Xem mẫu

  1. LUẬN VĂN: Nghiên cứu công tác xây dựng Tổ Chức Cơ Sở Đảng ở nông thôn tỉnh Hưng Yên
  2. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tổ chức cơ sở Đảng (TCCSĐ) - Chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở là nền tảng của Đảng, là hạt nhõn chớnh trị lónh đạo mọi mặt ở cơ sở. TCCSĐ có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc lónh đạo, tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng ở cơ sở và góp phần hoàn thiện đường lối của Đảng. Coi trọng xây dựng và nâng cao năng lực lónh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ là nội dung cơ bản, là vấn đề có tính quy luật trong xây dựng, đổi mới và chỉnh đốn Đảng của Đảng ta. Để đáp ứng với tỡnh hỡnh và nhiệm vụ phỏt triển kinh tế xó hội trong giai đoạn mới, ngày 6-11-1996, Quốc hội khoá IX kỳ họp thứ X đó ra Nghị quyết chia tỉnh Hải Hưng thành hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên. Ngày 1-1-1997, tỉnh Hưng Yên chính thức được tái lập sau 29 năm hợp nhất với tỉnh Hải Dương. Tỉnh Hưng Yên có diện tích đất tự nhiên 894,79km2, dân số 1.075.517 người, với 6 đơn vị hành chớnh cấp huyện gồm: Thị xó Hưng Yên và các huyện Mỹ Văn, Châu Giang, Phù Tiên, Kim Động, Ân Thi. Cùng với việc tái lập tỉnh; Bộ Chính trị đó ra quyết định thành lập Đảng bộ tỉnh Hưng Yên và chỉ định Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ tỉnh gồm 36 đồng chí, có 11 đồng chí trong Ban Thường vụ, đồng chí Đặng Văn Cảo được chỉ định làm Bí thư tỉnh uỷ. Trong bộn bề cụng việc của một tỉnh mới tỏi lập, thỡ vấn đề nâng cao năng lực lónh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh là một trong những nhiệm vụ có tầm quan trọng đặc biệt, quyết định thắng lợi công cuộc đổi mới của Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh. Sau hơn 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới, tiến hành đổi mới và chỉnh đốn Đảng, nhiều TCCSĐ nông thôn trong tỉnh Hải Hưng (tỉnh hợp nhất) đó vươn lên thích ứng dần với cơ chế mới, lónh đạo kinh tế - xó hội nụng thụn phỏt triển, đạt được nhiều thành quả. Số TCCSĐ trong sạch vững mạnh tăng lên đáng kể. Tuy nhiên số TCCSĐ yếu kém vẫn cũn khụng ớt, nhiều TCCSĐ hoạt động kém hiệu quả. Nghiên cứu công tác xây dựng TCCSĐ ở nông thôn tỉnh Hưng Yên trong những năm đầu tái lập, góp phần làm sáng tỏ những chủ trương của Đảng bộ, quá trỡnh tổ chức thực hiện, nờu rừ những thành tựu, hạn chế và một số kinh nghiệm chủ yếu trong lónh
  3. đạo của Đảng bộ; nhằm góp phần làm sáng tỏ hơn hoạt động lónh đạo của Đảng bộ, vỡ vậy tụi chọn vấn đề này làm đề tài luận văn cao học chuyên ngành Lịch sử Đảng. 2. Tỡnh hỡnh nghiờn cứu đề tài Những quan điểm, chủ trương, biện pháp lớn để nâng cao năng lực lónh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng ở nông thôn đó được thể hiện qua các văn kiện của Đảng. Đó cú nhiều cỏ nhõn và cơ quan khoa học chọn vấn đề tổ chức cơ sở Đảng nông thôn làm đề tài nghiên cứu khoa học, khai thác từ những khía cạnh khác nhau. Trong đó có nhiều đề tài cấp Bộ, đề tài luận án Tiến sĩ, Thạc sĩ ... được nghiên cứu dưới góc độ Xây dựng Đảng như: - Lê Văn Phụ (1993): Công tác tư tưởng của tổ chức cơ sở Đảng đối với quần chúng theo đạo Thiên chúa (Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, chuyên ngành Xây dựng Đảng). - Đỗ Ngọc Ninh (1995): Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đảng nông thôn (cấp xó) vựng đồng bằng sông Hồng (Luận án Tiến sĩ Lịch sử, chuyên ngành Xây dựng Đảng). - Viện Mác - Lênin (1995): Vấn đề xây dựng Đảng ở một số vùng có đồng bào theo đạo Thiên chúa ở miền Bắc hiện nay (Đề tài khoa học cấp Bộ). - Nguyền Đức Ái (2000): Năng lực lónh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng nông thôn vùng cao phía Bắc trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước (Luận án Tiến sĩ Lịch sử, chuyên ngành Xây dựng Đảng). - Bùi Đức Nhẫn (2001): Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đảng vùng có đồng bào theo đạo Công giáo ở tỉnh Phú Thọ hiện nay (Luận văn Thạc sĩ Tôn giáo). Những kết quả nghiên cứu, thông tin tư liệu từ những tài liệu nói trên đó gúp phần từng bước làm sỏng tỏ cả về lý luận và thực tiễn vấn đề tổ chức cơ sở Đảng ở nông thôn. Tuy nhiên từ góc độ Lịch sử Đảng chưa có nhiều công trỡnh nghiờn cứu về xõy dựng tổ chức cơ sở Đảng. Đối với tỉnh Hưng Yên, trong thời kỳ đổi mới chưa có công trỡnh nào nghiờn cứu về tổ chức cơ sở Đảng dưới góc độ khoa học Lịch sử Đảng. Tiếp thu những kết quả nghiên cứu trên, luận văn đi sâu nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống và toàn diện vấn đề Công tác tổ chức cơ sở Đảng ở nông thôn tỉnh Hưng Yên từ năm 1997 đến năm 2005. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
  4. 3.1. Đối tượng nghiên cứu: Các tổ chức cơ sở đảng nông thôn tỉnh Hưng Yên những năm đầu tái lập. 3.2. Phạm vi nghiên cứu: Công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn tỉnh Hưng Yên từ năm 1997 đến năm 2005. 4. Mục đích và nhiệm vụ 4.1. Mục đích: Góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn tỉnh Hưng Yên trong những năm đầu tái lập, nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị - kinh tế - xã hội – quốc phòng an ninh của tỉnh trong giai đoạn hiện nay. 4.2. Nhiệm vụ của luận văn - Đánh giá đúng thực trạng, những chủ trương và quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên về xây dựng tổ chức cơ sở đảng từ 1997 - 2005. - Góp phần làm rõ những thành tựu, hạn chế trong công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn tỉnh Hưng Yên. - Nêu lên một số kinh nghiệm chủ yếu trong công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng của tỉnh trong những năm đầu mới tái lập. 5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn - Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về tổ chức cơ sở đảng. - Kế thừa những công trình, thành tựu nghiên cứu về xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn. Thực tiễn hoạt động xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn tỉnh Hưng Yên dựa trên kết quả điều tra thực tế thu thập tư liệu ở một số tổ chức cơ sở đảng của tỉnh. 5.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin kêt hơp chặt chẽ giữa lôgíc và lịch sử,phân tích tổng hợp, điều tra xã hội học, kết hợp nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn. 6. Đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
  5. - Cung cấp căn cứ khoa học cho quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng TCCSĐ ở nông thôn. - Góp phần làm sáng tỏ thêm những chủ trương và quá trình tổ chức chỉ đạo của Tỉnh uỷ về công tác xây dựng TCCSĐ ở nông thôn tỉnh Hưng Yên. - Bước đầu nêu lên một số kinh nghiệm chủ yếu trong công tác xây dựng TCCSĐ. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn chia làm 3 chương, 8 tiết.
  6. Chương 1 CÔNG TÁC XÂY DỰNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG Ở NÔNG THÔN TỈNH HƯNG YÊN TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU TÁI LẬP TỈNH (1997-2000) 1.1. ĐẶC ĐIỂM TèNH HèNH KINH TẾ - XÃ HỘI NễNG THễN TỈNH HƯNG YÊN VÀ THỰC TRẠNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG NHỮNG NĂM ĐẦU TÁI LẬP Hưng Yên là tỉnh nằm ở tả ngạn sông Hồng, thuộc châu thổ đồng bằng Bắc Bộ, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và tam giác tăng trưởng Hà Nội – Hải Phũng – Quảng Ninh. Hưng Yên nằm trong toạ độ 20°36’ và 21 vĩ độ bắc,105°53’ và 106°15’ kinh độ Đông. Phía Bắc liền kề với thủ đô Hà Nội và tỉnh Bắc Ninh, phía Nam giáp tỉnh Thái Bỡnh, phía Đông giáp tỉnh Hải Dương, phía Tây gíap tỉnh Hà Tây và Hà Nam. Đây là một vùng đất phù sa màu mỡ, đậm nét truyền thống văn hoá và lịch sử lâu đời. Hưng Yên là một tỉnh nông nghiệp, một miền quê mang những nét đặc trưng của nông thôn Việt Nam vùng đồng bằng Bắc Bộ. Hưng Yên có diện tích đất tự nhiên 894.79km2, với địa hỡnh chênh chếch từ Tây Bắc xuống Đông Nam và không thật sự bằng phẳng. Là tỉnh có độ cao trung bỡnh so với mặt nước biển là 4m, nơi cao nhất là xó Thiện Phiến (Tiên Lữ) + 8m80, nơi thấp nhất là xó Hạ Lễ (Ân Thi) + 2m40, địa hỡnh trên ảnh hưởng trực tiếp đến việc canh tác, trước kia thường xuyên xảy ra hạn hán, úng ngập, vùng cao không giữ được nước, trong khi vùng thấp không tiêu được nước trong mùa mưa. Hiện nay Hưng Yên đó xây dựng hệ thống thuỷ lợi dày đặc để kịp thời giải quyết những khó khăn do địa hỡnh gây ra,đảm bảo cho việc sản xuất quanh năm, hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại do hạn hán, úng lụt. Toàn tỉnh có 61.037 ha đất nông nghiệp, đất trồng cây 55.645 ha (chiếm 91%), cũn lại là đất trồng cây lâu năm và mặt nước nuôi trồng thuỷ sản. Đất chưa sử dụng khoảng 7.471 ha, toàn bộ diện tích trên đây đều có khả năng khai thác và phát triển nông nghiệp. Cũng như các tỉnh khác thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, Hưng Yên chịu ảnh hưởng sâu sắc của khi hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, nhiều nắng và có mùa Đông lạnh,
