Xem mẫu

LUẬN VĂN: Qua 3 phương thức sản xuất trước CNTB chứng minh quy luật QHSX phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ( liên hệ thực tế lịch sử ở Việt Nam) Lời nói đầu Sau Đại hội toàn quốc lần thứ IX, tiếp tục thực hiện đường lối đề ra từ Đại hội VI của Đảng, bây giờ chúng ta bước vào thời kỳ phát triển mới – thời kỳ" đẩy nhanh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước" định hướng phát triển nhằm mục tiêu "xây dựng nước ta thành một nước có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" Không phải ngẫu nhiên, việc nghiên cứu quy luật Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, là một trong những nội dung quan trọng của công cuộc đổi mới CNXH mà chúng ta đang tiến hành hôm nay. Việc thực hiện mô hình này trong thực tế không những là nội dung của công cuộc đổi mới, mà hơn thế nữa nó là công cụ, phương tiện để nước ta đi tới mục tiêu xây dựng CNXH thắng lợi của CNXH ở nước ta một phần phụ thuộc vào việc vận dụng này tốt hay không. Vì thế mà em viết tiểu luận về vấn đề " Qua 3 phương thức sản xuất trước CNTB chứng minh quy luật QHSX phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ( liên hệ thực tế lịch sử ở Việt Nam)." I. Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất : 1. Khái niệm về quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất Trong đời sống xã hội điều kiện sống của con người là sản xuất. Sản xuất chính là nền tảng của đời sống xã hội . Trong quá trình sản xuất, con người thường xuyên tác động vào tự nhiên, điều đó làm hình thành mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Mặt khác, giữa con người với nhau cũng có quan hệ. Mối quan hệ hai mặt đó biểu hiện thành hai mặt của nền sản xuất xã hội : lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất . - Lực lượng sản xuất: phản ánh trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Nó biểu hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình tạo ra của cải vật chất. Lực lượng sản xuất bao gồm: những tư liệu sản xuất và người lao động với những kinh nghiệm sản xuất , kỹ năng, kỹ xảo và thói quen lao động của họ. Vì chỉ có kết hợp tư liệu sản xuất với lao động của con người thì mới có được quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Nếu tư liệu sản xuất không kết hợp với lao động của con người thì chỉ là đống vật chất chết và ngược lại lao động của con người nếu không kết hợp với tư liệu sản xuất thì cũng không thể tạo ra bất cứ của cải vật chất nào cả. Cho nên, tư liệu sản xuất và con người lao động là những yếu tố tạo nên lực lượng sản xuất . Các yếu tố này thường xuyên có quan hệ chặt chẽ với nhau. Sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội là do sự phát triển của các yếu tố này mà nên. Lực lượng sản xuất ngày càng phát triển thì con người với trình độ này càng có nhiều sức mạnh để chinh phục thiên nhiên. Để rồi từ thiên nhiên có thể tạo ra cho mình nhiều của cải vật chất để phục vụ cho đời sống xã hội . Với việc biết tạo ra hệ thống cộng cụ lao động và trình độ khoa học kỹ thuật, kỹ năng lao động của mình, con người đóng vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất. Trong điều kiện ngày nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ rất phát triển, vai trò của con người càng được nhấn mạnh. Con người giữ quyết định đối với sản xuất cho nên việc nâng cao trình độ, văn hoá, khoa học kỹ thuật, nâng cao trình độ dân trí dang trở thành nhu cầu bức bách, nó vừa là dòi hỏi của nền sản xuất xã hội vừa là điều kiện thúc đẩy nền sản xuất xã hội phát triển nhanh hơn. - Quan hệ sản xuất: Trong khi sản xuất để tạo ra của cải vật chất phục vụ cho mình. Cũng tức là trong quá trình đấu tranh với thiên nhiên, con người không bao giờ tiến hành đơn độc một mình. Họ đã biết kết hợp với nhau, trao đổi sự hoạt động cho nhau để sản xuất. Sở dĩ con người nguyên thuỷ có thể tồn tại được là vì họ đã biết sống thành từng bầy với nhau để chống lại hoàn cảnh khắc nghiệt của thiên nhiên, của thú dữ. Hay xã hội phát triển được như ngày hôm nay là con người biết trao đổi với nhau nhưng kinh nghiệm sản xuất, những tiến bộ khoa học kỹ thuật đó cùng nhah phát triển. Xã hội cùng phát triển thì con người trong quá trình sản xuất, càng gắn bó với nhau bằng nhiều mối liên hệ xã hội. Từ đó cho thấy rằng trong quá trình sản xuất, con người không những có quan hệ với thiên nhiên, mà còn có những quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất sẽ tạo thành quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất bao gồm: - Quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất - Quan hệ tổ chức quản lý sản xuất, địa vị của các nhóm người trong sản xuất. - Quan hệ phân phối sản phẩm. Trong đó hệ thống quan hệ sản xuất thì hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất đóng vai trò quyết định. Tuỳ theo tư liệu sản xuất thuộc về nhóm người khác nhau sẽ có địa vị khác nhau trong sản xuất, và cách phân phối sản phẩm giữa họ cũng khác nhau. Như trong chế độ chiếm hữu nô lệ, tư liệu sản xuất rơi vào tay bọn chủ nô, cho nên người phải làm việc là nô lệ còn bọn chủ nô thì ăn chơi sức lao động của những người lao động đó. Hay như chính Việt Nam chúng ta thời phong kiến vì tư liệu sản xuất hầu hết do bọn giai cấp địa chủ chiếm giữ cho nên những người nông dân phải làm việc suốt cả ngày mà chẳng đủ ăn. Trong khi đó thì bọn địa chủ chỉ biết ăn chơi và tìm cách bóc lột những người nông dân. 2. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Trong khi lao động, con người không ngừng thu thêm được kinh nghiệm sản xuất và không ngừng cải tiến công cụ lao động. Vì vậy đưa sản xuất phát triển không ngừng. Lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nào đó thì vượt ra ngoài khuôn khổ của quan hệ sản xuất đương thời. Vì trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quyết định của quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất lại tác động ngược lại lực lượng sản xuất: khi quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất của lực lượng sản xuất thì nó giúp cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, khi quan hệ sản xuất không còn phù hợp với tính chất của lực lượng sản xuất thì nó biến thành trở ngại đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lúc ấy xảy ra xung đột giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã lỗi thời. Trong lịch sử phát triển kinh tế đã xảy ra biết bao cuộc cách mạng hay đấu tranh giữa các giai cấp, giữa công nhân và chủ Xí nghiệp chỉ vì không có sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Cách mạng xảy ra vì những người nông dân phải làm nhiều nhưng họ không được hưởng thành quả của họ làm ra. Vì đã bị giai cấp địa chủ bóc lột vơ vét. Cho nên họ phải đứng lên đòi quyền lợi cho mình, dành lại tư liệu sản xuất từ tay bọn địa chủ. Người nông dân sẽ không đấu tranh khi mà tư liệu sản xuất ruộng đất nắm trong tay họ, họ làm ra và được hưởng thành quả lao động của mình như vậy thì họ mới yên tâm vừa lao động sản xuất vừa tìm tòi sáng tạo nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất phục vụ tạo nhu cầu đời sống của mình. Vì thế, những quan hệ sản xuất lỗi thời phải được thay thế bằng những quan hệ sản xuất mới, thích hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Cũng tức là thích hợp với tính chất mới của lực lượng sản xuất đây chính là một quy luật kinh tế cực kỳ quan trọng, quy luật quan hệ sản xuất nhất định phải phù hợp với tính chất của lực lượng sản xuất. II. Sự tồn tại của quy luật quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất trong 3 phương thức sản xuất trước CNTB. Trước CNTB lịch sử loài người đã trải qua 3 phương thức sản xuất: phương thức sản xuất công xã nguyên thuỷ, phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ và ... - tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn