Xem mẫu

  1. LUẬN VĂN: Những biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của xí nghiệp Điện Tử Truyền Hình trong thời gian tới h
  2. Lời nói đầu Sau khi nền kinh tế thị trường chính thức được xác lập ở Việt Nam các doanh nghiệp đều gặp những khó khăn gay gắt chưa từng có, làm giảm sút lợi nhuận và có nguy cơ phá sản "hoạt động kém hiệu quả" là cụm từ quen thuộc đối với các doanh nghiệp. Đâu là nguyên nhân của vấn đề và biện pháp nào cần được thực thi nhằm đưa các doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Mục đích của bài viết là áp dụng những lý thiết đã được trang bị để thực tập giải quyết và Xí nghiệp Điện tử Truyền Hình- Công Ty Đầu Tư và Phát Triển Công Nghệ Truyền Hình - VTC được lấy làm cơ sở cho việc phân tích. Kết quả của việc phân tích là thực trạng hiệu quả hoạt động của xí nghiệp và sau đó là các biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của xí nghiệp trong thời gian tới. Nội dung cơ bản và kết cấu của chuyên đề nghiên cứu gồm 3 chương Chương I: Những luận cứ khoa học về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Chương II: Phân tích thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh và hiệu quả hoạt động của xí nghiệp Điện Tử Truyền Hình trong thời gian qua. Chương III: Những biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của xí nghiệp Điện Tử Truyền Hình trong thời gian tới. h
  3. Chương I Những luận cứ khoa học về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp I. Khái niệm và bản chất của hiệu quả kinh tế trong các doanh nghiệp. 1. Khái niệm về hiệu quả kinh tế. Từ trước tới nay các nhà kinh tế đã đưa ra nhiều khái niệm khác nhau về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. - Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mức độ hữu ích của sản phẩm sản xuất ra tức giá trị sử dụng của nó (hoặc là doanh thu thuần và nhất là lợi nhuận thu được sau quá trình kinh doanh ). Quan điểm này lẫn lộn giữa hiệu quả với mục tiêu kinh doanh. - Hiệu quả sản xuất kinh doanh là sự tăng trưởng kinh tế phản ánh qua nhịp độ tăng của các chỉ tiêu kinh tế. Cách hiểu này là phiến diện, chỉ đứng trên mức độ biến động của thời gian. - Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mức độ tiết kiệm chi phí và mức tăng kết quả. Đây là biểu hiện của bản chất chứ không phải là khái niệm về hiệu quả kinh tế. - Hiệu quả sản xuất kinh doanh là chỉ tiêu được xác định bằng tỷ lệ so sánh giữa kết quả chi phí. Định nghĩa như vậy chỉ muốn nói về cách xác lập các chỉ tiêu, chứ không toát lên ý niệm của vấn đề. - Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mức tăng của kết quả sản xuất kinh doanh trên mỗi lao động hay mức doanh lợi của sản xuất kinh doanh. Quan điểm này muốn quy hiệu quả về một chỉ tiêu tổng hợp cụ thể nào đó, bởi vậy cần có khái niệm bao quát hơn. Hiệu quả sản xuất kinh doanh là phạm trù kinh tế biểu hiện tập trung của sự phát triển kinh tế theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác của nguồn lực đó trong quá trình sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh. Nó là thước đo ngày càng trở nên quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế và là chỗ dựa cơ bản để đánh giá việc thực hiện mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Cụ thể ra hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực (lao động, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu và tiền vốn) nhằm đạt được các mục tiêu đã xác định là tối đa hoá lợi nhuận và tối thiểu hoá chi phí. h
  4. 2. Bản chất hiệu qủa kinh tế. Bản chất của hiệu qủa sản xuất kinh doanh là nâng cao năng suất lao động xã hội và tiết kiệm lao động xã hội. Đây là hai mặt có mối quan hệ mật thiết của vấn đề hiệu quả kinh tế. Chính việc khan hiếm các nguồn lực sử dụng chúng có tính chất cạnh tranh nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội, đặt ra yêu cầu phải khai thác, tận dụng triệt để các nguồn lực. Để đạt được các mục tiêu kinh doanh, các doanh nghiệp buộc phải chú trọng các điều kiện nội tại, phát huy năng lực hiện có của các yếu tố sản xuất và tiết kiệm chi phí. Vì vậy, yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là phải đạt kết quả tối đa với chi phí tối thiểu hoặc ngược lại đạt kết quả nhất định với chi phí tối thiểu. Chi phí ở đây hiểu theo nghĩa rộng là chi phí tạo ra nguồn lực và chi phí sử dụng nguồn lực, đồng thời phải bao gồm cả chi phí cơ hội. Chi phí cơ hội là giá trị của việc lựa chọn tốt nhất đã bị bỏ qua, hay là giá trị của việc hy sinh công việc kinh doanh khác để thực hiện nhiệm vụ kinh doanh này. Chi phí