  7. hàng năm có hai mùa rừ rệt. Nhiệt độ trung bỡnh hàng năm 23,2°c nhiệt độ trung bỡnh mùa hè 25°c, mùa đông là 16°c, lượng mưa trung bỡnh từ 1.450 – 1.650 mm, (tháng 5 đến tháng 10) chiếm tới 70% lượng mưa cả năm. Cùng với đất đai, điều kiện khí hậu và thời tiết như vậy thuận lợi cho việc trồng trọt và chăn nuôi nhiều loại cây, con có nguồn gốc nhiệt đới và cận nhiệt đới. Tuy nhiên khí hậu ở đây cũng có những mặt không thuận lợi, nhất là những diễn biến bất thường gây trở ngại cho sản xuất và đời sống. Về giao thông, ngoài tuyến đường sắt Hà Nội – Hải Phũng và quốc lộ 5A, 39A, 39B, 38 chạy qua, Hưng Yên có mạng lưới đường thuỷ, đường bộ khá thuận lợi, đặc biệt tháng 5 năm 2004 đó khánh thành cầu Yên Lệnh nối hai tỉnh Hưng Yên và Hà Nam. Về đường bộ quốc lộ 5A chạy qua địa phận Hưng Yên dài 23km. Đường 39A từ Phố nối qua Yên mỹ, Khoái Châu, Kim Động tới thị xó Hưng Yên, qua cầu Triều Dương sang Thái Bỡnh. Đường 39B bắt đầu từ phường Hiến Nam (thị xó Hưng Yên) đi qua Tiên Lữ, Phù Cừ tới cầu Tràng sang Hải Dương. đường 38 xuất phát từ thị xó Bắc Ninh đến Quán Gỏi (Hải Dương) qua thị trấn Ân Thi đến Trương Xá (Kim Động) nối với đường 39A, đi thị xó Hưng Yên qua cầu Yên Lệnh đến Đồng Văn (Hà Nam) thông quốc lộ 1A (tuyến Bắc - Nam quan trọng nhất của cả nước). Đường 200 từ Giai Phạm (Yên Mỹ) qua thị trấn Ân Thi tới thị trấn Vương tới Hải Triều (Tiên Lữ) gặp đê sông Luộc và đường 39A. Đó là chưa kể các đường: 99, 179, 195, 199, 201, 102, 104, 105, 206, và hàng tr ăm km đường đê đó liên kết các xó huyện trong tỉnh và hỡnh thành tuyến đường ngắn nhất qua địa bàn Hưng Yên, nối với quốc lộ 5A ra thành phố Hải Phũng và Quảng Ninh nhằm tạo sự giao lưu kinh tế giữa Hưng Yên với các tỉnh, đồng thời góp phần giải toả mật độ giao thông cao cho thủ đô Hà Nội. Về đường sông Hưng yên có mạng lưới sông ngũi khá dày đặc vói ba hệ thống sông lớn chảy qua: Sông Đuống, sông Hồng, sông Luộc - những đường sông chính của Hưng Yên. Bên cạnh đó, Hưng Yên có hệ thống sông nội địa như: sông Cửu An, sông Kẻ Sặt, sông Hoan Ái, sông Nghĩa Trụ, sông Điện Biên, sông Kim Sơn... là điều kiện thuận lợi không chỉ cho sản xuất nông nghiệp mà cũn cho sự phát triển công nghiệp, sinh hoạt và giao thông đường thuỷ.
  8. Từ thị xó Hưng Yên tàu thuyền có thể ngược sông Hồng lên Hà Nội, Sơn Tây, Việt Trỡ, Yên Bái, Lào Cai, hoặc xuôi Thái Bỡnh, Nam Định rồi ra biển. Trên sông Luộc tàu thuyền có thể đi Ninh Giang, Phả Lại (Hải Dương), Hải Phũng. Các sông nhỏ khác trong tỉnh, đặc biệt có công trỡnh đại thuỷ nông Bắc – Hưng – Hải đều là những đường giao thông thuận tiện cho việc vận chuyển hàng hoá, lúa, ngô, vật liệu xây dựng… Giao thông thuỷ bộ của Hưng Yên vừa là điều kiện thuận lợi, vừa là tiềm nămg lớn để Hưng Yên phát triển kinh tế, văn hoá, xó hội. Hưng yên được bao bọc bởi sông Hồng và sông Luộc, có nguồn nước ngọt dồi dào ở dọc khu vực quốc lộ 5A từ Như Quỳnh (Văn Lâm) đến Quán Gỏi (Hải Dương) có những túi nước ngầm với dung tích hàng triệu m3, không chỉ cung cấp nước cho phát triển công nghiệp và đô thị mà cũn có thể cung cấp khối lượng lớn nước cho các khu vực lân cận. Hưng Yên có mỏ than nâu (thuộc bể than vùng đồng bằng sông Hồng) trữ lượng lớn nhất (hơn 30 tỷ tấn) chưa được khai thác, đây là tiềm năng lớn cho ngành công nghiệp than, phục vụ cho sản xuất, tiêu dùng và xuất khẩu. Dân số Hưng Yên 1.075.517 người, trong đó số người trong độ tuổi lao động chiếm hơn 50%. Tỷ lệ lao động có trỡnh độ của Hưng Yên thấp, bởi sau khi tái lập tỉnh đội ngũ cán bộ khoa học có trỡnh độ ở lại tỉnh công tác ít. Hiện nay số lao động chưa có việc làm cũn nhiều đó trở thành sức ép lớn đối với Hưng Yên trong vấn đề giải quyết việc làm. Ngoài nghề chính là trồng trọt, người dân cũn nuôi trồng thuỷ sản trồng dâu, nuôi tằm, làm các nghề thủ công và nghề truyền thống khác. Hiện nay Hưng Yên có trên 57 vạn lao động trong độ tuổi, trẻ khoẻ, có trỡnh độ văn hoá cao, chiếm 51% dân số, lao động đó qua đào tạo nghề đạt 33% có trỡnh độ đại học, cao đẳng, trung học và công nhân kỹ thuật, có truyền thống lao động cần cù sáng tạo. Về thành phần dân tộc, ở Hưng Yên hầu hết là người Kinh, số đông theo đạo Phật, một số ít theo đạo Thiên Chúa, phân bố rải rác không tập trung. Hưng Yên có truyền thống văn hiến, đó sản sinh ra nhiều anh hùng hào kiệt, các nhà văn hoá lớn. Trong gần 10 thế kỷ khoa cử ở Việt Nam, Hưng Yên đó có 228 người thi đỗ đại khoa cũn lưu danh ở bia Văn Miếu (thôn Xích Đằng, phường Nam Sơn thị xó Hưng Yên), trong đó có 8 trạng nguyên,4 bảng nhón, 6 thám hoa, 47 hoàng giáp. Hưng Yên là tỉnh đứng thứ 4 trong cả nước về cử nghiệp. Trong suốt quá trỡnh đấu tranh lâu
  9. dài dựng nước và giữ nước, vùng đất Hưng Yên thời nào, lĩnh vực nào cũng có những nhân tài mà sử sách cũn ghi như: Triệu Quang Phục, Phạm Ngũ Lóo, Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Bỡnh, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Trung Ngạn, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Đỡnh Nghị, Tô Ngọc Vân, Dương Bích Liên, Lê Hữu Trác, Phạm Huy Thông, Nguyễn Công Tiễu…đặc biệt trong lịch sử hiện đại Hưng Yên cũn có nhiều nhà chính trị nổi tiếng như: Nguyễn Văn Linh, Lê Văn Lương…các chiến sỹ anh hùng cách mạng như Tô Hiệu, Bùi Thị Cúc… đó là những người con ưu tú của Hưng Yên, đó góp phần làm rạng danh quê hương, Tổ quốc. Hưng Yên là tỉnh có mật độ di tích dầy đặc của vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng với 1.210 di tích văn hoá, lịch sử, tín ngưỡng. Trong đó 172 di tích được nhà nước xếp hạng và 32.574 cổ vật trong các di tích. Đặc biệt là di tích Phố Hiến- trung tâm thương mại, đối ngoại sầm uất phồn hoa bậc nhất vào thế kỷ XVI, XVII . Hưng Yên có nhiều đền chùa nổi tiếng như đền thờ Đức Tống Trân, đền thờ Đức Ngô Vương, đền Phạm Bạch Hổ, đền Đinh Điền, đền Trần, đền Phạm Ngũ Lóo, đền Chử Đồng Tử…mỗi đền chùa là một kho tàng mỹ thuật sống động, với rất nhiều cổ vật quý hiếm. Đó là những không gian văn hoá truyền thống, hiện hữu nét đẹp văn hoá vật thể, phi vật thể và đặc biệt hấp dẫn du khách bởi sự hài hoà cảnh trí thiên nhiên, và hỡnh khối kiến trúc, nghệ thuật chạm khắc tinh vi. Hưng Yên cũn là địa phương có nhiều lễ hội đặc sắc, giới thiệu và chứng minh sống động về vùng đất, con người Hưng Yên trong quá khứ và hiện tại, với những nét đặc trưng, những giá trị văn hoá tinh thần, tín ngưỡng của Hưng yên nói riêng của đồng bằng sông Hồng nói chung. Với lợi thế về địa lý gần thủ đô Hà Nội và các trung tâm công nghiệp lớn, có kết cấu hạ tầng, điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát triển nhanh chóng trở thành một tỉnh có tốc độ phát triển cao trong vùng. Tỉnh Hưng Yên được tái lập năm 1997 đang khẩn trương cùng cả nước xây dựng phát triển kinh tế. Bằng sự phấn đấu của bản thân và chính sách cởi mở thông thoáng, tranh thủ sự hỗ trợ đầu tư nước ngoài. Tỡnh hỡnh KT-XH Hưng Yên sau những năm đầu tái lập đó có nhiều khởi sắc. Nền kinh tế Hưng Yên đang đổi thay từng ngày, được đánh giá là một trong những tỉnh có tốc độ phát triển kinh tế tương đối nhanh và cao. Cơ cấu
  10. kinh tế đang dần chuỷên dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nông nghiệp nông thôn có nhiều chuyển biến tích cực, tỷ trọng giữa chăn nuôi và trồng trọt được cân đối. Người nông dân bước đầu quan tâm đến sản xuất hàng hoá, đảm bảo an ninh lương thực. Công nghiệp dịch vụ có bước phát triển khá. Công nghiệp địa phương tuy phải đối mặt với nhiều khó khăn, nhưng vẫn đạt được những thành tích đáng khích lệ. Một số ngành hàng tiếp tục được củng cố phat triển, lựa chọn mặt hàng ưu tiên và có lợi thế để đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ tạo ra những sản phẩm chất lượng cao. Khối công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh, do số dự án đi vào hoạt động tăng lên, sản phẩm thị trường chấp nhận và có xu thế phát triển tốt. Từ điểm xuất phát thấp với nhiều khó khăn thử thách gay gắt của tỉnh mới tái lập. Hưng Yên đó nỗ lực vươn lên, hoàn thành tương đối toàn diện những nhiệm vụ mục tiêu chủ yếu của năm 1997. Năm 1997, năm đầu tái lập tỉnh một số chỉ tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế xó hội của tỉnh đều đạt và vượt so với kế hoạch đề ra. Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) tăng 13,58% so với năm 1996 (Kế hoạch đề ra trên 10%). Giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn tăng 70,42%. (Kế hoạch trên 18%), giá trị sản xuất nông nghiệp tăng 5,04% (Kế hoạch là 6%), giá trị kinh doanh dịch vụ tăng 18% (Kế hoạch là 15%), sản lượng lương thực quy ra thóc đạt 49,8 vạn tấn bằng 100,4% so với năm 1996. Thu ngân sách đạt 85.559 triệu đồng; bỡnh quõn GDP đầu người ước đạt 204 USD/người/năm. Cơ cấu kinh tế: Nông nghiệp 52%; công nghiệp, xây dựng 20%; dịch vụ 28%. Tỷ lệ sinh giảm 0,08%. Sản xuất nông nghiệp năm 1997 phát triển tương đối toàn diện, giá trị tăng 5,04% so với năm 1996. Tổng diện tích gieo trồng đạt 120.000 ha, trong đó lúa cả năm 90.000 ha, cây công nghiệp 11.000 ha, rau màu 12.000 ha. Mặc dù thời tiết diễn biến không thuận lợi, nhưng do chủ động chỉ đạo cỏc biện phỏp phũng, chống bóo lụt và chống ỳng nội đồng tớch cực, hạn chế và xử lý sõu bệnh kịp thời, ứng dụng những tiến bộ khoa học, kỹ thuật xây dựng cơ cấu lỳa hợp lý nờn năng xuất lúa cả năm đạt 102 tạ / ha, là một trong những năm được mùa cao nhất từ trước đến nay. Tổng sản lượng quy ra thúc 49,8 vạn tấn, bỡnh quõn lương thực đầu người 455,6 kg (Tính theo khẩu nông nghiệp). Tiếp tục thực hiện chuyển đổi kinh tế nông nghiệp, nông thôn tập trung cho những cây con có giá trị kinh tế cao. Chăn nuôi tiếp tục phát triển về số và chất lượng. So với năm 1996 đàn lợn tăng 5,1%, đàn bũ tăng 4,5%, gia cầm tăng 10%. Kinh tế hộ nông dân tăng trưởng khá, số hộ giàu khoảng 17%, số hộ
  11. nghèo giảm từ 10% xuống 8,3%. Một số huyện thực hiện quỏ trỡnh chuyển dịch cơ cấu và luõn canh cõy trồng hợp lý đó cho thu hoạch cao như ở Hạ Lễ, Đào Dương (Ân Thi) từ 80 đến 100 triệu đồng / ha; Liên Nghĩa, Mễ Sở (Châu Giang) trên 50 triệu đồng / ha [3, tr.10]. Đi đôi với quỏ trỡnh sản xuất, tỉnh đó quan tõm chỉ đạo công tác đổi mới tổ chức quản lý, nâng cao chất lượng hoạt động của hợp tỏc xó nụng nghiệp. Đến nay đó cú 147/157 xó thực hiện và thành lập được 157 hợp tỏc xó mới. Đồng thời với kết quả đó đạt được, trong sản xuất nông nghiệp cũng bộc lộ những hạn chế như việc lựa chọn giống mới và tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp ch ưa cao, số lượng và chất lượng sản phẩm chưa đáp ứng yêu cầu hàng hoá xuất khẩu. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn chưa đều. Một số hợp tỏc xó mới thành lập cũn mang tớnh hỡnh thức, hoạt động không có hiệu quả. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất nụng nghiệp cũn nghốo nàn. Cơ sở chế biến nông sản thực phẩm hầu như chưa có, cơ chế, chớnh sỏch thu mua và tiờu thụ nụng sản thực phẩm cho nụng dõn cũn gặp nhiều khú khăn lúng túng. Công nghiệp địa phương từng bước được đầu tư mở rộng, tiểu thủ công nghiệp có tiến triển, sản lượng công nghiệp 603 tỉ (năm 1996: 355 tỉ) tốc độ tăng 69,8% (kế hoạch trên 18%) đó xuất hiện dấu hiệu tăng trưởng đột biến, tạo cho nền kinh tế phát triển nhanh. Đang lập dự án và triển khai xây dựng khu công nghiệp Như Quỳnh, Phố Nối, Thị xó Hưng Yên, 14 dự án đầu tư trong và ngoài nước với số vốn trên 100 triệu USD được cấp giấy phép. Dịch vụ phát triển đa dạng, tốc độ tăng 18% (kế hoạch trên 15%) hệ thống thương nghiệp đang sắp xếp lại. Xuất khẩu tăng nhanh, xây dựng thêm khách sạn mới, từng bước khôi phục các di tích văn hoá, lịch sử tạo tiền đề cho du lịch. Xây dựng kết cấu hạ tầng ở thị xó và một số thị trấn đó bắt đầu sôi động, xây dựng mới 3 trạm bơm, mở rộng và nâng cấp 14km đường, bắt đầu mở rộng đường 39A. Cải tạo một số đoạn đường do tỉnh, huyện quản lý và đường nông thôn, xây dựng xong phà Yên Lệnh. Xây dựng thêm một số trường học, nâng cấp bệnh viện, bắt đầu xây dựng đài truyền hỡnh, xây dựng lại một số trạm trại nông nghiệp. Quy hoạch phát triển thị xó Hưng Yên, thị xó công nghiệp Phố Nối. Quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH của tỉnh đến năm 2010.
  12. Công tác tài chính, tiền tệ, tín dụng được chấn chỉnh đổi mới. Tổng thu ngân sách 82 tỉ, chi ngân sách 249 tỉ. Ap dụng những hỡnh thức huy động vốn, mở rộng tín dụng cho mọi thành phần kinh tế. Trên 60% lượt hộ nông dân được vay vốn sản xuất. Khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển nhằm khai thác tiềm năng của địa phương. Sắp xếp và thành lập các doanh nghiệp quốc doanh. Các hợp tác xó (HTX) được tổ chức lại, mô hỡnh hợp tác xó đa dạng và tự nguyện theo dạng cổ phần như hợp tác xó kinh doanh tổng hợp, dịch vụ thuỷ nông, điện, tiểu thủ công nghiệp, quỹ tín dụng nhân dân, dựa trên điều lệ mới đang vươn tới hoạt động có hiệu quả. Vai trũ tự chủ của kinh tế hộ trở thành động lực phát triển kinh tế gia đỡnh và cá thể được khuyến khích, toàn tỉnh đó có 59 doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang hoạt động. Khi tái lập tỉnh, Hưng Yên vẫn là tỉnh thuần nông, công nghiệp hầu nh ư không có gỡ đáng kể, kết cấu hạ tầng yếu kém, thiết bị công nghệ lạc hậu, nhận thức của người dân về phát triển kinh tế cũn hạn chế. Sau khi tái lập tỉnh, cơ cấu kinh tế nông nghiệp tiếp tục chuyển theo hướng coi trọng các loại cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao. Việc thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn được chú trọng và đạt kết quả khá, tiếp tục chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, áp dụng rộng rói tiến bộ sinh học vào sản xuất. Sản lượng lương thực quy ra thóc đạt 550.000 tấn. Năng suất lúa tăng từ 9,8 tấn (1997) lên 11,93 tấn/ha năm 2000. Giá trị bỡnh quân trên 1ha canh tác tăng từ 28 triệu năm 1997 lên 32 triệu năm 2000. Lương thực bỡnh quân đầu người tăng lên 520 kg (2000) (năm 1997: 460kg). Là tỉnh đồng bằng đất đai phỡ nhiêu, Hưng Yên có nhiều thuận lợi trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi; phát triển nông nghiệp cây ăn quả đặc sản, cây xuất khẩu; tinh dầu đậu các loại tăng khá. Do nhu cầu sức kéo và thị trường nên số lượng đàn trâu, bũ giảm song chất lượng đàn bũ tăng lên. Chăn nuôi lợn, gia cầm, thuỷ sản tiếp tục phát triển. Chương trỡnh “Nạc hoá đàn lợn”, thu hút đông đảo hộ nông dân tham gia, nhiều mô hỡnh trang trại chăn nuôi theo phương pháp công nghiệp được hỡnh thành và nâng lên. Công nghiệp: Giá trị sản xuất trên địa bàn tăng nhanh. Bỡnh quân tăng 60,17%. Giá trị sản lượng công nghiệp năm 2000 đạt 2.350 tỷ đồng (năm 1996: 355 tỷ). Công nghiệp địa phương từng bước được mở rộng, đầu tư chiều sâu nên khá phát triển. Tăng bỡnh quân 17,7%/năm tiểu thủ công nghiệp làng nghề được quan tâm khuyến khích, hỗ
  13. trợ đầu tư, nhiều mô hỡnh năng động sáng tạo trong sản xuất kinh doanh, hợp tác liên kết kinh tế phát triển. Khu vực ngoài kinh tế nhà nước tăng bỡnh quân 12%/năm [3, tr.2]. Ngày 24/6/1999 Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định số 1088/1999/QĐ-UB hướng dẫn việc thực hiện thủ tục xin cấp phép đầu tư và Quyết định số 1089/1999/QĐ- UB về qui định quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, tỉnh ngoài trên địa bàn Hưng Yên, quyết định này góp phần làm thay đổi diện mạo KT-XH của tỉnh. Tỉnh đó quy hoạch 03 khu công nghiệp Phố Nối – Như Quỳnh – Thị xó Hưng Yên, có nhiều dự án đầu tư vào các lĩnh vực mà tỉnh khuyến khích như: chế biến nông sản, chế biến thức ăn gia súc, sản xuất da giày, may mặc, hàng thủ công mỹ nghệ, sản xuất nguyên vật liệu, xây dựng trung tâm dạy nghề và các loại hỡnh dịch vụ. Bỡnh quân đầu tư 2,8 lần/năm, 11 dự án nước ngoài, 31 dự án tỉnh ngoài, số vốn đăng ký là 165 triệu USD, trong đó 11 dự án đó hoạt động (04 dự án nước ngoài, 07 dự án tỉnh ngoài). Thực sự tạo động lực thúc đẩy kinh tế Hưng Yên, trong 4 năm nộp ngân sách trên 120 tỷ, thu hút 2300 lao động [5, tr.15]. Dịch vụ: Khá phát triển, tốc độ tăng trưởng bỡnh quân 15,48%. Các ngành kinh tế dịch vụ phát triển đa dạng, hàng hoá phục vụ cho đời sống phong phú, giá cả ổn định, giá kinh doanh dịch vụ t ăng 18%. Xuất khẩu khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia tốc độ tăng khá: 20,6%/năm, tỷ trọng hàng xuất khẩu sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp của tỉnh tăng từ 3 triệu USD năm 1997 lên 10 triệu USD năm 2000. Kim ngạch xuất khẩu đạt 32 triệu USD, tỷ trọng hàng nông sản xuất khẩu tăng hơn các năm trước, tăng thêm 19 dự án đầu tư nước ngoài và tỉnh ngoài, đưa tổng số dự án đầu tư trên địa bàn lên 42, với vốn đăng ký 165 triệu USD. Các mặt hàng chủ yếu tăng nhanh: may, điện tử, giầy thể thao, hàng thủ công mỹ nghệ. Hệ thống thương nghiệp được tổ chức sắp xếp lại, mở rộng qui mô cải tiến phương thức phục vụ đáp ứng tốt hơn nhu cầu cuộc sống của nhân dân. Tỉnh đó chỉ đạo khôi phục các di tích lịch sử - văn hoá tạo điều kiện thu hút khách tham quan du lịch. Kết cấu hạ tầng: được nâng cấp đầu tư mới khá đồng bộ, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển KT-XH. Các tuyến tỉnh lộ huyết mạch 206, 200, 205, đê Sông Hồng, đường trục chính thị xó Hưng Yên, đường trong khu công nghiệp, bến phà Yên Lệnh,
  14. bến xe, bến cảng được khẩn trương xây dựng, nhiều tuyến huyện lộ đang được nâng cấp: 202, 203, 204, 208. 150 km đường tỉnh, huyện được nâng cấp dải nhựa với số vốn 138 tỷ bằng 30% tổng số vốn ngân sách tập trung, gấp 3 lần trước lúc tái lập tỉnh. Giao thông nông thôn có nhiều khởi sắc, nâng cấp, cải tạo 300 km đường các loại với kinh phí 63 tỷ đồng. Dự án giao thông nông thôn (WB2) đang tích cực triển khai với mức vốn 50 tỷ đồng. Đến năm 2000 toàn tỉnh đó xây mới 15 trạm bơm, tiếp tục nâng cấp một số trạm bơm chống úng. Tăng cường cơ sở vật chất cho các ngành giáo dục – y tế. Xây mới 1.230 phũng học kiên cố cao tầng. Đang nâng cấp bệnh viên Đa khoa tỉnh, một số bệnh viện tuyến huyện, nhiều trạm xá gắn với trung tâm kế hoạch hoá gia đỡnh được xây mới, bổ sung trang thiết bị điều trị. Bưu chính viễn thông được đầu tư nhanh đồng bộ, hiện đại đáp ứng kịp nhu cầu phát triển của tỉnh. Bưu điện được trang bị hiện đại hoá các tổng đài điện tử, phát triển thêm 5000 máy thuê bao, tính đến năm 2000 bỡnh quân 1,52 máy/100 dân, điện thoại đến 100% xó và 98% thôn. Phát triển nhanh các dịch vụ mới, xây dựng 89 điểm bưu điện cư xá làm tốt các công tác phát hành báo chí. Lưới điện trên địa bàn tỉnh từng bước được cải tạo, phát triển theo quy hoạch đáp ứng nhu cầu phát triển KT-XH. Xây dựng đường dây và trạm 110Kv Phố Nối, xây mới 142 trạm biến thế, 96 km đường dây trung thế. Điện thương phẩm tăng 1,65 lần so với năm 1997. Xây mới giai đoạn 1 Đài phát thanh truyền hỡnh tỉnh, xưởng in báo Hưng Yên, tăng cường cơ sở vật chất cho Văn hoá thông tin, thể dục thể thao, xây mới 22 trụ sở làm việc các cơ quan tỉnh, chuẩn bị đầu tư cơ sở vật chất cho các huyện, thị khu công nghiệp được chỉ đạo chặt chẽ hơn, tăng cường công tác quản lý nhà nước về xây dựng cơ bản. Tổng nguồn vốn đầu tư trên địa bàn 4 năm đạt 3.355 tỷ, dùng cho phát triển công nghiệp 47%, nông nghiệp 23%, giao thông vân tải 16%. Đầu tư bằng vốn ngân sách tập trung tỉnh quản lý 400 tỷ, tập trung cho cơ sở hạ tầng, ưu tiên cho nông nghiệp nông thôn. Công tác tài chính, tiền tệ, tín dụng: được chấn chỉnh đổi mới một bước. Qua 4 năm đều hoàn thành vượt mức kế hoạch thu năm sau cao hơn năm trước. Tổng thu bỡnh
