Xem mẫu

  1. Luận văn NGHIÊN CỨU TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHOÁ VỀ "DÕNG ĐIỆN KHÔNG ĐỔI" VẬT LÍ LỚP 11 (THPT) NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC VÀ PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH
  2. MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá và tiến trình hội nhập quốc tế của đất nƣớc đòi hỏi nguồn nhân lực có trình độ cao, năng động, sáng tạo và phẩm chất đạo đức tốt. Để đáp ứng nhu cầu đó nghành giáo dục cần đổi mới toàn diện. Do vậy với văn kiện đại hội đảng lần thứ X của ban chấp hành trung ƣơng đảng khoá IX đã khẳng định ''...ưu tiên hàng đầu cho việc nâng cao chất lượng dạy và học. Đổi mới trương trình, nội dung, phương pháp dạy và học... Phát huy khả năng sáng tạo và độc lập suy nghĩ của học sinh...’’ Điều 28 luật giáo dục qui định ''phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng môn học, lớp học; bồi dưỡng phương pháp tự họ c, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú học cho học sinh". Thực hiện yêu cầu trên, ngành giáo dục nƣớc ta có chủ trƣơng đổi mới nội dung, chƣơng trình sách giáo khoa. Với nội dung chƣơng trình sách giáo khoa mới thì việc đổi mới phƣơng pháp dạy học theo hƣớng tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh là thật sự cần thiết. Vật lí học là một môn học bắt buộc trong hệ thống các môn học của nhà trƣờng phổ thông ở nƣớc ta hiện nay. Yêu cầu đổi mới phƣơng pháp dạy và học trong nhà trƣờng phổ thông trong đó yêu cầu đổi mới phƣơng pháp dạy và học đối với môn vật lí là điều tất yếu. Do đặc thù của vật lí học là môn khoa học thực nghiệm nên một trong những khâu quan trọng của quá trình đổi mới phƣơng pháp dạy học vật lý là tăng cƣờng các hoạt động thực nghiệm của học sinh trong quá trình học tập. Vì vậy, việc đƣa thí nghiệm vào dạy học đã làm cho học sinh tiếp cận với con đƣờng nghiên cứu khoa học của các nhà khoa học Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 1
  3. và tiếp thu các kiến thức một cách nhanh chóng, dễ dàng hơn. Thông qua thí nghiệm vật lý, học sinh sẽ đƣợc rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo, giáo dục tổng hợp, hình thành tƣ duy sáng tạo và tinh thần làm việc tập thể. Thông qua việc tiến hành thí nghiệm, học sinh đƣợc làm quen với phƣơng pháp nghiên cứu khoa học, có một số kĩ năng sử dụng các máy móc thiết bị cơ bản làm cơ sở cho việc sử dụng những công cụ trong công việc cũng nhƣ trong cuộc sống. Qua điều tra thực tế, chúng tôi thấy: Việc dạy và học theo chƣơng trình mới đã có nhiều ƣu điểm. Tuy nhiên, dạy học nội khoá vẫn còn rất nặng nề, chƣa kích thích đƣợc sự hứng thú học tập và chƣa phát triển đƣợc năng lực sáng tạo của học sinh. Do vậy, để đạt đƣợc mục tiêu đã đề ra của nền giáo dục, cần phải đa dạng hoá các hình thức tổ chức hoạt động học tập của học sinh, và cần phải khẳng định vai trò quan trọng của hoạt động ngoài giờ lên lớp (hay hoạt động ngoại khoá). Đây là một hình thức dạy học mang lại hiệu quả cao nhƣng hiện nay chƣa đƣợc chú trọng ở các trƣờng phổ thông nƣớc ta. Nó không những giúp học sinh củng cố các kiến thức đã học ở nội khoá mà còn giúp đào sâu, mở rộng kiến thức, phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh. Đây là những điều mà nội khoá làm chƣa tốt do điều kiện thời gian, phƣơng tiện dạy học hay do sức ép thi cử. Qua quá trình nghiên cứu sách giáo khoa vật lí 1 1, chúng tôi nhận thấy kiến thức về dòng điện không đổi có nhiều ứng dụng trong đời sống và kĩ thuật. Trong dạy học nội khóa đã đƣợc trang bị một số thiết bị thí nghiệm tố i thiểu về dòng điện không đổi, nhƣng qua điều tra chúng tôi nhận thấy các giáo viên chƣa khai thác, tận dụng đƣợc hết khả năng của các thiết bị thí nghiệm này trong dạy học. Có giáo viên sử dụng các thiết bị này trong dạy học nhƣng chƣa nghiên cứu để đƣa thí nghiệm vào giảng dạy theo hƣớng tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh. Ngoài ra, phần này cũng có những thí nghiệm đơn giản, có thể tự chế tạo đƣợc hoặc khai thác từ những thiết bị đã Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2
  4. có sẵn trong thực tế nhƣng giáo viên đã không tổ chức cho học sinh tự thiết kế và làm thí nghiệm. Do vậy, trong học nội khóa, học sinh không có cơ hội đƣợc rèn luyện các kĩ năng, các thao tác làm thí nghiệm, cũng nhƣ không đƣợc hình thành kiến thức một cách đúng đắn dễ dẫn đến sai lầm, hay không có sự hứng thú, tích cực trong học tập và không đƣợc rèn luyện tƣ duy sáng tạo. Thực tiễn trong những năm gần đây ở các nhà trƣờng phổ thông hiện nay, hoạt động ngoại khoá nói chung và hoạt động ngoại khoá vật lí nói riêng ít đƣợc tổ chức, lãnh đạo nhà trƣờng và giáo viên bộ mô n chƣa có sự đầu tƣ cho hoạt động này. Về mặt lí luận, việc nghiên cứu các hình thức tổ chức hoạt động ngoại khoá vật lí trong nhà trƣờng phổ thông cũng chƣa đƣợc sự quan tâm nghiên cứu thích đáng của các nhà lí luận dạy học bộ môn. Với mong muốn góp phần vào việc nghiên cứu, nâng cao chất lƣợng, hiệu quả dạy và học vật lí ở trƣờng trung học phổ thông (THPT), chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài: NGHIÊN CỨU TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHOÁ VỀ "DÕNG ĐIỆN KHÔNG ĐỔI" VẬT LÍ LỚP 11 (THPT) NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC VÀ PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH. 2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI Nghiên cứu tổ chức hoạt động ngoại khoá về "dòng điện không đổi" vật lý lớp 11(THPT) nhằm phát huy tính tích cực và phát triển năng lực sáng tạo của học sinh. 3. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI Tổ chức dạy học ngoại khoá một số chủ đề về "Dòng điện không đổi'' đối với học sinh lớp 11 THPT, nhằm phát huy tính tích cực và phát triển năng lực sáng tạo của họ c sinh. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 3
  5. 4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC Nếu nghiên cứu và tổ chức đƣợc một số chủ đề hoạt động ngoại khoá vật lí về ''Dòng điện không đổi'' sẽ góp phần nâng cao tính tích cực và phát triển năng lực sáng tạo của học sinh. 5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU - Nghiên cứu lí luận về tính tích cực, năng lực sáng tạo. - Nghiên cứu cơ sở lí luận của việc tổ chức dạy học ngoại khoá. - Vận dụng kiến thức vào việc tổ chức một số hoạt động ngoại khoá về dòng điện không đổi cho học sinh lớp 11 THPT. - Khảo sát thực trạng và đề xuất giải pháp việc tổ chức dạy học ngoại khoá bộ môn vật lý tại một số trƣờng THPT thuộc địa bàn tỉnh Bắc Giang. - Soạn thảo tiến trình dạy học ngoại khoá cho một số đơn vị kiến thức về dong điện không đổi trong chƣơng trình vật lý 11. - Tổ chức thực hiện, tổng kết và rút ra một số kết luận cần thiết. 6. PHẠM VI NGHIÊN CỨU - Nghiên cứu và tổ chức hoạt động ngoại khoá khi dạy một số kiến thức về dòng điện không đổi trong chƣơng trình vật lý 11 (THPT), nhằm phát huy tính tích cực và phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh. 7. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Nghiên cứu cơ sở lí luận phục vụ đề tài: nghiên cứu các tài liệu về tâm lí học, giáo dục học, lý luận dạy học vật lý, các tài liệu về tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. - Nghiên cứu thực tế dạy học ngoại khoá vật lí tại một số trƣờng THPT. - Tổ chức thực nghiệm sƣ phạm: thực hiện dạy học ngoại khoá một số nội dung đã chọn và đánh giá mức độ hoàn thành của luận văn so với mục đích nghiên cứu của đề tài. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 4
  6. 8. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN - Góp phần làm rõ hơn cơ sở lý luận của hoạt động ngoại khoá vật lí tại các trƣờng THPT. - Đề xuất đƣợc một số nội dung và hình thức dạy học ngoại khoá vật lí. - Có thể làm tài liệu tham khảo cho việc tổ chức hoạt động ngoại khoá vật lí. 9. CẤU TRÚC VÀ NỘI DUNG CỦA LUẬN VĂN Luận văn dự kiến đƣợc trình bày gồm 5 phần: Ngoài phần mở đầu, phần kết luận chung, phần tài liệu tham khảo. Phần nội dung gồm có 3 chƣơng: Chương1: Cơ sở lí luận của đề tài Chương 2: Tổ chức hoạt động ngoại khoá về "dòng điện khồng đổi" cho học sinh lớp 11 THPT nhằm phát huy tính tích cực và phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh Chương 3: Thực nghiệm sƣ phạm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 5
  7. NỘI DUNG CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Tổng quan về lĩnh vực nghiên cứu Hoạt động ngoại khoá là một hình thức dạy học có thể giúp học sinh có kết quả cao hơn trong học tập và góp phần hoàn thiện nhân cách cho các em. Chính vì vậy mà hoạt động ngoại khoá đã đƣợc chú trọng nghiên cứu và thực hiện ở nhiều nƣớc trên thế giới. Thậm chí nền giáo dục của nhiều nƣớc còn chủ trƣơng giảm thời lƣợng các giờ lên lớp và tăng cƣờng các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp và hoạt đông ngoại khoá. Công trình nghiên cứu gần đây của các nhà giáo dục Mĩ cho thấy: Những học sinh thƣờng xuyên tham gia vào các chƣơng trình hoạt động ngoài giờ lên lớp có chất lƣợng thƣờng đạt đƣợc thành tích học tập cao hơn, có hành vi đạo đức tốt hơn, có mối quan hệ và cảm xúc tốt hơn... Các hình thức hoạt động ngoại khoá của các trƣờng phổ thông của các nƣớc trên thế giới thƣờng tập trung chủ yếu vào các hoạt động nhƣ: trò chơi trí tuệ; câu lạc bộ nhạc, kịch, hội hoạ, thể thao; dã ngoại thực tế… Ở nƣớc ta, từ những năm 1960 khi xây dựng chƣơng trình giáo dục , Bộ giáo dục đã xác định rõ: ''Muốn thực hiện giáo dục và giáo dưỡng trong các môn học đạt kết quả đầy đủ thì ở nhà trường cần tổ chức ngoại khoá… Công tác ngoại khoá bổ sung và nâng cao chất lượng của nội khoá lên một bước''. Vật lí là một môn học bắt buộc ở trƣờng phổ thông của nƣớc ta hiện nay. Hoạt động ngoại khoá về vật lí cũng là một phần trong hoạt động ngoại khoá ở trƣờng phổ thông và đã đƣợc nghiên cứu từ lâu. Cho đến nay đã có nhiều đề tài nghiên cứu việc tổ chức hoạt động ngoại khoá về vật lí cho đối tƣợng học sinh phổ thông, nhƣ: Nguyễn Thúy Nga – năm 2001; Nguyễn Văn Ngà – năm 2001; Nguyễn Văn Phán – 2002; Phạm Tuyết Mai – 2002; Trần Hữu Phƣớc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 6
  8. (2007), Nghiên cứu việc tổ chức ngoại khóa về cơ học chất lưu chuyển động nhằm phát triển tính tích cực, sáng tạo của học sinh THPT, Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục; Trƣơng Đức Cƣờng (2007), Nghiên cứu xây dựng và tổ chức một số chủ đề ngoại khóa phần điện học lớp 12(THPT) nhằm góp phần giáo dục KTTH cho học sinh, Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục; Nguyễn Hƣơng Lan – 2007; Ngô Thị Bình (2009), Nghiên cứu việc tổ chức hoạt động ngoại khoá về Tĩnh học vật rắn ở lớp 10 THPT nhằm phát huy tính tích cực và phát triển năng lực sáng tạo của học sinh, Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục…nhƣng ở các phần khác nhau trong chƣơng trình vật lí và chƣa có đề tài nào nghiên cứu hoạt động ngoại khoá về “ Dòng điện không đổi ” ở lớp 11 THPT. Vì vậy chúng tôi quyết định chọn hƣớng đề tài này. 1.2. Một số nội dung về lí luận dạy học ở trƣờng phổ thông 1.2.1. Mục tiêu, nhiệm vụ, nguyên tắc dạy học ở nhà trƣờng PT * Mục tiêu giáo dục phổ thông Mục tiêu của giáo dục phổ thông đã đƣợc cụ thể hóa trong Luật giáo dục (2005) nhƣ sau: “ Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp HS phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam XHCN, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho HS tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.” * Nhiệm vụ quá trình dạy học Để đào tạo con ngƣời đủ phẩm chất và năng lực thỏa mãn yêu cầu xã hội, quá trình dạy học phải thực hiện các nhiệm vụ sau : Điều khiển, tổ chức HS nắm vững hệ thống tri thức phổ thông cơ bản, hiện đại, phù hợp với thực tiễn của đất nước về tự nhiên, xã hội – nhân văn, đồng thời rèn luyện cho họ hệ thống kỹ năng, kỹ xảo tương ứng . [2] Trong dạy học, phải tổ chức cho ngƣời học nắm vững hệ thống tri thức phổ thông cơ bản, phù hợp với thực tiễn đấ t nƣớc về tự nhiên, xã hội, tƣ duy. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 7
  9. Những tri thức khoa học phổ thông cơ bản đƣợc cung cấp cho ngƣời học phải là những tri thức phản ánh những thành tựu mới nhất của các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, văn hóa phù hợp với chân lý khách quan. Trên cơ sở đó hìn h thành ở ngƣời học hệ thống kỹ năng, kỹ xảo nhất định, đặc biệt là những kỹ năng, kỹ xảo có liên quan đến hoạt động học tập : tự học, tập dƣợt nghiên cứu khoa học ở mức độ thấp, nhằm giúp cho ngƣời học không chỉ nắm vững tri thức mà còn biết vận dụng tri t hức một cách linh hoạt, sáng tạo trong các tình huống khác nhau. Vì vậy, trong quá trình dạy học cần xác định các mức độ chiếm lĩnh tri thức của ngƣời học ở các trình độ khác nhau từ nhận biết, tái hiện đến tái tạo, tìm tòi và cuối cùng là khả năng kết hợp tất cả các mức độ trên. Tổ chức điều khiển người học hình thành phát triển năng lực và những phẩm chất trí tuệ, đặc biệt là năng lực tư duy, độc lập, sáng tạo, phát triển thể lực nâng cao sức khỏe để phục vụ học tập và lao động. [2] Trong quá trình dạy học, ngƣời GV cần chú ý phát triển ở HS các năng lực trí tuệ sau: năng lực định hƣớng đúng vấn đề nghiên cứu trong thực tế, năng lực tƣ duy trừu tƣợng, năng lực di chuyển hành động trí tuệ, dự đoán diễn biến của các hiện tƣợng, năng lực tổ chức lao động tr í óc một cách khoa học, năng lực tự học, năng lực hoạt động nhận thức độc lập, sáng tạo. Đứng trƣớc sự bùng nổ thông tin, khoa học công nghệ, việc hình thành cho HS năng lực tự học một cách độc lập, sáng tạo gữi vai trò hết sức quan trọng, nó là cơ sở để giúp con ngƣời có thể học tập thƣờng xuyên và học tập suốt đời. Bên cạnh việc phát triển các năng lực hoạt động trí tuệ, quá trình dạy học có nhiệm vụ bồi dƣỡng cho HS một số phẩm chất hoạt động trí tuệ cả về bề rộng, chiều sâu, tính độc lập, tính phê phán, tính mềm dẻo và tính năng động, tính khái quát của hoạt động trí tuệ… Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 8
  10. Nhƣ vậy, trong quá trình dạy học các phẩm chất của hoạt động trí tuệ nói riêng và trí tuệ nói chung không ngừng phát triển và hoàn thiện. Ngƣợc lại, sự phát triển trí tuệ trong chừng mực nhất định cũng ảnh hƣởng trở lại đối với chất lƣợng quá trình dạy học. Nhƣ vậy giữa dạy học và phát triển trí tuệ có mối quan hệ mật thiết với nhau, vì vậy dạy học cần đi trƣớc, đón trƣớc và thúc đẩy sự phát triển của ngƣời học. Muốn thúc đẩy sự phát triển trí tuệ của ngƣời học thì nói chung việc dạy học phải đảm bảo tính vừa sức với ngƣời học, các nhiệm vụ dạy học phải tƣơng thích với “vùng phát triển gần nhất ” [23] tạo điều kiện đòi hỏi ngƣời học phải không ngừng vƣơn lên với sự nỗ lực cao nhất. Để phát triển trí tuệ cho HS cần chú ý tới các điều kiện sau: + Nắm đƣợc đặc điểm của đối tƣợng, đặc biệt là trình độ nhận thức của đối tƣợng. + Có phƣơng pháp dạy học thích hợp nhằm phát huy trí thông minh của HS. + Lựa chọn nội dung dạy học một cách khoa học và hợp lý. Bên cạnh phát triển trí tuệ, qúa trình dạy học có nhiệm vụ chăm lo phát triển thể lực cho HS, giúp các em có sức khỏe để học tập và tham gia các hoạt động khác. Tổ chức điều khiển người học, hình thành phát triển thế giới quan khoa học, nhân sinh quan và các phẩm chất của người công dân, người lao động có bản lĩnh và bản nghĩa cộng đồng. [2] Để hình thành thế giới quan khoa học cho HS, q úa trình dạy học có nhiệm vụ tổ chức, điều khiển HS nắm vững hệ thống tri thức về tự nhiên, xã hội và tƣ duy…hình thành ở HS niềm tin về tính chân thực và hiệu quả của kiến thức, hình thành thái độ lành mạnh với thực tiễn, hình thành quan điểm sống tích cực. Trong qúa trình dạy học, GV cần giáo dục cho HS lý tƣởng, những phẩm chất nhân cách của con ngƣời mà xã hội đặt ra: yêu nƣớc, yêu chủ nghĩa xã hội, có lòng thƣơng ngƣời, có lòng tự trọng cao, có ý thức pháp luật, có tính chủ động trong cuộc sống… Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 9
  11. Giữa các nhiệm vụ dạy học có mối liên hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ nhau cùng thực hiện mục tiêu của qúa trình dạy học. Nhờ nắm vững kỹ năng, kỹ xảo mà năng lực tƣ duy sáng tạo của con ngƣời không ngừng đƣợc phát triển, sự phát triển của tƣ duy sẽ kèm theo sự phát triển của thế giới quan khoa học, nhân sinh quan và các phẩm chất đạo đức của con ngƣời từ đó hình thành con ngƣời mới đáp ứng yêu cầu của xã hội. * Nguyên tắc dạy học Nguyên tắc dạy học là hệ thống xác định những yêu cầu cơ bản, có tính chất xuất phát để chỉ đạo việc xác định nội dung, phƣơng pháp và hình thức dạy học phù hợp với mục đích giáo dục, nhiệm vụ d ạy học và với những tính quy luật của quá trình dạy học... [2] Hệ thống các nguyên tắc dạy học bao gồm : - Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính khoa học và tính giáo dục trong dạy học. - Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, học đi đôi với hành, nhà trƣờng gắn liền với đời sống. - Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống và tính tuần tự trong dạy học. - Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính tự giác, tính tích cực, tính độc lập, sáng tạo của HS và vai trò chủ đạo của GV trong quá trì nh dạy học. - Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa tính trực quan với sự phát triển tƣ duy lý thuyết. - Nguyên tắc đảm bảo tính vững chắc và sự phát triển năng lực nhận thức của HS. - Nguyên tắc đảm bảo tính vừa sức và chú ý tới đặc điểm lứa tuổi, đặc điể m cá biệt và tính tập thể trong quá trình dạy học. - Nguyên tắc đảm bảo tính cảm xúc tích cực của dạy học. - Nguyên tắc chuyển từ dạy học sang tự học. 1.2.2. Các vấn đề chung về hình thức tổ chức dạy học ở trƣờng PT Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 10
  12. Hình thức tổ chức dạy học là toàn bộ nhữ ng cách thức tổ chức hoạt động của GV và HS trong quá trình dạy học, ở thời gian và địa điểm nhất định với những phƣơng pháp, phƣơng tiện dạy học cụ thể nhằm thực hiện những nhiệm vụ dạy học. Hình thức dạy học khác nhau chủ yếu tùy theo mối quan hệ giữa việc dạy học có tính tập thể hay có tính cá nhân, mức độ tính tự lực hoạt động nhận thức của HS, sự chỉ đạo chuyên biệt của GV đối với hoạt động học tập của HS, chế độ làm việc, thành phần HS, địa điểm và thời gian học tập. Trong thực tế dạy học, ngƣời ta phân biệt 3 dạng tổ chức dạy học: dạng toàn lớp, dạng nhóm, dạng cá nhân. * Các dạng tổ chức dạy học cơ bản [15], [9] + Dạng toàn lớp: Là dạng trong đó, mỗi HS đồng thời hoàn thành những nhiệm vụ nhận thức chung. - Ưu điểm: GV có thể lãnh đạo đồng thời mọi HS, tích cực điều khiển việc lĩnh hội tri thức, việc ôn tập và củng cố tri thức cho toàn lớp. - Nhược điểm: GV khó chú ý đến đặc điểm cá nhân, đặc biệt là đến tốc độ hoạt động và trình độ hoạt động nhận thức của mỗi học sinh. + Dạng nhóm: Là dạng trong đó, từng nhóm HS cùng giải quyết những nhiệm vụ nhận thức thống nhất. Các em có thể cùng thảo luận các nhiệm vụ nhận thức, vạch ra con đƣờng và giải quyết các nhiệm vụ đó, cuối cùng đạt đến kết quả chung. - Ưu điểm: Giáo viên có thể chú ý tới những nhu cầu r iêng của từng nhóm HS, có thể mở ra khả năng rộng rãi để HS hợp tác hoạt động với nhau cũng nhƣ để kiểm tra lẫn nhau. - Nhược điểm: Những cá nhân HS nào đó do học tập thụ động có thể sử dụng những kết quả mà những HS khá thu đƣợc. Mặt khác, nó còn có thể làm nẩy sinh mâu thuẫn giữa những yêu cầu của GV và mức độ tích cực của cá Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 11
  13. nhân HS riêng biệt, những yêu cầu do GV nêu ra hoặc khó quá, hoặc quá dễ so với trình độ của từng HS. + Dạng cá nhân: Là dạng mà mỗi HS độc lập hoàn thành nhiệm vụ học tập theo trình độ và khả năng riêng của mình, không có sự tác động của bạn bè. - Ưu điểm: Phù hợp với mức độ cao nhất những đặc điểm cá nhân HS về trình độ nhận thức, tốc độ làm việc. Dạng này tạo điều kiện thuận lợi cho mỗi cá nhân phát huy hết tiềm năng của mình, rèn luyện năng lực nhận thức độc lập. Mặt khác, đối với GV về mặt giảng dạy có thể cá biệt hóa cao độ trong việc đƣa ra nhiệm vụ nhận thức, kiểm tra và đánh giá kết quả học tập của HS. - Nhược điểm: Dễ làm mất nhiều thời gian, đòi hỏi GV mất nhiều công sức, không có tác động qua lại, giúp đỡ lẫn nhau giữa các cá nhân HS. Tóm lại, mỗi dạng tổ chức dạy học đều có những ƣu điểm và nhƣợc điểm riêng. Thực tiễn dạy học đã khẳng định rằng, muốn phát huy cao độ tác dụng của chúng, GV cần khéo léo sử dụng kết phối hợp c ác dạng tổ chức dạy học một cách hiệu quả. Các dạng tổ chức dạy học này đƣợc thực hiện thông qua các hình thức dạy học cụ thể. * Các hình thức tổ chức dạy học ở trường PT Để thực hiện đƣợc những nhiệm vụ dạy học ở trƣờng phổ thông, hoạt động dạy học đƣợc tổ chức dƣới nhiều hình thức khác nhau. Đối với thực tiễn dạy học ở nƣớc ta, quá trình dạy học đƣợc thực hiện bởi nhiều hình thức, có thể kể đến một số hình thức sau: hình thức bài lên lớp (lớp – bài), hình thức học ở nhà, hình thức hoạt động ngoại khóa ( tham quan, thảo luận và xêmina…), hình thức giúp đỡ riêng... [15] Hình thức lớp – bài: Đây là hình thức dạy học cơ bản, là hình thức giáo viên lên lớp trình bày nội dung kiến thức của một tiết, bài. Hình thức học ở nhà: Với hình thức này, HS có thể làm đƣợc rất nhiều công việc nhƣ học bài, làm bài, làm thí nghiệm, đọc sách tham khảo, chuẩn bị bài mới… Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 12
  14. Hình thức hoạt động ngoại khóa: Với hình thức này, HS có thể tham quan học tập, tổ chức thảo luận theo chuyên đề, tổ chức các buổi dạ hội…hình thức này còn ít đƣợc tiến hành tại các trƣờng phổ thông. Hình thức giúp đỡ riêng: Trong quá trình dạy học, tất yếu sẽ có sự phân hóa về trình độ nhận thức và sẽ xuất hiện hai loại HS: Yếu – kém, khá - giỏi mà việc dạy học đƣợc tiến hành trên cơ sở trình độ chung khôn g thỏa mãn hai loại học sinh này. 1.3. Các nhiệm vụ cơ bản của dạy học vật lí ở trƣờng phổ thông Căn cứ vào mục tiêu chung của hệ thống giáo dục quốc dân và đặc điểm riêng của bộ môn vật lý, việc dạy học vật lý ở trƣờng phổ thông có các nhiệm vụ sau: [17] * Trang bị cho HS hệ thống những kiến thức phổ thông, cơ bản, ở mức độ hiện đại, bao gồm: các hiện tƣợng vật lý, các khái niệm vật lý, các định luật vật lí cơ bản, nội dung chính của các thuyết vật lí, các ứng dụng quan trọng nhất của vật lý trong đời sống và trong sản xuất, các phƣơng pháp nhận thức phổ biến dùng trong vật lí. * Phát triển tƣ duy khoa học ở HS: rèn luyện những thao tác, hành động, phƣơng pháp nhận thức cơ bản, nhằm chiếm lĩnh kiến thức vật lí, vận dụng sáng tạo để giải quyết vấn đề trong học tập và hoạt động thực tiễn sau này. * Trên cơ sở kiến thức vật lí vững chắc, có hệ thống, bồi dƣỡng cho HS thế giới quan duy vật biện chứng, giáo dục lòng yêu nƣớc, thái độ đối với lao động, đối với cộng đồng và những đức tính khác của ngƣời lao động. * Góp phần giáo dục kỹ thuật tổng hợp và hƣớng nghiệp cho HS, làm cho HS nắm đƣợc những nguyên lý cơ bản về cấu tạo và hoạt động của các máy móc dùng phổ biến trong nền kinh tế quốc dân. Có kỹ năng sử dụng những dụng cụ vật lý, đặc biệt là những dụng cụ đo lƣờng, kỹ năng lắp ráp các thiết bị để thực hiện thí nghiệm vật lí, vẽ biểu đồ, sử lý các số liệu đo đạc để rút ra kết luận. Những kiến thức, kỹ năng đó giúp cho HS sau này nhanh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 13
  15. chóng thích ứng đƣợc với lao động sản xuất trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc. Những nhiệm vụ trên không thể tách rời nhau mà luôn luôn gắn liền với nhau, hỗ trợ lẫn nhau, góp phần đào tạo ra những con ngƣời phát triển hài hòa, toàn diện. 1.4. Phát huy tính tích cực và phát triển năng lực sáng tạo của học sinh trong dạy học vật lí Hình thức dạy học ngoại khoá có thể tạo nhiều điều kiện cho học sinh phát huy đƣợc tính tích cực và phát triển năng lực sáng tạo của mình. Để đánh giá đƣợc hiệu quả của hoạt động ngoại khoá trong việc phát huy tính tích cực và phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh thì chúng ta cần phải nghiên cứu những đặc điểm và biểu hiện của chúng trong quá trình học sinh hoạt động. 1.4.1. Tính tích cực của học sinh trong hoạt động học tập [23], [17] * Khái niệm về tính tích cực của học sinh trong học tập Tính tích cực trong học tập là một hiện tƣợng sƣ phạm biểu hiện ở sự cố gắng cao về nhiều mặt trong học tập. Học tập là một trƣờng hợp riêng của nhận thức “một sự nhận thức làm cho dễ dàng đi và đƣợc thực hiện dƣới sự chỉ đạo của giáo viên” (P.N.Erddơniev, 1974). Vì vậy, nói tới tích cực học tập thực chất là nói đến tích cực nhận thức. Tính tích cực nhận thức là trạng thái hoạt động nhận thức của học sinh, đặc trƣng ở khát vọng học tập, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình nắm vững kiến thức. * Các biểu hiện của tính tích cực trong học tập Tính tích cực của học sinh trong học tập biểu hiện qua các hành động cụ thể nhƣ: - Học sinh sẵn sàng, hồ hởi đón nhận các nhiệm vụ mà giáo viên giao cho. - Học sinh tự nguyện tham gia vào các hoạt động học tập. - Học sinh tự giác thực hiện các nhiệm vụ mà mình đã nhận mà không cần phải để giáo viên đôn đốc, nhắc nhở. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 14
  16. - Học sinh yêu cầu đƣợc giải đáp thắc mắc về những lĩnh vực còn chƣa rõ. - Học sinh mong muốn đƣợc đóng góp ý kiến với giáo viên, với bạ n bè những thông tin mới mẻ hoặc những kinh nghiệm có đƣợc ngoài sách vở, từ những nguồn khác nhau. - Học sinh tận dụng thời gian rỗi của mình để cố gắng hoàn thành công việc, hoặc hoàn thành công việc sớm hơn thời hạn hoặc xin nhận thêm nhiệm vụ... - Học sinh thƣờng xuyên trao đổi, tranh luận với bạn bè để tìm phƣơng án giải quyết vấn đề, mong muốn đƣợc giáo viên giúp đỡ, chỉ dẫn mà không nản chí khi gặp khó khăn. Ngoài ra, tính tích cực của học sinh trong hoạt động học tập cũng nhƣ trong hoạt động ngoại khoá còn có thể nhận thấy trong biểu hiện về mặt ý chí, nhƣ: sự tập trung vào vấn đề đang nghiên cứu, kiên trì theo đuổi mục tiêu, không nản chí trƣớc những khó khăn hoặc thái độ phản ứng trong những buổi học, buổi hoạt động nhóm là hào hứ ng, sôi nổi hay chán nản. * Các cấp độ của tính tích cực học tập Có thể phân biệt tính tích cực ở ba cấp độ khác nhau nhƣ sau: + Cấp độ 1 – bắt chƣớc: Học sinh tích cực bắt chƣớc hoạt động của giáo viên và của bạn bè. Trong hành động bắt chƣớc cũng phải có sự cố gắng của thần kinh và cơ bắp. + Cấp độ 2 – tìm tòi: Học sinh tìm cách độc lập giải quyết vấn đề, thử nhiều cách khác nhau để giải quyết hợp lí vấn đề. + Cấp độ 3 – sáng tạo: Học sinh nghĩ ra cách giải quyết mới độc đáo hoặc cấu tạo những nhiệm vụ mới, bài tập mới ha y những thí nghiệm mới để chứng minh bài học. Những biểu hiện và các cấp bậc của tính tích cực trong học tập của học sinh nêu trên chính là những căn cứ để chúng tôi đánh giá hiệu quả của quy trình hoạt động ngoại khóa về “Dòng điện không đổi” đối với việc phát huy tính tích cực của học sinh trong thực nghiệm sƣ phạm. 1.4.2. Năng lực sáng tạo của học sinh trong hoạt động học tập Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 15
  17. * Khái niệm năng lực sáng tạo “Sáng tạo là một hoạt động mà kết quả của nó là một sản phẩm tinh thần hay vật chất có tính đổi mớ i, có ý nghĩa xã hội, có giá trị” (Sáng tạo, Bách khoa toàn thƣ Liên Xô. Tập 42, trang 54) Năng lực sáng tạo có thể hiểu là khả năng tạo ra những giá trị mới về vật chất hoặc tinh thần, tìm ra cái mới, giải pháp mới, công cụ mới, vận dụng thành công những hiểu biết đã có vào hoàn cảnh mới. Nhƣ vậy, sản phẩm của sự sáng tạo không thể suy ra từ cái đã biết bằng cách suy luận lôgic hay bắt chƣớc làm theo mà nó là sản phẩm của tƣ duy trực giác. Năng lực sáng tạo gắn liền với kĩ năng, kĩ xảo và vốn hiểu biết của chủ thể. Trong bất cứ lĩnh vực hoạt động nào, nếu chủ thể hoạt động càng thành thạo và có vốn hiểu biết sâu rộng thì càng nhạy bén trong dự đoán, đề ra đƣợc nhiều dự đoán, nhiều phƣơng án để lựa chọn, càng tạo điều kiện cho trực giác phát triển. Bởi vậy, muốn rèn luyện năng lực sáng tạo thì nhất thiết không thể tách rời, độc lập với học tập kiến thức về một lĩnh vực nào đó. * Đặc điểm của sự sáng tạo [35], [33] Sự sáng tạo xuất hiện trong quá trình tƣ duy trực giác. Trong sáng tạo, tri thức đƣợc thu nhận một cách nhảy vọt, một cách trực tiếp, các giai đoạn của nó không thể hiện một cách minh mạch và ngƣời suy nghĩ không thể chỉ ngay ra làm thế nào mà họ đi đến đƣợc quyết định đó, con đƣờng đó vẫn chƣa nhận thức đƣợc, phải sau này mới xác lập đƣợc lôgic của phỏng đoán trực giác đó. Tƣ duy trực giác thể hiện nhƣ một quá trình ngắn gọn, chớp nhoáng mà ta không thể nhận biết đƣợc diễn biến. H.Poimcarê nói: “Lôgic là chứng minh, còn trực giác thì sáng tạo” Đặc trƣng tâm lí quan trọng của hoạt động sáng tạo là tính chất hai mặt chủ quan và khách quan: chủ quan theo quan điểm của ngƣời nhận thức mà trong đầu học đang diễn ra quá trình sáng tạo và khách quan theo quan điểm của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 16
  18. ngƣời nghiên cứu cái quá trình sáng tạo đó xem nhƣ một quá trình diễn ra có quy luật, tác động qua lại giữa ba thành tố là tự nhiên, ý thức con ngƣời và sự phản ánh tự nhiên vào ý thức con ngƣời. Đối với ngƣời sáng tạo thì tính mới mẻ, tính bất ngờ, tính ngẫu nhiên của phỏng đoán đều là chủ quan. Đối với các nhà khoa học thì chỉ những phát minh mà loài ngƣời chƣa từng biết đến mới đƣợc coi là sự sáng tạo. Còn đối với học sinh thì sáng tạo là tạo ra cái mới đối với bản thân mình, chứ giáo viên và nhiều ngƣời khác có thể đã biết rồi. Bởi vậy hoạt động sáng tạo của học sinh mang ý nghĩa là một hoạt động tập dƣợt sáng tạo hay sáng tạo lại. Điều quan trọng cần đạt đƣợc không phải là những sản phẩm sáng tạo mà là khả năng sáng tạo của họ, khả năng này sẽ luôn đƣợc học sinh sử dụng trong hoạt động thực tiễn sau này kể cả khi kiến thức mà họ thu nhận đƣợc đã bị quên. * Các biểu hiện của sự sáng tạo trong học tập vật lí Những hành động của học sinh trong học tập có mang tính sáng tạo cụ thể nhƣ sau: - Từ những kinh nghiệm thực tế, từ các kiến thức đã có, học sinh nêu đƣợc giả thuyết. Trong chế tạo dụng cụ thí nghiệm thì học sinh đƣa ra đƣợc các phƣơng án thiết kế, chế tạo dụng cụ và cùng một thí nghiệm có thể đƣa ra đƣợc nhiều cách chế tạo khác nhau. Đề xuất đƣợc những sáng kiến kĩ thuật để thí nghiệm chính xác hơn, dụng cụ bền đẹp hơn,… - Học sinh đƣa ra dự đoán kết quả các thí nghiệm, dự đoán đƣợc phƣơng án nào chính xác nhất, phƣơng án nào mắc sai số, vì sao? - Đề xuất đƣợc những phƣơng án dùng những dụng cụ thí nghiệm đã chế tạo để làm thí nghiệm để kiểm tra dự đoán và kiểm nghiệm lại lí thuyết đã học. - Vận dụng kiến thức lí thuyết đã học vào thực tế một cách linh hoạt nhƣ giải thích một số hiện tƣợng vật lí, giải thích kết quả thí nghiệm hoặc các ứng dụng của vật lí trong kĩ thuật có liên quan. Những biểu hiện của sự sáng tạo của học sinh trong học tập nhƣ nêu trên cũng sẽ là những căn cứ để chúng tôi đánh giá hiệu quả của hoạt động Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 17
  19. ngoại khóa về “Dòng điện không đổi - lớp 11” đối với việc phát triển năng lực sáng tạo của học sinh trong quá trình thực nghiệm sƣ phạm. 1.5. Vị trí, tác dụng của hoạt động ngoại khóa trong hệ thống các hình thức tổ chức dạy học ở trƣờng phổ thông Để hoàn thành tốt mục tiêu giảng dạy của môn học, đặc biệt là mục tiêu giảng dạy về rèn luyện năng lực sáng tạo và mục tiêu về thái độ tích cực trong học tập của học sinh thì giáo viên vật lí cần phải phối hợp một cách khéo léo các hoạt động học tập trong nội khóa và ngoại khóa cho học sinh. Hoạt động ngoại khóa vật lí là một trong những hoạt động ngoài giờ lên lớp có tổ chức, có kế hoạch, có phƣơng hƣớng xác định, đƣợc học sinh t iến hành theo nguyên tắc tự nguyện ở ngoài giờ nội khóa dƣới sự hƣớng dẫn của giáo viên vật lí nhằm gây sự hứng thú và phát triển tƣ duy, rèn luyện kĩ năng, bổ sung và mở rộng kiến thức vật lí. Nó có tác dụng to lớn về cả ba mặt mục tiêu dạy học: giáo dƣỡng, giáo dục và giáo dục kĩ thuật tổng hợp. Để vận dụng có hiệu quả hình thức dạy học tổ chức hoạt động ngoại khóa vật lí cho học sinh thì giáo viên cần phải hiểu rõ tác dụng và vị trí của hình thức dạy học này. 1.5.1. Vị trí của hoạt động ngoại khóa trong hệ thống các hình thức tổ chức dạy học ở trường phổ thông [12] Nhà trƣờng phổ thông có ba hình thức tổ chức đào tạo là: Dạy học trên lớp, giáo dục lao động kĩ thuật tổng hợp và hƣớng nghiệp dạy nghề và công tác giáo dục ngoài giờ lên lớp. Công tác giáo dục ngoài giờ lên lớp bao gồm các hoạt động rộng rãi trong các lĩnh vực: Xã hội – chính trị, văn hóa – khoa học, nghệ thuật, thể dục thể thao, quốc phòng. Công tác ngoại khóa nói chung và công tác ngoại khóa vật lí nói riêng thuộc lĩnh vực thứ hai của toàn bộ công tác giáo dục ngoài giờ lên lớp ở trƣờng phổ thông. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 18
  20. 1.5.2. Tác dụng của hoạt động ngoại khóa vật lí Hoạt động ngoại khóa vật lí nói riêng và hoạt động ngoại khóa nói chung có vai trò rất quan trọng trong công tác giáo dục ở nhà trƣờng phổ thông, góp phần nâng cao chất lƣợng giáo dục trên tất cả các mặt, cụ thể là: + Về mặt nhận thức: Hoạt động ngoại khóa giúp học sinh củng cố, đào sâu, mở rộng những tri thức đã học trong nội khóa; giúp cho học sinh vận dụng đƣợc những kiến thức đó vào giải quyết những vấn đề thực tiễn trong cuộc sống, gắn lí thuyết với thực tiễn, thấy đƣợc những ứng dụng của kiến thức đã đƣợc học trong đời sống và kĩ thuật. + Về mặt rèn luyện kĩ năng: Hoạt động ngoại khóa giúp cho học sinh đƣợc rèn luyện chế tạo dụng cụ thí nghiệm, kĩ năng tiến hành thí nghiệm, kĩ năng giải quyết vấn đề; rèn luyện kĩ năng làm việc theo nhóm, kĩ năng tự tổ chức, kĩ năng tự quản lí, kĩ năng điều khiể n hoạt động nhóm. Ngoài ra, hoạt động ngoại khóa còn giúp học sinh phát triển kĩ năng giao tiếp, rèn luyện ngôn ngữ và kĩ năng phát biểu trƣớc đám đông. + Về mặt giáo dục tinh thần, thái độ làm việc: Hoạt động ngoại khóa kích thích sự hứng thú học tập, khơi dậy lòng ham hiểu biết, lôi cuốn học sinh tự giác tham gia một cách nhiệt tình vào các hoạt động, phát hu y tính tích cực, tự lực của học sinh. Ngoài ra, hoạt động ngoại khóa còn góp phần phát triển năng lực tƣ duy nhƣ tƣ duy lôgic, tƣ duy trừu tƣợng và đặc biệt là năng lực tƣ duy sáng tạo cho học sinh. Tóm lại, hoạt động ngoại khóa có mục đích bao trùm là hỗ trợ cho dạy học nội khóa, giúp phát triển và hoàn thiện nhân cách ngƣời học. Đặc biệt, hoạt động ngoại khóa góp phần quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực có tính tích cực, tự lực cao và có khả năng sáng tạo tốt trong công việc, đáp ứng đƣợc yêu cầu của nền giáo dục nƣớc ta trong giai đoạn hiện nay. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 19
nguon tai.lieu . vn