cơ hội phải được bổ sung vào chi phí kế toán để thấy rõ lợi ích kinh tế thật sự. Cách tính như vậy sẽ khuyến khích các nhà kinh doanh lựa chọn phương án kinh doanh tốt nhất, các mặt hàng sản xuất có hiệu quả hơn. II. Những quan điểm về hiệu quả kinh tế - Khi đề cập đến vấn đề hiệu quả có thể đứng trên nhiều góc độ khác nhau để xem xét. Nếu hiểu theo mục đích cuối cùng thì hiệu quả kinh tế là hiệu số giữa kết quả thu về và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Trên góc độ này mà xem xét thì phạm trù hiệu quả có thể đồng nhất với phạm trù lợi nhuận. Hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hay thấp là tuỳ thuộc vào trình độ tổ chức sản xuất và tổ chức quản lý trong doanh nghiệp. + Nếu đứng trên từng yếu tố riêng lẻ để xem xét thì hiệu quả là thể hiện trình độ và khả năng sử dụng các yếu tố đó trong quá trình sản xuất kinh doanh. + Cũng giống như một số chỉ tiêu khác, hiệu quả là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh trình độ lợi dụng các yếu tố trong quá trình sản xuất, đồng thời là phạm trù kinh tế gắn liền với nền sản xuất hàng hoá. Sản xuất hàng hoá có phát triển hay không là nhờ đạt hiệu quả cao hay thấp. Biểu hiện của hiệu quả là lợi ích mà thước đo cơ bản của lợi ích là " tiền". Vấn đề cơ bản trong lĩnh vực quản lý là phải biết kết hợp hài hoà giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, giữa lợi ích trung ương và địa phương, giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích nhà nước. h
  5. + Hiệu quả kinh doanh vừa là một phạm trù cụ thể vừa là phạm trù trừu tượng. Nếu là phạm trù cụ thể thì trong công tác quản lý phải định lượng thành các con số, chỉ tiêu để tính toán so sánh; nếu là phạm trù trừu tượng phải định tính thành mức độ quan trọng hoặc vai trò của nó trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Cụ thể nói rằng phạm trù hiệu quả là kiến thức thường trực của mọi cán bộ quản lý, được ứng dụng rộng rãi vào mọi khâu, mọi bộ phận trong quá trình sản xuất kinh doanh. Trên các nội dung vừa phân tích, ta có thể chia hiệu quả làm hai loại: * Nếu đứng trên phạm vi từng yếu tố riêng lẻ thì có phạm trù hiệu quả kinh tế hoặc hiệu quả kinh doanh. * Nếu đứng trên phạm vi xã hội và nền kinh tế quốc dân để xem xét thì có hiệu quả chính trị và hiệu quả xã hội. Cả hai loại hiệu quả này đều có vị trí quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, chỉ có doanh nghiệp nhà nước có điều kiện thực hiện được hai loại hiệu quả trên, còn các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác chỉ chạy theo hiệu quả kinh tế. Đứng trên góc độ này mà xem xét thì sự tồn tại của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế hiện nay là một tất yếu khách quan. Trong thực tế hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp đạt được trong các trường hợp sau: * Kết quả tăng, chi phí giảm. * Kết quả tăng, chi phí tăng, nhưng tốc độ tăng của chi phí chậm hơn tốc độ tăng của kết quả sản xuất kinh doanh. Trường hợp thứ hai diễn ra chậm hơn và trong sản xuất kinh doanh có lúc chúng ta phải chấp nhận: thời gian đầu tốc độ tăng của chi phí lớn hơn tốc độ tăng của kết quả sản xuất kinh doanh, nếu không thì doanh nghiệp không thể tồn tại và phát triển được. Trường hợp này diễn ra vào thời điểm khi chúng ta đổi mới công nghệ, đổi mới mặt hàng hoặc phát triển thị trường mới... Đây chính là bài toán cân nhắc giữa kết hợp lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài. Thông thường thì mục tiêu tồn tại của doanh nghiệp trong điều kiện tối thiểu nhất là các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải tạo ra thu nhập và tiêu thụ hàng hoá, cung cấp dịch vụ, để bù đắp chi phí bỏ ra sản xuất hàng hoá và dịch vụ ấy. Còn mục tiêu phát triển của doanh nghiệp đòi hỏi quá trình sản xuất kinh doanh vừa đảm bảo bù đắp chi phí bỏ ra vừa có tích luỹ để tiếp tục quá trình tái sản xuất mở rộng. Sự phát triển tất yếu h
  6. đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải phấn đấu nâng cao hiệu quả sản xuất. Đây là mục tiêu cơ bản của doanh nghiệp. III. Những nguyên tắc để xem xét hiệu quả kinh tế Trong thực tiễn không phải ai cũng hiểu biết và quan niệm giống nhau về hiệu quả kinh tế và chính điều này đã làm triệt tiêu những cố gắng nỗ lực của họ mặc dù ai cũng muốn làm tăng hiệu quả kinh tế. Như vậy khi đề cập đến hiệu qủa kinh tế chúng ta phải xem xét một cách toàn diện cả về mặt thời gian và không gian trong mối quan hệ với hiệu quả chung của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, hiệu quả đó bao gồm cả hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. 1.Về mặt thời gian Sự toàn diện của hiệu quả đạt được trong từng giai đoạn không được làm giảm hiệu quả khi xem xét trong thời kỳ dài hoặc hiệu quả của chu kỳ sản xuất trước không được làm hạ thấp hiệu quả chu kỳ sau. Trong thực tế không ít các trường hợp chỉ thấy lợi ích trước mắt, thiếu xem xét toàn diện và lâu dài, những vi phạm này dễ xảy ra trong trường hợp nhập về một số máy móc thiết bị cũ kỹ, lạc hậu... hoặc ồ ạt xuất các tài nguyên thiên nhiên.... Việc giảm một cách tuỳ tiện, thiếu cân nhắc toàn diện và lâu dài các chi phí cải tạo môi trường tự nhiên đảm bảo cân nhắc sinh thái, bảo dưỡng, hiện đại hoá đổi mới TSCĐ, nâng cao toàn diện trình độ chất lượng người lao động... nhờ đó làm mối tương quan thu chi giảm đi, cho rằng như thế là có " hiệu quả", không thể được coi là hiệu qủa chính đáng và toàn diện được. Như vậy ta thấy rằng không phải lúc nào giảm chi phí cũng nâng cao hiệu quả kinh tế mà việc giảm chi phí phải kết hợp được lợi ích trước mắt là lâu dài. 2. Về mặt không gian Có hiệu qủa kinh tế hay không còn tuỳ thuộc vào chỗ hiệu quả hoạt động kinh tế cụ thể nào đó ảnh hưởng tăng giảm như thế nào đến hiệu quả kinh tế của cả hệ thống mà có liên quan tức giữa ngành kinh tế này với ngành kinh tế khác, giữa từng bộ phận với toàn bộ hệ thống, giữa hiệu quả kinh tế với việc thực hiện các nhiệm vụ khác ngoài kinh tế. Chằng hạn các doanh nghiệp xuất nhập khẩu được phép nhập các xe gắn máy dưới dạng CKD thì lợi nhuận đem laị là rất lớn song lại ảnh hưởng không nhỏ tới tình hình sản xuất và tiêu thụ của Xí nghiệp sản xuất xe máy trong nước. h
  7. Như vậy, với nỗ lực được tính từ giải pháp kinh tế tổ chức - kỹ thuật nào đó dự định áp dụng vào thực tiễn đều phải được đặt vào sự xem xét toàn diện. Khi hiệu quả ấy không làm ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả chung của nền kinh tế quốc dân thì nó mới được coi là hiệu quả kinh tế. 3. Về mặt định lượng Hiệu quả kinh tế phải được thể hiện qua mối tương quan giữa thu và chi theo hướng tăng giảm chi. Điều đó có nghĩa là tiết kiệm đến mức tối đa chi phí sản xuất kinh doanh mà thực chất là hao phí lao động (lao động sống và lao động vật hoá) để tạo ra một đơn vị sản xuất có ích nhất. Nếu xem xét về tổng lượng thu được người ta chỉ thu được hiệu quả sản xuất kinh doanh khi kết quả thu được lớn hơn chi phí bỏ ra, chênh lệch này càng lớn thì hiệu quả càng cao. 4. Về mặt định tính Đứng trên góc độ nền kinh tế quốc dân, hiệu quả kinh tế mà doanh nghiệp đạt được phải gắn chặt với hiệu quả toàn xã hội. Dành được hiệu quả cao cho doanh nghiệp chưa phải là đủ mà còn đòi hỏi mang lại hiệu quả cho xã hội. Trong những trường hợp, hiệu quả toàn xã hội là mặt có tính quyết định khi lựa chọn một giải pháp kinh tế, dù xét về mặt kinh tế nó chưa hoàn toàn được thoả mãn. Theo đánh gia của các chuyên gia, việc đặt nhà máy lọc dầu tại Dung Quất - Quảng Ngãi là không khả thi khi xét về tính kinh tế của nó nhưng hiệu quả của toàn xã hội rất cao thể hiện qua nâng cao dân trí, tạo việc làm thu nhập, đời sống cho dân và cân bằng phát triển giữa ba miền Bắc - Trung - Nam. Như vậy trong bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào, khi đánh giá hiệu quả của hoạt động ấy không chỉ dừng lại ở việc đánh giá kết quả được mà còn đánh giá chất lượng của kết quả đạt được. Có như vậy thì hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh mới được đánh giá một cách toàn diện. Kết quả đạt được trong sản xuất mới đảm bảo được yêu cầu tiêu dùng của mỗi cá nhân và toàn xã hội. Nhưng kết quả tạo ra ở mức nào, với giá trị nào, đó chính là vấn đề cần xem xét vì nó là chất lượng của hoạt động tạo ra kết quả. Vì thế đánh giá hoạt động sản xuất không chỉ đánh giá xem xét người sản xuất tạo ra kết quả bằng phương tiện gì, bằng cách nào với chi phí là bao nhiêu. Ngoài ra, nhu cầu tiêu dùng của con người bao giời cũng lớn hơn khả năng tạo ra sản phẩm của họ. Do đó, vấn đề mà con người quan tâm nhất là làm sao với khả năng hiện có tạo nhiều sản phẩm nhất, chính ở đây nảy sinh vấn đề h
  8. phải xem xét lựa chọn cách nào để đạt được kết qủa cao nhất. Vì vậy nhầm lẫn giữa kết quả và hiệu quả là không thấy hết phạm trù của yêu cầu tiết kiệm - Bản chất của hiệu quả kinh tế được biểu hiện ở mức khái quát là kết quả của hiệu quả kinh tế được biểu hiện quan hệ giữa kết quả sản xuất với chi phí lao động xã hội. Như vậy, đứng trên góc độ nền kinh tế quốc dân, việc nâng cao hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp phải luôn gắn chặt với hiệu quả toàn xã hội, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho đơn vị phải bảo đảm hiệu quả kinh tế của ngành, địa phương. IV. Mục tiêu và ý nghĩa của việc bảo đảm và nâng cao hiệu quả kinh tế. 1. Mục tiêu của việc bảo đảm và nâng cao hiệu quả kinh tế a.Về kinh tế: doanh nghiệp thực hiện tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh muốn tồn tại và phát triển phải đảm bảo mang lại hiệu quả kinh tế nhất định. Hay nói cách khác là hoạt động có lợi nhuận và lợi nhuận ngày càng cao, ít nhất là thu nhập đủ bù đắp chi phí bỏ ra. Nếu một doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả trong thời gian ngắn với lý do đặc biệt nào đó thì có thể chấp nhận được, hiệu quả hoạt động nhằm mục đích duy trì, mở rộng sản xuất, phát triển doanh nghiệp ngày một lớn mạnh không ngừng. b.Về xã hội: Các doanh nghiệp hoạt động làm sao cho ngày càng thoả mãn nhu cầu và quyền lợi của mọi thành viên trong doanh nghiệp như thu thập, việc làm và không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần. Bảo vệ, duy trì, phát triển quyền lợi của các bạn hàng cũng như người tiêu dùng. Thực hiện công tác từ thiện, an ninh quốc phòng, bảo vệ môi trường, sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu, tài nguyên thiên nhiên của đất nước. c. Về chính trị: đối với các doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả thì ngoài khoản nộp ngân sách còn củng cố, tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước. Nhà nước có đủ sức mạnh để điều tiết nền kinh tế vĩ mô, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển ổn định. Như vậy, để đạt được các mục tiêu trên, doanh nghiệp phải bảo đảm và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. 2. ý nghĩa của việc bảo đảm và nâng cao hiệu quả Trong cơ chế thị trường, cạnh tranh gay gắt góp phần thúc đẩy sự tiến bộ của các doanh nghiệp cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Tuy nhiên để có thể tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh khắc nghiệt đòi hỏi các doanh nghiệp phải xây dựng cho mình h
  9. một phương thức hoạt động riệng, hoạch định chiến lược, phản ánh kinh doanh một cách phù hợp và có hiệu quả. Cụ thể là doanh nghiệp phải xác định cho mình một cơ chế hoạt động trên cả thị trường đầu vào và đầu ra để tạo được một kết qủa này phải không phát triển nâng cao về mặt chất lượng. Như vậy trong cơ chế thị trường việc nâng cao hiệu quả kinh doanh có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó được thể hiện thông qua: Trước hết ta xem xét ý nghĩa kinh tế và xã hội của hiệu quả sản xuất kinh doanh trong phạm vi doanh nghiệp (tầm vi mô). Thứ nhất, nâng cao hiệu quả kinh doanh là cơ sở đảm bảo tồn tại và phát triển cho doanh nghiệp. Sự tồn tại của doanh nghiệp được xác định bởi sự có mặt của doanh nghiệp trên thị trường mà hiệu quả kinh doanh lại là nhân tố trực tiếp đảm bảo sự tồn tại này, vì khi hiệu quả sản xuất kinh doanh tốt có nghĩa là hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả. Điều đó cũng đồng nghĩa với tăng lợi nhuận. Nó giúp doanh nghiệp tái đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất, thay đổi dây chuyền công nghệ, trang thiết bị, có điều kiện đào tạo cán bộ quản lý và công nhân viên được nâng cao. Hơn nữa nó giải quyết được một khối lượng công ăn việc làm cho chính lao động trong doanh nghiệp và cho xã hội. Qua phân tích ta thấy rằng việc nâng cao hiệu quả kinh doanh là một đòi hỏi tất yếu khách quan đối với tất cả các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường hiện nay. Do yêu cầu của sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp đòi hỏi nguồn thu nhập phải không ngừng tăng lên. Nhưng trong điều kiện nguồn vốn và các yếu tố kỹ thuật cũng như các yếu tố khác của quá trình sản xuất chỉ thay đổi trong khuôn khổ nhất định thì để tăng lợi nhuận đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Như vậy hiệu quả kinh doanh là điều kiện hết sức quan trọng trong việc bảo đảm sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Thứ hai, nâng cao hiệu quả kinh doanh là nhân tố thúc đẩy sự cạnh tranh và tiến bộ trong kinh doanh. Chính việc thúc đẩy cạnh tranh yêu cầu các doanh nghiệp phải tự tìm tòi, đầu vào tạo nên sự tiến bộ trong kinh doanh. Chấp nhận cơ chế thị trường là chấp nhận sự cạnh tranh. Trong khi thị trường ngày càng phát triển thì cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng gay gắt và khốc liệt hơn. Sự cạnh tranh lúc này không còn là về mặt hàng mà về chất lượng, giá cả và các yếu tố khác. Trong khi mục tiêu chung của các doanh nghiệp đều là phát triển thì cạnh tranh là yếu tố làm cho các doanh nghiệp mạnh lên nhưng ngược lại cũng có thể các doanh nghiệp không thể trụ vững trên thị trường. Để đạt được h
  10. mục tiêu trên thì doanh nghiệp phải có hàng hoá, dịch vụ chất l ượng tốt, giá cả hợp lý. Mặt khác hiệu quả kinh doanh là đồng nghĩa với việc giảm giá thành, tăng lượng hàng hoá bán ra, chất lượng không ngừng được cải thiện, nâng cao. Thứ ba, việc đảm bảo và nâng cao hiệu quả kinh doanh chính là nhân tố cơ bản tạo ra sự thắng lợi cho doanh nghiệp. Muốn thắng lợi cạnh tranh đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình. Chính sự nâng cao hiệu quả kinh doanh là con đường nâng cao sức cạnh tranh và khả năng phát triển của doanh nghiệp. Hiệu quả sản xuất kinh doanh còn có ý nghĩa quan trọng hơn nữa khi ta nhìn nhận nó ở giác độ toàn xã hội - tức ở tầm vĩ mô . Thực tế ngân sách của nhà nước chủ yếu từ việc thu thuế của các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế. Vì vậy khi nền kinh tế hoạt động không có hiệu quả (các doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả ) cũng có nghĩa là ngân sách không thu đủ theo kế hoạch. Điều này làm cho việc giải quyết những mục tiêu, kế hoạch mà nhà nước cần thực hiện cho xã hội trở nên khó khăn, thậm chí không thực hiện được. Ngược lại, khi nền kinh tế hoạt động có hiệu quả thì ý nghĩa của nó được thể hiện một cách cụ thể qua các kết quả thực hiện các mục tiêu nhất định của xã hội: giải quyết công ăn việc làm trong phạm vi toàn xã hội hoặc từng khu kinh tế, giảm số người thất nghiệp và nâng cao đời sống văn hoá tinh thần cho người dân, đảm bảo mức sống hợp lý cho người lao động vệ sinh môi trường;... Trong trường hợp đó hiệu quả sản xuất kinh doanh thực sự là nhân tố cơ bản làm cho đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh. V. Nội dung chủ yếu của việc xác định hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp. Khi đánh giá hiệu quả hoạt động của mọi doanh nghiệp cần phải dựa vào một hệ thống các tiêu chuẩn, bao gồm: 1. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động của doanh nghiệp . Tổng số lao động được sử dụng Hệ số sử dụng lao động = Tổng số lao động hiện có Chỉ tiêu này cho biết trình độ sử dụng lao động của doanh nghiệp, số lao động của doanh nghiệp đã sử dụng hết chưa, tiết kiệm hay lãng phí nguồn nhân lực của doanh h
  11. nghiệp. Từ đó tìm ra biện pháp khắc phục nhằm tăng hiệu quả sử dụng nguồn lao động của doanh nghiệp. Doanh thu trong kỳ Năng suất lao động = Lao động trong kỳ Chỉ tiêu này cho thấy một lao động tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu trong kỳ Lợi nhuận trong kỳ - Lợi nhuận bình quân/ 1lao động = Lao động trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh với mỗi lao động trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Dựa vào chỉ tiêu này để so sánh mức tăng hiệu quả của mỗi lao động trong kỳ. 2. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định. Đối với ngành Phát Thanh-Truyền Hình ta sử dụng hai chỉ tiêu sau: Doanh thu trong kỳ - Sức sản xuất của vốn cố định = Vốn cố định bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn cố định bình quân tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu trong kỳ. Lợi nhuận ròng trong kỳ - Sức sinh lời của vốn cố định = Vốn cố định bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn cố định bình quân tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. 3. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động Doanh thu trong kỳ - Sức sản xuất của vốn lưu động = Vốn lưu động bình quân trong kỳ h
  12. Chỉ tiêu này cho biết với một đồng vốn lưu động tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu trong kỳ. Nếu chỉ tiêu này qua các kỳ tăng chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động tăng. Lợi nhuận trong kỳ - Sức sinh lời của vốn lưu động = Vốn lưu động bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này cho ta biết với một đồng vốn lưu động sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trong kỳ. Chỉ số này càng cao càng tốt, chứng tỏ hiệu quả trong việc sử dụng vốn lưu động. - Tốc độ luân chuyển vốn: trong quá trình sản xuất kinh doanh, nguồn vốn lưu động thường xuyên vận động không ngừng, nó tồn tại ở các dạng khác nhau. Có khi là tiền, hàng hoá, vật tư, bán thành phẩm... đảm bảo cho quá trình sản xuất diễn ra liên tục. Do đó việc đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn lưu động sẽ góp phần giải quyết ách tắc, đình trệ của vốn, giải quyết nhanh nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đồng thời nâng cao hiệu quả kinh doanh của toàn bộ doanh nghiệp . Thông thường sử dụng các chỉ tiêu sau để đánhgiá tốc độ luân chuyển vốn trong doanh nghiệp . Doanh thu trong kỳ + Số vòng quay của vốn lưu động = Vốn lưu động bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt, chứng tỏ vòng quay của vốn lưu động tăng nhanh, điều này thể hiện việc sử dụng vốn lưu động có hiệu quả và ngược lại. Số ngày luân chuyển bình quân 365 ngày = Số vòng quay vốn lưu động một vòng quay Thời gian này càng nhỏ chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao và ngược lại Vốn lưu động bình quân trong kỳ + Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động = Doanh thu trong kỳ Chỉ tiêu này cho biết phải mất bao nhiêu đồng vốn lưu động để tạo ra được một đồng doanh thu. Chỉ tiêu này càng nhỏ càng tốt. 4. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tổng hợp. Nhóm chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả kinh doanh của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, được dùng để phản ánh chính xác hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp và được dùng để so sánh giữa các doanh nghiệp với nhau và so sánh h
  13. trong các doanh nghiệp qua các thời kỳ để xem xét các thời kỳ doanh nghiệp hoạt động có đạt hiệu quả cao hơn hay không. Lơi nhuận trong kỳ - Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu = Doanh thu trong kỳ Chỉ tiêu này có ý nghĩa quan trọng, cho biết hiệu quả của doanh nghiệp đã tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận từ một đồng doanh thu. Nó khuyến khích các doanh nghiệp tăng doanh thu giảm chi phí. Nhưng để có hiệu quả thì tốc độ tăng doanh thu phải nhỏ hơn lợi nhuận. Lợi nhuận ròng - Tỷ suất lợi nhuận theo vốn chủ sở hữu = Vốn chủ sở hữu Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn chủ sở hữu tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Nó phản ánh mức độ lợi ích của chủ sở hữu. Lợi nhuận trong kỳ - Tỷ suất lợi nhuận theo vốn sản xuất = Vốn kinh doanh trong kỳ Chỉ tiêu này cho biết hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh . Một đồng vốn kinh doanh tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận, nó phản ánh trình độ lợi dụng các yếu tố kinh doanh của doanh nghiệp, chỉ tiêu này càng lớn càng tốt. Lîi nhuËn trongkú - Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí = Tæng phÝ n xuÊtvµtiª u thô trongkú chi s¶ Chỉ tiêu này phản ánh trình độ lợi dụng các yếu tố chi phí trong sản xuất . Nó cho thấy với một đồng chi phí tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này có hiệu quả nếu tốc độ tăng lợi nhuận nhanh hơn tốc độ tăng chi phí Doanhthu trongkú Doanh thu trên một đồng = chi phí sản xuất Tæng phݶ n xuÊtvµti ª u thô trongkú chi s Chỉ tiêu này cho thấy một đồng chi phí tạo ra bao nhiều đồng doanh thu - Doanh thu trên một đồng vốn Doanh thu trong kỳ = sản xuất Vốn kinh doanh bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này cho thấy với một đồng vốn kinh doanh tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu, chỉ tiêu này càng lớn càng tốt Công thức xác định các chỉ tiêu trên được hệ thống theo biểu sau đây: Bảng 1: Tổng hợp các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh h
  14. Tên chỉ tiêu Công thức xác định 1. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động Hệ số sử dụng lao động Tổng số lao động được sử dụng Tổng số lao động hiện có Năng xuất lao động Doanh thu trong kỳ Lao động bình quân trong kỳ - Lợi nhuận bình quân / 1 lao động Lợi nhuận trong kỳ Lao động bình quân trong kỳ 2. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu qủa sử dụng vốn cố định Doanh thu trong kỳ - Sức sản xuất của vốn cố định Vốn cố định bình quân trong kỳ Lợi nhuận trong kỳ - Sức sinh lời của vốn cố định Vốn cố định bình quân trong kỳ 3. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động Doanh thu trong kỳ - Sức sản xuất của vốn lưu động Vốn lưu động bình quân trong kỳ Lợi nhuận trong kỳ - Sức sinh lời của vốn lưu động Vốn lưu động bình quân trong kỳ Doanh thu trong kỳ - Số vòng quay của vốn lưu động h
  15. Tên chỉ tiêu Công thức xác định Vốn lưu động bình quân trong kỳ - Số ngày luân chuyển bình quân một 365 ngày vòng quay Số vòng quay vốn lưu động - Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động Vốn lưu động bình quân trong kỳ Doanh thu trong kỳ 4. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tổng hợp Lợi nhuận trong kỳ - Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu Doanh thu trong kỳ Lợi nhuận ròng Tỷ suất lợi nhuận theo vốn chủ sở hữu Vốn chủ sở hữu Lợi nhuận trong kỳ - Tỷ suất lợi nhuận vốn sản xuất Vốn kinh doanh trong kỳ Lợi nhuận trong kỳ - Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí Tổng chi phí sản xuất và tiêu thụ trong kỳ Doanh thu trong kỳ -Doanh thu trên một đồng chi phí Tổng chi phí sản xuất và tiêu thụ trong kỳ Doanh thu trong kỳ -Doanh thu trên một đồng vốn sản xuất Vốn kinh doanh bình quân trong kỳ h
  16. 5. Nhóm chuyên xét về mặt hiệu quả kinh tế - xã hội. Các doanh nghiệp ngoài việc hoạt động kinh doanh có hiệu quả nhằm tồn tại và phát triển còn phải đạt hiệu quả về mặt kinh tế - xã hội. Nhóm chỉ tiêu xét về mặt hiệu quả kinh tế xã hội bao gồm các chỉ tiêu sau: - Tăng thu ngân sách: mọi doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thì phải có nhiệm vụ nộp cho ngân sách nhà nước dưới hình thức các loại thuế GTGT, thuế lợi tức, thuế xuất khẩu nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt. Nhà nước sử dụng những khoản thu này đầu tư phát triển nền kinh tế quốc dân, lĩnh vực phi sản xuất, xây dựng các công trình công cộng, góp phần phân phối lại thu nhập quốc dân. - Tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, để tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động và nhanh chóng thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu, đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự tìm tòi các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, mở rộng quy mô sản xuất, đa dạng hoá sản phẩm và kinh doanh tổng hợp. - Nâng cao đời sống người lao động: xét trên phương diện kinh tế, việc nâng cao mức sống của người dân được thể hiện qua các chỉ tiêu như gia tăng thu nhập bình quân trên đầu người, gia tăng đầu tư xã hội, mức tăng trưởng phúc lợi xã hội. - Tái phân phối lợi tức xã hội: sự phát triển không đồng đều về mặt kinh tế xã hội giữa các vùng, các lãnh thổ trong nước yêu cầu phải có sự phân phối lợi tức xã hội nhằm giảm sự chênh lệch về mặt kinh tế giữa các vùng. Theo quan điểm của các nhà kinh tế hiện nay, hiệu quả kinh tế xã hội còn thể hiện qua chỉ tiêu: bảo vệ nguồn lợi môi trường, hạn chế gây ô nhiễm môi trường, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. VI. Một số kinh nghiệm nhằm góp phần nâng cao và bảo đảm hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thiết bị phục vụ cho ngành Phát thanh – Truyền Hình. Bên cạnh những vướng mắc còn tồn tại của ngành nói chung và xí nghiệp Điện Tử Truyền Hình nói riêng, xí nghiệp cũng rút ra được một số bài học kinh nghiệm trong quá trình thích ứng với cơ chế mới. h
  17. + Chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước được Xí nghiệp tiếp nhận kịp thời và quán triệt đến từng bộ phận, cán bộ, đảng viên, công nhân. Từ đó thực hiện thắng lợi các nghị quyết của ban lãnh đạo cơ quan. + Xí nghiệp có truyền thống đoàn kết nhất trí giữa chính quyền đoàn thể dưới sự chỉ đạo của ban Giám đốc, tạo sức mạnh tổng hợp vượt qua mọi khó khăn trong qúa trình đổi mới. + Khuyến khích mọi người tham gia tiêu thụ hàng hoá không ngừng đạt hiệu quả cao. + Chủ động mở rộng ngành nghề, đa dạng hoá sản phẩm phát huy thế mạnh nội lực của Xí nghiệp, giải quyết việc làm và nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân viên chức trong Xí nghiệp, đồng thời nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp nhằm duy trì và phát triển Xí nghiệp lớn mạnh, đứng vững trên thị trường, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. +Tích cực nghiên cứu, sản xuất và nhập những công nghệ mới, tiên tiến gắn liền với sự sắp xếp hợp lý của cán bộ công nhân viên chức trong Xí nghiệp để họ chủ động sáng tạo sản xuất kinh doanh. + Phát động phong trào thi đua nhằm không ngừng nâng cao chất lượng các sản phẩm của Xí nghiệp đồng thời cử các nhân viên có kỹ năng kỹ xảo tốt về các tỉnh mà xí nghiệp đã, đang và sắp cung cấp sản phẩm giúp cho người sử dụng giảm thiểu được những sai sót do họ không hiểu biết nhiều về sản phẩm. Ngoài ra trên từng sản phẩm xí nghiệp cũng luôn ghi rõ và dễ hiểu cách sử dụng và bảo quản giúp cho chu kỳ sống của sản phẩm không ngừng được nâng cao. - Xử lý nghiêm khắc các trường hợp vi phạm phá vỡ hợp đồng đối với khách hàng do thiếu tinh thần trách nhiệm như chở hàng đi phục vụ ở vùng sâu, vùng xa mà để cho hàng giảm chất lượng, lắp ráp ẩu.... bởi vì hàng của xí nghiệp chiếm phần lớn là các sản phẩm phục vụ cho sự phát triển cân đối giữa thành thị và vùng sâu vùng xa giúp cho mọi người dân mở mang kiến thức thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. + Giáo dục tinh thần nhiệt tình chu đáo, đáng tin cậy của các cán bộ công nhân viên khi giao hàng cũng như nhận hàng để nâng cao uy tín cho xí nghiệp . h
  18. VII. Quan điểm về nâng cao hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. . Thứ nhất, hiệu quả kinh doanh không những là thước đo chất lượng phản ánh trình độ tổ chức quản lý kinh doanh mà còn là cơ sở cơ bản để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Sự tồn tại của doanh nghiệp được xác định bởi sự có mặt của doanh nghiệp trên thị trường, trong khi đó lại là nhân tố trực tiếp đảm bảo sự có mặt này, đồng thời là mục tiêu của tất cả các doanh nghiệp là: Luôn tồn tại, phát triển một cách vững chắc. Do vậy thu nhập của doanh nghiệp phải không ngừng nâng lên, nhưng trong điều kiện vốn và các yếu tố kỹ thuật chỉ thay đổi trong khuôn khổ nhất định thì để tăng lợi nhuận bắt buộc các doanh nghiệp phải tăng hiệu quả kinh doanh. Như vậy, hiệu quả kinh doanh là điều kiện hết sức quan trọng trong công việc đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Một cách nhìn khác sự tồn tại của doanh nghiệp được xác định bởi sự tạo ra của cải hàng hoá, vật chất và các dịch vụ phục vụ cho nhu cầu của xã hội. Để thực hiện được như vậy thì mỗi doanh nghiệp đều phải vươn lên bảo đảm thu nhập, bù đắp chi phí bỏ ra và có lãi trong quá trình hoạt động kinh doanh. Có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu tái sản xuất trong nền kinh tế hiện nay. Và như vậy chúng ta phải nâng cao hiệu quả kinh doanh một cách liên tục trong mọi khâu của quá trình hoạt động kinh doanh như là một tất yếu. Thứ hai là, nâng cao hiệu quả kinh doanh là nhân tố thúc đẩy cạnh tranh và sự tiến bộ trong kinh doanh.Chấp nhận cơ chế thị trường là chấp nhận sự cạnh tranh. Trong khi thị trường ngày càng phát triển thì cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng khốc liệt hơn. Sự cạnh tranh lúc này không phải chỉ là các mặt hàng mà cạnh tranh cả chất lượng, giá cả... Trong khi mục tiêu chung của các doanh nghiệp đều phát triển, thì cạnh tranh là yếu tố làm cho doanh nghiệp mạnh lên nhưng cũng có thể bóp chết doanh nghiệp trên thị trường. Do vậy để tồn tại và phát triển thì các doanh nghiệp đều phải chiến thắng trong cạnh tranh trên thị trường. Để làm được điều này thì các doanh nghiệp phải có hàng hoá, dịch vụ có chất lượng tốt, giá cả hợp lý. Mặt khác hiệu quả kinh doanh là đồng nghĩa với việc giảm giá thành, tăng khối lượng hàng hoá bán, chất lượng không ngừng được cải tiến nâng cao... Như vậy việc nâng cao hiệu quả kinh doanh chính là hạt nhân cơ bản của sự thắng lợi trong cạnnh tranh. Và các doanh nghiệp cạnh tranh nhau tức là không ngừng h
  19. nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình. Chính sự nâng cao hiệu quả kinh doanh là con đường các doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh của mình. h
  20. Chương II Phân tích thực trạng tình hình hoạt động và hiệu quả hoạt động của xí nghiệp Điện Tử Truyền Hình trong thời gian qua I. Tổng quan về quá trình hình thành và phát triển của xí nghiệp Điện Tử Truyền Hình 1. Quá trình hình thành Xí nghiệp Điện Tử Truyền Hình là một doanh nghiệp nhà nước thuộc Công Ty Đầu Tư và Phát Triển Công Nghệ Truyền Hình Việt Nam. Tổng Giám Đốc Đài Truyền Hình Việt Nam căn cứ vào: - Nghị định số 52 /CP ngày 16/8/1993 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức bộ máy của Đài Truyền Hình Việt Nam. - Quyết định số 918 QĐ/TC - THVN ngày 10/12/1996 của Tổng giám đốc Đài Truyền Hình Việt Nam quy định chức năng nhiệm vụ, quyền hạn về tổ chức bộ máy của doanh nghiệp nhà nước: Công Ty Đầu Tư và Phát Triển Công Nghệ Truyền Hình Việt Nam - VTC - Điều lệ tổ chức và hoạt động của Công Ty Đầu tư và phát triển công nghệ Truyền Hình Việt Nam được tổng Giám đốc Đài Truyền Hình Việt Nam phê duyệt kèm theo quyết định số 979 QD/TC - THVN ngày 12/12/1996. - Căn cứ vào đề nghị của giám đốc Công Ty Đầu tư và phát triển công nghệ Truyền Hình Việt Nam - VTC và trưởng ban tổ chức cán bộ Đào tạo. Quyết định số 986 QĐ/TC - THVN ngày 12/12/1996 về việc thành lập Xí nghiệp Điện Tử Truyền Hình . - Xí nghiệp Điện Tử Truyền Hình trực thuộc Công Ty Đầu Tư và Phát Triển công nghệ Truyền Hình Việt Nam - VTC. Xí nghiệp Điện Tử Truyền Hình là đơn vị hạch toán phụ thuộc có con dấu riêng, được mở tài khoản tại các ngân hàng - Trụ sở Xí nghiệp Điện Tử Truyền Hình đặt tại số 9 - phố Lạc Trung - Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội, nay đổi thành số 65 - phố Lạc Trung - Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội. 2. Quá trình phát triển - Giai đoạn trước 12/12/1996: Xí nghiệp chưa được thành lập h
nguon tai.lieu . vn