
Phản bác, phủ định chủ nghĩa Mác-Lênin, cho rằng sự sụp đổ của chủ nghĩa xã
hội ở Liên Xô và Đông Âu là sự sụp đổ của học thuyết Mác-Lênin. Đồng thời truyền bá
các học thuyết tư sản và phi xã hội chủ nghĩa.
Mặt khác, mặt trái của kinh tế thị trường đã có những tác động tiêu cực đến mọi
lĩnh vực của đời sống, xã hội. Tệ sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị văn hóa
dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ… đang gây hại đến thuần phong mỹ
tục của dân tộc. Không ít trường hợp vì đồng tiền và danh vị mà chà đạp lên tình nghĩa
gia đình, quan hệ thầy trò, đồng chí, đồng nghiệp. Buôn lậu và tham nhũng phát triển. Ma
túy, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác gia tăng. Nạn mê tín dị đoan khá phổ biến. Nhiều
hủ tục cũ và mới lan tràn, nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ hội… Đó cũng là điều
nhức nhối mà Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa VII đã
chỉ ra: “lối sống chạy theo đồng tiền, những thị hiếu không lành mạnh, những hủ tục mê
tín tăng nhanh, nhiều văn hóa phẩm độc hại lan tràn trên thị trường” [28, tr.52].
Nghiêm trọng hơn là sự suy thoái về đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ có chức, có quyền. Nạn tham nhũng, dùng tiền
của Nhà nước tiêu xài phung phí, ăn chơi sa đọa không được ngăn chặn có hiệu quả. Hiện
nguon tai.lieu . vn