Xem mẫu

LUẬN VĂN: Phân tích giá trị thặng dư về mặt chất và mặt lượng. ý nghĩa thực tiễn rút ra khi nghiên cứu vấn đề này đối với việc quản lý các doanh nghiệp của chúng ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường Phần mở đầu Trong giai đoạn trước đây, không riêng Việt Nam mà cả các nước thuộc hệ thống XHCN đã đồng nhất nền kinh tế thị trường với CNTB, phủ nhận các phạm trù, quy luật kinh tế tồn tại và các hoạt động trong nền kinh tế thị trường. Ngày nay, trải qua thực tiễn chúng ta càng ngày càng nhận thức rõ ràng: kinh tế thị trường không đối lập với CNXH, nó là thành tựu của nhân loại, đồng thời cũng rất cần thiết cho công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH và kể cả khi CNXH đã được xây dựng. Nền kinh tế thị trường luôn gắn liền với các phạm trù và các quy luật kinh tế của nó, trong đó có phạm trù giá trị thặng dư. Hay nói cách khác: sự tồn tại giá trị thặng dư là một tất yếu khách quan ở Việt Nam, khi mà ở nước ta đang áp dụng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Hiện nay, chúng ta đang thực hiện nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng XHCN, nhưng trong chừng mực nào đó vẫn tồn tại thành kiến đối với các thành phần kinh tế tư nhân, tư bản, coi các thành phần kinh tế này là bóc lột, nhận thức này không chỉ xảy ra với một số cán bộ, đảng viên làm công tác quản lý mà còn xảy ra ngay trong những người trực tiếp làm kinh tế tư nhân ở nước ta. Theo như lý luận của Các Mác, vấn đề bóc lột này lại liên quan đến “giá trị thặng dư”. Chính vì thế, việc ngiên cứu về mặt chất và mặt lượng của giá trị thặng dư sẽ giúp chúng ta có những nhận thức đúng đắn về con đường đi lên xây dựng XHCN ở Việt Nam mà Đảng và Nhà nước ta đã chọn. Từ việc nghiên cứu đó, rút ra ý nghĩa thực tiễn của vấn đề này là điều rất cần thiết. Lênin đã từng đánh giá: “Giá trị thặng dư là hòn tảng trong học thuyết kinh tế của Mác”, lời đánh giá này cho thấy việc nghiên cứu về giá trị thặng dư là một vấn đề lớn. Bài viết này được chia thành 3 chương : Chương I: Mặt chất và mặt lượng của giá trị thặng dư. ý nghĩa thực tiễn của vấn đề này đối với việc quản lý các doanh nghiệp của chúng ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa Chương II: Thực trạng việc nghiên cứu và vận dụng giá trị thặng dư ở nước ta hiện nay Chương III: Một số gải pháp để vận dụng lý luận giá trị thặng dư nhằm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay Phần nội dung Chương 1: Mặt chất và mặt lượng của giá trị thặng dư. ý nghĩa thực tiễn của vấn đề này đối với việc quản lý các doanh nghiệp của chúng ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa Cần phải nghiên cứu về giá trị thặng dư bởi sự tồn tại của giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là một tất yếu khách quan. Có nghiên cứu về giá trị thặng dư ta mới thấy rõ những đặc tính phổ biến của sản xuất và phân phối giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường. Từ đó, tìm ra các giải pháp để vận dụng học thuyết giá trị thặng dư nhằm phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, theo mục tiêu đã được Đảng và Nhà nước ta vạch ra, làm dân giàu nước mạnh, xây dựng thành công CNXH ở Việt Nam. Khi nghiên cứu về phạm trù giá trị thặng dư, Mác đã sử dụng nhuần nhuyễn phương pháp duy vật biện chứng để nghiên cứu. Người đã gạt bỏ đi những cái không bản chất của vấn đề để rút ra bản chất của nó, đi từ cái chung đến cái riêng, từ trừu tượng đến cụ thể và đặc biệt là việc sử dụng phương pháp trừu tượng hoá khoa học. A. Mặt chất của giá trị thặng dư. Đi từ sự phân tích “sự chuyển hoá của tiền thành tư bản” cùng với “sự chuyển hoá sức lao động thành hàng hoá”, Mác đã chỉ rõ mối quan hệ kinh tế giữa người sở hữu tiền và người sở hữu sức lao động là điều kiện để sản xuất ra giá trị thặng dư. Từ đó, Mác đi phân tích “quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư”, làm rõ bản chất, nguồn gốc của giá trị thặng dư. I. Sự chuyển hoá của tiền thành tư bản. 1. Công thức chung của tư bản Tiền là sản phẳm cuối cùng của quá trình lưu thông hàng hoá đồng thời cũng là hình thức biểu hiện đầu tiên của tư bản. Mọi tư bản lúc đầu đều biểu hiện đưới hình tháI một số tiền nhất định. Nhưng bản thân tiền không phảI là tư bản, tiền chỉ biến thành tư bản trong những đIều kiện nhất định, khi chúng được sử dụng để bóc lột lao động của người khác. Tiền được coi là tiền thông thường thì vận động theo công thức H – T – H nghĩa là sự chuyển hóa của hàng hoá thành tiền. Còn tiền được coi là tư bản thì vận động theo công thức : T – H – T, tức là sự chuyển hoá của tiền thành hàng hoá, rồi hàng hoá lại chuyển hoá ngược lại thành tiền. Bất cứ tiền nào vận động theo công thức T – H – T đều chuyển hoá thành tư bản. Để làm rõ sự khác nhau giữa tiền và tư bản, Mác đã đi phân tích điểm giống và khác nhau của hai công thức: lưu thông hàng hoá giản đơn H-T-H và hình thái lưu thông T-H-T Điểm giống nhau của hai hình thái lưu thông này là: Trong cả hai công thức đều bao gồm hai yếu tố tiền (T) và hàng hoá (H). Nếu đem phân chia mỗi công thức thành hai giai đoạn thì cả hai công thức đều có hai giai đoạn đối lập giống nhau: H-T là bán và T-H là mua. Và trong cả hai công thức thì đều có sự xuất hiện của ba bên, trong đó một người chỉ bán, một người chỉ mua, và người thứ ba thì lần lượt mua và bán. Điểm khác nhau của hai hình thức lưu thông này là: - Trình tự hai giai đoạn đối lập (mua và bán) trong hai công thức lưu thông là đảo ngược nhau. Với công thức H-T-H là bán trước, mua sau, tiền chỉ đóng vai trò trung gian. Còn với công thức T-H-T thì mua trước, bán sau, vai trò trung gian thuộc về hàng hoá. - Trong công thức lưu thông H-T-H, tiền cuối cùng được chuyển thành hàng hoá, do đó tiền bị chi tiêu hẳn. Ngược lại, trong hình thái T-H-T, tiền được chi ra để mua rồi được thu lại sau khi bán, như vậy tiền trong công thức này chỉ được ứng trước mà thôi. Tóm lại, giá trị sử dụng là mục đích cuối cùng của vòng chu chuyển H-T-H. Còn động cơ, mục đích của vòng chu chuyển T-H-T là bản thân giá trị trao đổi. Trong lưu thông T-H-T, điểm đầu và điểm cuối đều là tiền, chúng không khác nhau về chất. Do đó, quá trình vận động này dường như là một việc thừa, vì nó là một việc đổi một vật để lấy một vật giống hệt. Mà như ta biết, một món tiền chỉ có thể khác với một món tiền khác về mặt số lượng, nên để quá trình T-H-T có được cái nội dung của nó thì cần có sự khác nhau về lượng tiền ở điểm đầu và điểm cuối. Kết quả là qua lưu thông, giá ... - tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn