Xem mẫu

  1. 1 Luận văn Nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp
  2. 2 mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Sự phát triển của nền kinh tế thế giới đã và đang đạt được nhiều thành tựu có tính chất đột phá trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, đặc biệt trên các lĩnh vực khoa học - công nghệ, kinh tế; trong đó nhân tố đóng vai trò quyết định sự biến đổi về chất, dẫn tới sự ra đời của nền kinh tế tri thức chính là con người. Con người là nhân tố đặc biệt quan trọng trong mọi tiến trình biến đổi của lịch sử, của mọi quá trình sản xuất, đồng thời cũng là lực lượng tiêu thụ các thành quả vật chất và tinh thần do chính con người sáng tạo ra. Trong hoạt động kinh tế con người là nguồn gốc duy nhất của cái gọi là nguồn nhân lực - một yếu tố đầu vào đ ặc b iệt quan trọng của mọi hoạt động, mọi quá trình kinh tế. Nguồn nhân lực không chỉ sản xuất ra của cải vật chất mà còn là nguồn gốc duy nhất của giá trị và do đó là giá trị tăng thêm; hơn nữa nó còn là nhân tố quyết định tái tạo, sử dụng và phát triển các nguồn lực khác. Nếu không dựa trên nền tảng nguồn nhân lực có thể chất, trình độ văn hoá, khoa học - công nghệ và nhiệt tình cao thì không thể sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài nguyên, vốn, khoa học và công nghệ. Vì lẽ đó, việc sản sinh nuôi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực là vô cùng quan trọng đối với các quốc gia; ngày nay nó lại càng trở nên cấp bách và mang tính chiến lược, là chìa khoá cho sự phát triển trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế với trình độ khoa học - kỹ thuật, công nghệ ngày càng cao và sự lan toả của kinh tế tri thức. Đ ể thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp vào những năm tới, thì Việt Nam phải phát huy được những lợi thế của nguồn nhân lực hiện có và phải có chiến lược, giải pháp đào tạo phát triển nguồn nhân lực của mình một cách hiệu quả và hợp lý, vì thế việc nghiên cứu vấn
  3. 3 đề: “Nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp” ở nước ta hiện nay là cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Xoay quanh vấn đề nguồn nhân lực thì đã có nhiều nghiên cứu, mà đáng chú ý nhất là những công trình sau: - Ban Khoa giáo Trung ương (2000), Dự thảo chiến lược nguồn nhân lực 2001 - 2010, Hà Nội. - Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2002), Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, H à Nội. - GS,TS Nguyễn Kế Tuấn (chủ biên) (2006), Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam con đường và bước đi. - GS,TS Vũ Năng Dũng (chủ biên) (2004), Cơ sở khoa học để xây dựng tiêu chí, bước đi, cơ chế chính sách trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. - Chương trình khoa học công nghệ cấp nhà nước, mã số KX - 07 (1995), Con người Việt Nam - mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, Hà Nội. - Chương trình khoa học công nghệ cấp nhà nước KX.08 đề tài KX 08-01 (1995), Báo cáo tổng hợp hệ quan điểm phát triển toàn diện kinh tế - xã hội nông thôn, Hà Nội. - Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, H à Nội. - GS,VS Phạm Minh Hạc (chủ biên) (1996), Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  4. 4 - PGS.TS Nguyễn Đình Kháng (2002), “Kinh tế tri thức và những vấn đề mới đặt ra cho lý luận và thực tiễn về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ”, Tạp chí Giáo dục lý luận, (1), tr.19 - 21. - GS.TS Đỗ Thế Tùng (1996), Vấn đề lao động và việc làm, Trung tâm Thông tin tư liệu, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. - Mai Quốc Chánh (chủ biên) (1999), Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất n ước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. H ầu hết các các công trình trên đ ã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của nguồn nhân lực, mà đặc biệt đã có một số công trình đ ề cập đến đ ào tạo phát triển nguồn nhân lực để thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, đến nay trong số các công trình được công bố chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề đào tạo NNL của ngành nông nghiệp cho CNH, HĐH nông nghiệp trên phương diện kinh tế chính trị. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên c ứu Trên cơ sở nghiên cứu vai trò của NNL cũng như quá trình đào tạo NNL của ngành nông nghiệp cho CNH, HĐH nông nghiệp để xác định phương hướng, giải pháp đào tạo phát triển NNL cho CNH, HĐH nông nghiệp giai đoạn 2006 - 2010. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa CNH, HĐH nông nghiệp với việc đào tạo NNL cho tiến trình đó, để vạch rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động đào tạo NNL của ngành nông nghiệp cho CNH, HĐH nông nghiệp ở nước ta hiện nay. - Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động đào tạo NNL của ngành nông nghiệp cho CNH, HĐH nông nghiệp ở nước ta thời gian qua.
  5. 5 - Đề xuất phương hướng, giải pháp chủ yếu để hoàn thiện và phát triển ho ạt động đào tạo NNL của ngành nông nghiệp cho CNH, HĐH nông nghiệp ở nước ta giai đoạn 2006 - 2010. 4. Đối tượng, phạ m vi nghiên cứu của luận văn Do lý luận và thực tiễn về NNL cho CNH, HĐH nông nghiệp ở nước ta là vấn đề lớn và phức tạp, để phù hợp với yêu cầu của luận văn Thạc sĩ và để phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của công tác mà học viên đang đ ảm nhiệm hiện nay, nên luận văn chỉ chú trọng tập trung nghiên cứu vấn đề đào tạo NNL của ngành nông nghiệp mà chủ yếu là đ ào tạo đội ngũ lao động có trình độ công nhân kỹ thuật trở lên cho CNH, HĐH nông nghiệp ở nước ta giai đo ạn từ năm 2000 đến nay và định hướng đến năm 2010. 5. Phương pháp luận nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp luận cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp với những nguyên lý, lý luận Hồ Chí Minh. Trong đó, chú trọng sử dụng phương pháp nghiên cứu cơ bản của kinh tế chính trị Mác - Lênin như: phương pháp kết hợp logic với lịch sử: phương pháp trừu tượng hoá khoa học, phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê so sánh đ ối chiếu... để làm rõ các vấn đề cần phân tích. 6 Đóng góp của lụận văn - Luận văn làm rõ được cơ sở lý luận và thực tiễn của đào tạo NNL của ngành nông nghiệp phục vụ quá trình CNH, HĐH nông nghiệp ở nước ta hiện nay. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu để hoàn thiện và phát triển hoạt động đào tạo NNL của ngành nông nghiệp cho CNH, HĐH nông nghiệp ở nước ta giai đoạn 2006 - 2010.
  6. 6 7. K ết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn đ ược kết cấu thành 3 chương, 9 tiết.
  7. 7 Chương 1 Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá nông nghiệp và vấn đề đào tạo Nguồn Nhân Lực của ngành nông nghiệp cho Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá nông nghiệp ở nước ta hiện nay 1.1. Công nghiệp hoá, Hiện Đại Hoá nông nghiệp và những vấn đề đặt ra cho đào tạo Nguồn nhân lực của ngành nông nghiệp cho Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp ở nư ớc ta hiện nay 1.1.1. Một số vấn đề cơ b ản về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp a. Khái quát về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân Công nghiệp hoá là một cuộc đại phân công lao động xã hội, kèm theo là một quá trình di chuyển, chuyển đổi cơ cấu của nền kinh tế. Quá trình từ xã hội nông nghiệp chậm phát triển sang xã hội công nghiệp phát triển diễn ra chủ yếu theo hai tiến trình cơ bản: tiến trình thị trường hoá và tiến trình công nghiệp hoá, theo đó là quá trình đô thị hoá và ngày nay còn bao hàm cả quá trình hiện đại hoá. Dưới tác động của những tiến trình này, công nghiệp hoá là một sự chuyển biến sâu sắc mang tính cách mạng trong sản xuất, trong cách thức tổ chức kinh tế xã hội và cả lối sống của con người. Cùng với công nghiệp hoá, mức sản xuất tăng lên mạnh mẽ, xã hội trở nên giàu có, kèm theo đó là sự thay đổi tư duy cả trong đời sống vật chất cũng như văn hoá - tinh thần. Nó chính là quá trình cải biến nền kinh tế nông nghiệp mà chủ yếu dựa trên kỹ thuật thủ công mang tính hiện vật, tự cấp, tự túc thành nền công nghiệp thị trường. Đây cũng là một quá trình xây d ựng một xã hội văn minh công nghiệp, cải biến kỹ thuật tạo dựng nền công nghiệp lớn và phát triển kinh tế thị trường.
  8. 8 Như vậy quá trình công nghiệp hoá là quá trình phát triển kinh tế hay là nội dung vật chất của quá trình chuyển đổi nền kinh tế chậm phát triển sang nền kinh tế phát triển. b. Quan điểm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp Theo nghị quyết số 15NQ/TW ngày 18/3/2002 của HNTW 5 khoá IX về đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010 là: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ, trước hết là công nghệ sinh học, đưa thiết bị, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá trên thị trường... [13, tr.64]. Theo đó, quá trình CNH, HĐH nông nghiệp ở nước ta hiện nay bao gồm những nội dung cơ bản sau: - Là quá trình chuyển nền nông nghiệp truyền thống phát triển thành nền nông nghiệp hiện đại, về thực chất là HĐH các biện pháp sản xuất nông nghiệp, HĐH công nghệ sản xuất, HĐH quản lý sản xuất kinh doanh và HĐH lực lượng lao động ngành nông nghiệp. - Làm thay đổi thay đổi căn bản tính chất, phương thức sản xuất, cơ cấu sản xuất, hình thức tổ chức q uản lý sản xuất của một nền sản xuất nông nghiệp sản xuất tự cung, tự cấp, dựa chủ yếu vào điều kiện tự nhiên với kỹ thuật thủ công sang một nền sản xuất nông nghiệp sản xuất hàng hoá với kỹ thuật công nghệ tiên tiến, trong điều kiện thương m ại hoá toàn cầu và phải đảm bảo cho sự phát triển bền vững về tự nhiên, kinh tế, x ã hội.
  9. 9 - Quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp diễn ra nhanh chóng. Nông nghiệp không chỉ đóng vai trò là ngành tất yếu mà cơ sở từ đó công nghiệp nảy sinh và phát triển, mà nông nghiệp từ đầu tham gia vào sự phát triển với tính cách là ngành sản xuất ra sản phẩm tiêu dùng, thành một cực tăng trưởng thông qua việc chuyển sang sản xuất các mặt hàng nông sản xuất khẩu. Sự tác động của chiến lược hướng vào xuất khẩu và sự phát triển của công nghiệp và kinh tế thị trường; cách mạng khoa học công nghệ, trong điều kiện toàn cầu hoá đã lôi cuốn nông nghiệp vào trung tâm của sự phát triển. Sự chuyển đổi nhanh chóng của nông nghiệp tất yếu làm tăng sự tan rã nhanh chóng kết cấu xã hội nông thôn truyền thống và kinh tế nông thôn với phương thức sản xuất tiểu nông của nó, đồng thời là quá trình đô thị hoá sẽ diễn ra nhanh chóng. - Sử dụng máy móc rộng rãi, áp d ụng khoa học công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ sinh học và công nghệ thông tin trong khâu sản xuất, bảo quản, chế biến và tiếp thị mở rộng thi trường tiêu thụ trong nước và quốc tế, chính vì vậy sẽ thúc đẩy nhanh sự tan dã của nông nghiệp chậm phát triển và nông nghiệp truyền thống. c. Vai trò của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế N ền kinh tế nông nghiệp, không thể tự cải tạo kỹ thuật, không thể tự mình giải quyết vấn đề phát triển. Sự phát triển của nông nghiệp được quyết định bởi bản thân quá trình nền sản xuất xã hội thực hiện được, quá trình phát triển với hai tiến trình thị trường hoá và công nghiệp hoá, đó là quá trình chuyển từ làn sóng nông nghiệp sang làn sóng công nghiệp. Sự phát triển này khiến cho nông nghiệp mất vị trí là nền tảng của nền kinh tế. Qui luật chung của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là làm giảm tỷ lệ GDP của nông
  10. 10 nghiệp trong cơ cấu chung nền kinh tế, lao động ngành nông nghiệp có tỷ lệ nhỏ trong cơ cấu chung của các ngành kinh tế. Sự thay đổi trong cơ cấu ngành nông nghiệp không phải là nguyên nhân chủ yếu tạo ra thị trường cho nông nghiệp mà chính sự phát triển của công nghiệp, du lịch dịch vụ đã tạo ra thị trường cho nông nghiệp và qui định tất yếu nông nghiệp phải chuyển thành ngành kinh doanh theo cơ chế thị trường. 1.1.2. K hái quát về nguồn nhân lực trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp a. Khái niệm về nguồn nhân lực Nguồn nhân lực trong lý thuyết phát triển và theo nghĩa rộng được hiểu như nguồn lực con người của một quốc gia, vùng lãnh thổ, ngành và là một bộ phận của các nguồn lực có khả năng huy động để tham gia vào quá trình kinh tế xã hội, như nguồn lực vật chất, nguồn lực tài chính. Theo Bộ Lao động Thương binh và xã h ội: Nguồn nhân lực là tiềm năng về lao động trong một thời kỳ xác định của một quốc gia, suy rộng ra có thể được xác định trên một địa phương hay một vùng đây là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế - xã hội. Như vậy, với tư cách là yếu tố phát triển kinh tế - xã hội, NNL là khả năng lao động của xã hội mà theo nghĩa cụ thể, nó bao gồm nhóm dân cư trong độ tuổi lao động có khả năng lao động. Với cách hiểu này nguồn nhân lực tương đương với nguồn lao động, nghĩa là nó bao gồm mọi cá nhân, những con người cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng hợp các yếu tố về thể chất và tinh thần được huy động vào quá trình lao động. Vai trò của các yếu tố này đã được Các Mác đề cập đến, chẳng hạn như: "Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại
  11. 11 trong một cơ thể, trong một con người đang sống và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó" [ ]. Sức lao động là tổng hợp thể lực và trí lực của con người, nó phản ánh khả năng lao động của con người và là điều kiện tiên quyết của mọi của mọi quá trình lao động xã hội. Quá trình vận động phát triển sản xuất xã hội đòi hỏi sức lao động ngày càng có chất lượng cao hơn. Sức lao động của con người trong sản xuất, kinh doanh được coi như một yếu tố chi phí sẽ được đưa vào giá thành của sản phẩm thông qua tiền lương, quyền lợi vật chất khác mà người lao động đ ược hưởng và yếu tố này đem lại lợi ích kinh tế cho doanh nghiệp, xã hội. Theo Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, những người trong độ tuổi từ đủ 15 đến 60 tuổi đối với nam và từ đủ 16 đến 55 tuổi đối với nữ, đều nằm trong độ tuổi lao động. Thông thường NNL được xem xét, đánh giá trên các phương diện số lượng, chất lượng, cơ cấu... Số lượng NNL được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu qui mô và tốc độ tăng NNL. Chất lượng NNL là tổng thể những đặc trưng, phán ánh b ản chất, tính đặc thù liên quan trực tiếp tới hoạt động trực tiếp sản xuất và phát triển của con người. Đó là khái niệm tổng hợp bao gồm những nét đặc trưng về trạng thái thể lực, trí lực, kỹ năng, phong cách đạo đức lối sống và tinh thần của NNL. Tuy nhiên, nguồn lao động khi bao hàm toàn bộ dân cư trong độ tuổi lao động, nó chỉ bao gồm lực lượng lao động - nghĩa là nó phải loại trừ những người trong độ tuổi này hoàn toàn mất khả năng lao động hoặc không đủ điều kiện lao động. Tuy nhiên, khi tính toán nguồn lao động xã hội thì tổng cục thống kê cho rằng: Nguồn lao động là những người trong độ tuổi có khả năng lao động và những người ngoài độ tuổi lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân.
  12. 12 Như vậy khác nhau cơ bản giữa hai khái niệm này là việc tính hay không tính những người ngo ài độ tuổi lao động đang làm việc ở các ngành kinh tế quốc dân trong nguồn lao động. ở Việt Nam hiện nay đã thống nhất cách tiếp cận coi nguồn lực lao động bao gồm những người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm (gồm cả những người trên độ tuổi qui định của Bộ luật lao động, nhưng thực tế vẫn đang tham gia vào quá trình lao động) và những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động nhưng chưa làm việc do đang trong tình trạng thất nghiệp, đang đi học, đang đảm đương nội trợ trong gia đình và kể cả không có nhu cầu làm việc trong thời điểm hiện tại. Như vậy, nguồn lao động là một bộ phận dân cư có khả năng về thể chất và tinh thần có thể tham vào quá trình lao động theo luật định. Khái niệm về lực lượng lao động hẹp hơn khái niệm về nguồn lao động, theo ILO, lực lượng lao động là một bộ phận dân số trong độ tuổi qui định, thực tế có tham gia lao động và những người không có việc làm đang tích cực tìm kiếm việc làm. Ngày nay, khoa học và công nghệ đang ở gia đoạn phát triển cao, các nguồn lực cho sự phát triển đang có nhiều thay đổi rất căn bản, tài nguyên thiên nhiên đang lùi dần về vị trí thứ yếu, kinh tế tri thức đang lên ngôi. Trong phân tích kinh tế, người ta thiên về khai thác lợi thế so sánh động. Nhưng xã hội càng phát triển thì nguồn lực lao động với đầy đủ ý nghĩa của nó, trong đó bao hàm cả chủ thể mang trong mình nguồn lực của khoa học, đang ngày một trở nên quan trọng, không những có ý nghĩa quyết định đến năng lực cạnh tranh của một quốc gia, mà thậm chí còn quyết định đến bản chất của toàn bộ qúa trình phát triển.
  13. 13 b. Một số đặc trưng cơ bản của nguồn nhân lực trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp - Đặc trưng về xã hội: Khác với các nguồn lực khác, NNL chính là con người với đầy đủ các yếu tố tinh thần văn hoá xã hội của nó. Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, hoạt động của con người chủ yếu là hoạt động sản xuất, hoạt động cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và thông qua những hoạt động này, con người cải tạo chính mình. Con người, bằng hoạt động lao động của mình đã làm biến đổi bản chất tự nhiên và tạo ra bản chất xã hội của chính mình, cho nên tự nhiên và xã hội trong mỗi con người gắn bó khăng khít với nhau. Chính những hoạt động này làm biến đổi mặt tâm lý của con người và làm cho nó mang tính người, tính xã hội và cũng chính hoạt động thực tiễn đó đã làm cho nhu cầu sinh vật ở con người trở thành nhu cầu xã hội. Trong Luận cương Phơ Bách Các Mác viết: “V ề mặt bản chất: trong tính hiện thực của nó, con người là tổng hoà các quan hệ xã hội” [ ]. Như vậy, yếu tố tâm lý trong mỗi con người không phải tồn tại bên cạnh yếu tố xã hội mà chúng hoà quyện vào nhau. Bản tính tự nhiên của con người đ ược chuyển vào bản tính xã hội của con người và được cải biến trong đó. Nhân tố đặc biệt hơn cả NNL đó là yếu tố sức lao động - yếu tố quan trọng của lực lượng sản xuất, nó đặc trưng cho khả năng phát triển không ngừng của sản xuất xã hội. Người ta thường quan niệm nhân tố sức lao động là một phạm trù tổng hợp bao gồm các thành tố: thể lực, trí lực, yếu tố xã hội. Thể lực của con người chịu ảnh hưởng của mức sống vật chất, chăm sóc sức khoẻ và sự rèn luyện của từng con người cụ thể. Thể lực có ý nghĩa quan trọng, quyết định năng lực hoạt động của con người. Phải có thể lực con người mới có thể phát triển trí tuệ và quan hệ của mình trong xã hội.
  14. 14 Trí lực được xác định bởi tri thức chung về khoa học (khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội), trình độ kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm làm việc và khả năng tư duy x ét đoán sự vật hiện tượng của mỗi người. Nhờ trí lực, con người đã khai thác, chế ngự thiên nhiên và sử dụng nó để bảo tồn và phát triển xã hội của mình. Trí lực của con người được phát triển thông qua giáo dục đào tạo và lao động sản xuất. Y ếu tố xã hội bao gồm những tình cảm, tập quán, phong cách, thói quen, quan niệm, truyền thống, các hình thái tư tưởng, đạo đức và nghệ thuật nó phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người, của lịch sử phát triển của từng quốc gia, dân tộc. Tri thức và yếu tố xã hội là hai bộ phận cấu thành hai nhân tố tinh thần, liên kết chặt chẽ với nhau. Nhân tố tinh thần là kết quả của một quá trình tích luỹ lâu dài của xã hội, gia đình và từng con người. Sự phát triển kinh tế của một quốc gia luôn gắn liền với phát triển x ã hội. Phát triển những giá trị tinh thần mới là nền tảng của một quốc gia. Kinh nghiệm thành công trong phát triển kinh tế Nhật Bản và các nước NICs ở châu á là tiếp thu công nghệ, kỹ thuật phương Tây trên cơ sở phát huy giá trị văn hoá tinh thần của dân tộc để đổi mới và phát triển. - Đặc trưng về số lượng: Số lượng NNL được xác định dựa trên qui mô dân số, cơ cấu tuổi, giới tính và sự phân bố theo khu vực và vùng lãnh thổ của dân số. Các chỉ tiêu về số lượng này có quan hệ mật thiết với chỉ tiêu qui mô và tốc độ tăng dân số. Các chỉ tiêu về chất lượng của NNL khi được đặt trong tổng thể nền kinh tế thì có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó trực tiếp phản ánh thực trạng tăng dân số đến kinh tế: đến hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực, đến vấn đề đào tạo và phát triển nguồn nhân lực... - Đặc trưng về chất lượng: Chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện qua một số chỉ tiêu chủ yếu sau:
  15. 15 + Chỉ tiêu phản ánh tình trạng sức khoẻ của dân cư: Sức khoẻ là trạng thái thoải mái về thể chất, tinh thần và xã hội của con người. Sức khoẻ là nhân tố tác động trực tiếp đến cả số lượng và chất lượng NNL. Người lao động có sức khoẻ tốt có thể mang lại lợi ích kinh tế nhiều hơn nhờ việc huy động sức mạnh, sự bền bỉ, dẻo dai và tập trung trí tuệ cao trong khi thực hiện công việc. Các chỉ tiêu cơ b ản phản ánh sức khoẻ của con người là; thể lực (chiều cao, cân nặng), bệnh tật, tuổi thọ... + Chỉ tiêu phản ánh trình độ học vấn của người lao động: Đó là sự hiểu biết của người lao động đối với những kiến thức phổ thông về tự nhiên và xã hội. Trình độ học vấn được biểu hiện bằng tỷ lệ biết chữ, trình độ học vấn theo nhóm tuổi, theo các cấp độ trong giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp. + Chỉ tiêu phản ánh trình đ ộ chuyên môn kỹ thuật của người lao động: Trình độ CMKT là sự hiểu biết, khả năng thực hành về CMKT nào đó của người lao động. Đề án nghiên cứu tổng thể về Giáo dục - Đào tạo và phân tích nguồn nhân lực Việt Nam do UNESCO, UNDP và Bộ Giáo dục - Đào tạo thực hiện đã phân loại trình độ CMKT như sau: Trên đại học; Đại học - Cao đẳng; Trung học chuyên nghiệp; Công nhân kỹ thuật có bằng nghề, Công nhân kỹ thuật có chứng chỉ nghề. Trong cuốn thực trạng lao động - việc làm ở Việt Nam hàng năm của Bộ Lao động - Thương binh và xã hội cũng phân loại trình độ CMKT tương tự. + Chỉ số HDI(Human Development Index - HDI): Trong Báo cáo phát triển con người năm 1990 và Báo cáo tiếp theo của UNDP đã đưa ra một loạt các chỉ số để đo lường kết quả và đánh giá thành tựu con người. HDI là chỉ số tổng hợp nhất được đưa ra từ năm 1990 và hiệu chỉnh lại vào năm 1999, được xác đ ịnh từ 3 chỉ tiêu sau:  Tuổi thọ tính từ khi sinh ra.
  16. 16  Trình độ giáo dục, tính tổng hợp theo tỷ lệ biết chữ của người lớn và các tỷ lệ về đi học tiểu học, trung học và đại học.  Mức sống đo bằng giá trị GDP tính bình quân đ ầu người thực tế theo sức mua tương đương. + Các chỉ tiêu phản ánh năng lực phẩm chất của người lao động như: Tập quán, thói quen, phong cách, đạo đức, lối sống, truyền thống văn hoá dân tộc... Trong các chỉ tiêu trên, trình đ ộ CMKT là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất để thể hiện chất lượng của nguồn nhân lực. 1.1.3. Một số yêu cầu c ơ bản đối với hoạt động đào tạo nguồn n hân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp a. Một số vấn đề cơ bản về đào tạo Theo khái niệm phổ biến hiện nay, đào tạo là quá trình tác động đến một con người, nhằm tạo cho người đó lĩnh hội và nắm vững các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo một cách có hệ thống nhằm chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng nhận một sự phân công lao động nhất định, góp phần mình vào việc phát triển xã hội, duy trì và phát triển nền văn minh loài người. Về cơ bản đào tạo là giảng dạy và học tập ở nhà trường gắn với việc giáo dục nhân cách; là sự phát triển có hệ thống những kiến thức, kỹ năng mà mỗi cá nhân cần có để thực hiện đúng một nghề hoặc một nhiệm vụ cụ thể. Nội dung đó có thể do nhu cầu cá nhân của người được đ ào tạo hoặc do nhu cầu phát triển nhân lực của tổ chức. Hơn nữa đào tạo còn được hiểu là một quá trình ho ạt động có mục đích, có tổ chức nhằm hình thành và phát triển có hệ thống các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ để hoàn thiện nhân cách cho mỗi cá nhân, tạo tiền đề cho họ có thể vào đời hành nghề một cách có năng suất và hiệu quả. Quá trình này đ ược tiến hành chủ yếu trong các cơ sở đào tạo như nhà trường, trung tâm, viện nhiên cứu hoặc cơ sở sản xuất. Mỗi khoá học có mục tiêu, nội dung, chương
  17. 17 trình thành hệ thống hoàn chỉnh, với thời gian quy định phù hợp với các trình độ khác nhau; cuối khoá học thường được cấp bằng tốt nghiệp hoặc chứng chỉ. V ề qui trình, ngoài ra còn có " bồi dưỡng" và "đào tạo lại". Đó là quá trình gắn với hoạt động đ ào tạo nghề nghiệp và chỉ diễn ra sau khi người tham gia vào quá trình này đã một lần được đào tạo và công nhận bởi một văn bằng tương ứng. Đào tạo lại là đào tạo những người đã có nghề, song vì lý do nào đó nghề đó không phù hợp nữa. Bồi dưỡng nhằm nâng cao kiến thức và kinh nghiệm để người lao động có thể đảm nhận công việc phức tạp hơn. Trong hoạt động đào tạo có hoạt động giáo dục. Giáo dục ở đây đ ược hiểu là những hoạt động nhằm tăng cường phát triển kiến thức, các giá trị đạo đức, những hiểu biết mà mỗi người cần có trong cuộc sống. Mục đích của những hoạt động này tạo điều kiện thiết yếu cho con người hiểu biết truyền thống, tư tưởng ảnh hưởng đến xã hội, đến nền văn hoá của mình và các nền văn hoá khác làm cơ sở để giao tiếp và phát huy môi trường trong công tác của họ. Đào tạo không chỉ là quá trình trang bị kiến thức nhất định về chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng, kỹ xảo mà còn làm tăng niềm say mê nghề nghiệp cho người lao động, để họ có thể đảm nhận và hoàn thành tốt hơn một công việc nhất định. Như vậy, khái niệm đào tạo nguồn nhân lực là quá trình trang bị kiến thức nhất định về chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động, để họ có thể đảm bảo thực hiện đ ược một số công việc nhất định. b. Một số đặc trưng của hoạt động đào tạo - Hoạt động đào tạo nguồn nhân lực bao gồm các bước sau: + Xác định nhu cầu đào tạo: Đối với lĩnh vực, ngành(kinh tế - văn hoá- xã hội), địa phương, cơ quan, tổ chức là chiến lược và kế hoạch phát triển gắn với nhu cầu phát triển NNL; là nhu cầu và mục đích của các cá nhân trong cơ quan tổ chức hoặc
  18. 18 trong một cộng đồng xã hội sẽ tham dự khoá đào tạo. Xác định nhu cầu đào tạo là bước đầu tiên rất quan trọng trong hoạt động đào tạo. Bởi vì, đào tạo là ho ạt động đòi hỏi nhiều thời gian và chi phí tài chính lớn. Nếu đào tạo tốt có thể thu hồi lại các chi phí đó, mang lại lợi ích cho cá nhân và xã hội, ngược lại sẽ làm tăng chi phí. Khi đánh giá nhu cầu đào tạo cần xem xét đến nhu cầu của x ã hội, các chương trình phát triển kinh tế nông thôn có tính đến các đặc thù của từng vùng; yêu cầu về ngành nghề và trình đ ộ; hiện trạng chất lượng nhân lực. Việc xác định nhu cầu đào tạo của một ngành, lĩnh vực rất có ý nghĩa cho các cơ sở đào tạo chuẩn bị về nguồn lực đào tạo. + Xác định các mục tiêu đào tạo: V ề nhận thức và các thông tin, kiến thức gì mà người học nhận đ ược khi kết thúc khoá đào tạo; về hành động là những kỹ năng cần có mà người học có thể làm được sau khoá đào tạo; về tác động là quan điểm hoặc niềm tin mà người học có được sau khoá đào tạo. + Tuyển chọn người được đào tạo: Đối với cá nhân, quyết định học và lựa chọn ngành học hoặc chương trình đ ào tạo nâng cao năng lực là đặc biệt quan trọng cho lập nghiệp trong tương lai hoặc khả năng thích ứng với sự thay đổi công việc; trên giác độ tổ chức, lựa chọn đúng người đào tạo sẽ tạo điều kiện cho chính con người đó cơ hội phát triển đồng thời thúc đẩy sự phát triển đội ngũ lao động và tăng năng suất lao động cũng như hiệu quả của đầu tư, ngược lại sẽ là chi phí lớn, là sự lãng phí về thời gian tổ chức và sức lực của người học, lựa chọn người đ ào tạo cần căn cứ nhu cầu của tổ chức, nguyện vọng và động lực của người học. + Xây dựng nội dung và phương pháp đào tạo: Cần dựa trên cơ sở của nhu cầu đào tạo, mục tiêu đào tạo để phù hợp với đối tượng được đào tạo đã xác đ ịnh; Nội dung đào tạo phải đảm bảo thực hiện được các mục tiêu của chương trình đào tạo. Lựa chọn phương pháp đào
  19. 19 tạo là hết sức quan trọng vì phương pháp đào tạo tốt sẽ nâng cao đáng kể đến hiệu quả đào tạo. + Xác định nguồn lực đào tạo: Trên cơ sở mục tiêu đào tạo, số lượng đào tạo, nội dung và phương pháp đào tạo để xác định các nguồn lực thiết yếu về thời gian, nhân lực, địa điểm, phương tiện và tài chính cho đào tạo. + Tổ chức, thực hiện đào tạo. + Đánh giá kết quả đào tạo và điều chỉnh hoạt động đào tạo tiếp theo trên cơ sở các tiêu chí đánh giá về mức độ đáp ứng mục tiêu, yêu cầu của cơ quan, tổ chức, người học và đ ịnh hướng tương lai. - Sự khác biệt giữa khái niệm đào tạo và khái niệm phát triển: + Đào tạo về cơ bản tập trung vào việc cung cấp cho người học những kỹ năng cụ thể hoặc giúp cho họ khắc phục những khiếm khuyết trong công việc của họ. Phạm vi hoạt động đào tạo chủ yếu hướng vào từng cá nhân và đào tạo thường có xu hướng thoả mãn nhu cầu trước mắt của tổ chức. Do đó mục tiêu của đào tạo thường nhanh chóng hoàn thiện kết quả công việc của người học. Ngược lại, phát triển mang ý nghĩa rộng hơn, đó là quá trình cung cấp cho người lao động những khả năng mà tổ chức hay doanh nghiệp cần trong tương lai. Đội ngũ người lao động có thể đ ược phát triển qua nhiều cách và đào tạo chỉ là một trong các cách đó. Phạm vi của quá trình phát triển thường tiếp cận đối với cả nhóm hay cả tổ chức, nghĩa là phát triển có mối quan hệ với kỹ năng, sự đa dạng của đội ngũ lao động trong tổ chức. Mục tiêu của quá trình phát triển là làm giàu lực lượng lao động của tổ chức nói chung thông qua việc chuẩn bị cho họ nhu cầu công việc trong tương lai. + Trong văn minh nông nghiệp, "đ ào tạo" theo kiểu kèm cặp, bắt chước, trong văn minh công nghiệp là qua trường đào tạo nghề trên một lĩnh
  20. 20 vực, theo quy trình chặt chẽ và với thời gian tương đối dài; trong văn minh hậu công nghiệp, phải được đ ào tạo nhiều mặt trên một số lĩnh vực. + Về học vấn của người lao động: Trong văn minh nông nghiệp là trình độ tiểu học, trong văn minh công nghiệp tối thiểu tốt nghiệp lớp 9, trình độ sơ trung, trong văn minh hậu công nghiệp là tốt nghiệp lớp 12 và trình độ cao trung. - Hình thức đào tạo: + Theo hình thức đào tạo có đào tạo chính quy và đào tạo không chính quy, đào tạo có chứng chỉ văn bằng và đào tạo không có chứng chỉ văn bằng, đào tạo tại trường và đào tạo tại nơi làm việc trên cơ sở công việc đang làm... + Hình thức đào tạo chính quy là hình thức ở đó người học được học tập theo chương trình học có hệ thống theo thứ bậc tuần tự trong hệ thống nhà trường với thời gian học liên tục, thường xuyên. Người học được học từ đơn giản đến phức tạp, từ lý thuyết đến thực hành, có điều kiện nắm vững các kiến thức cơ bản và kỹ năng nghiệp vụ. Hình thức đào tạo hiện nay đòi hỏi quy chuẩn về điều kiện trường, lớp, bộ máy quản lý, đội ngũ giáo viên, trang thiết bị thí nghiệm, xưởng thực hành, thư viện, chương trình đào tạo, người học... Hình thức đào tạo không chính quy giúp cho mọi người vừa làm vừa học, học liên tục, học suốt đời nhằm hoàn thiện và mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ để thích nghi với thay đổi của công việc và đời sống xã hội. + Đào tạo tại nơi làm việc, là đào tạo trực tiếp, chủ yếu là thực hành ngay trong quá trình sản xuất. Đối với hình thức này, thời gian học tập ngắn, chủ yếu vừa sản xuất vừa học tập, kiến thức lý thuyết không theo hệ thống, người dạy nghề thường không chuyên nghiệp. Vì vậy hình thức đào tạo này chỉ thích hợp với những công việc không đòi hỏi trình độ lành nghề cao. + Đào tạo tại các lớp cạnh doanh nghiệp: Đối với những nghề tương đối phức tạp, việc đào tạo tại nơi làm việc không đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng và chất lượng. V ì vậy, các doanh nghiệp phải tổ chức các lớp đào tạo
nguon tai.lieu . vn