  15. quân trên địa bàn 140 tỷ/năm. Thu ngân sách địa phương bỡnh quân năm 110 tỷ. Tổng chi ngân sách 347 tỷ/năm đáp ứng kịp thời có hiệu quả phát triển KT-XH, QP-AN của tỉnh. Tỉnh có cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp vượt kế hoạch thu ngân sách tái đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, nhiều doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, kinh doanh xuất khẩu giải quyết nhiều lao động, được hỗ trợ vốn từ 30%-50% nên đó kích thích các doanh nghiệp phát triển. Công tác thanh tra tài chính được duy trỡ cùng với hệ thống kho bạc để kiểm tra chế độ chi tiêu hành chính sự nghiệp, chống lóng phí thực hành tiết kiệm. Áp dụng biện pháp huy động vốn, tổng vốn huy động tăng bỡnh quân 23% năm (năm 2000 là 780 tỷ, dư nợ 630 tỷ, dư nợ ngân hàng người nghèo trên 100 tỷ). Mở rộng tín dụng với cơ chế lói suất tiền gửi, tiền vay linh hoạt, tỷ trọng vốn trung và dài hạn tăng nhanh chiếm 36%, 75% lượt hộ nông dân vay vốn, tăng hộ giàu giảm hộ nghèo. Chất lượng tín dụng được nâng lên, công tác tiền tệ đáp ứng hơn nhu cầu địa bàn. Khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển. Để thực sự giải phóng sức sản xuất, phát triển lực lượng sản xuất, tỉnh thành lập mới doanh nghiệp nhà nước nhằm phục vụ cho xuất khẩu và nhu cầu thiết yếu, lấy hiệu quả KT-XH làm thước đo, sắp xếp một bước các doanh nghiệp có khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi để vươn lên. Thực hiện thí điểm cổ phần hoá 167 HTX, đó chuyển đổi xây dựng mới theo mô hỡnh đa dạng và tự nguyện đóng góp cổ phần kinh doanh tổng hợp, chuyên khâu: dịch vụ thuỷ nông, điện tiểu thủ công nghiệp, quỹ tín dụng nhân dân. 120 HTX đó đăng ký, nhiều HTX kinh doanh có hiệu quả. Kinh tế hộ, kinh tế cá thể, kinh tế trang trại được khuyến khích phát triển. Toàn tỉnh đó có 110 doanh nghiệp ngoài kinh tế nhà nước đang hoạt động và từng bước mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh. Sau khi tái lập tỉnh, trong công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Hưng Yên luôn đoàn kết đồng thuận, chung sức đồng lũng xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp. Những năm đầu tai lap tỉnh nền kinh tế Hưng Yên đó có nhiều khởi sắc. Đời sống văn hoá xó hội: Sau khi tái lập tỉnh đời sống nhân dân được cải thiện, số hộ giàu chiếm 17%, cơ bản xoá đói, giảm hộ nghèo từ 10% xuống 8,3%. Nhu cầu ăn, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh, hưởng thụ văn hoá được đáp ứng tốt hơn.
  16. Quan tâm chăm sóc thương binh, gia đỡnh liệt sĩ, những người có công với nước. Vận động quỹ đền ơn đáp nghĩa được trên 5 tỷ đồng, xây dựng và nâng cấp 150 nhà tỡnh nghĩa, 100% Bà mẹ Việt Nam anh hùng có nhà kiên cố, tặng 5.961 sổ tiết kiệm tỡnh nghĩa cho các gia đỡnh chính sách, giúp đỡ người tàn tật, cô đơn, học sinh nghèo vượt khó. Đó thu hút thêm 2 vạn lao động vào chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, mở rộng ngành nghề và phát triển công nghiệp. Đưa 850 hộ với 4.250 khẩu đi xây dựng vùng kinh tế mới, 100 người đi lao động nước ngoài. Công tác bảo vệ sức khoẻ nhân dân được quan tâm. Sắp xếp hệ thống điều trị, tăng qui mô giường bệnh, nâng cấp trạm xá và bệnh viện Đa khoa. Coi trọng chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, tiêm chủng mở rộng cho trẻ em phũng chống dịch bệnh. Sự nghiệp giáo dục phát triển, học sinh các cấp đều tăng, các cháu vào nhà trẻ mẫu giáo tăng 1,6%, học sinh phổ thông tăng 4,3%. Quan tâm chất lượng giáo dục toàn diện và các lớp đào tạo năng khiếu, số học sinh tốt nghiệp tăng, tiểu học 95%, phổ thông cơ sở 93%, phổ thông trung học 88%. Tỉnh có nghị quyết khen th ưởng khích lệ học sinh giỏi, thầy dậy giỏi, trường có học sinh đỗ đại học cao. Công tác giáo dục đang tạo sức bật mới. Khoa học công nghệ phát triển hướng vào ứng dụng tiến bộ về giống, biện pháp canh tác, chế biến và bảo quản nông sản, thẩm định thiết bị và công nghệ mới, tham gia một số chương trỡnh nghiên cứu và khảo sát cấp nhà nước. Bảo vệ tài nguyên môi trường được quan tâm. Hoạt động văn hoá văn nghệ đa dạng phong phú. Quan tâm xây dựng nếp sống mới, gia đỡnh văn hoá, làng văn hoá, di tích lịch sử được bảo tồn tôn tạo, báo chí thông tin từng bước đổi mới cả nội dung, hỡnh thức theo hướng hiện đại. Tiếp tục đổi mới chỉnh đốn Đảng bộ, coi trọng sinh hoạt chính trị tư tưởng trong Đảng, tư tưởng đạo đức lối sống cho cán bộ đảng viên. Nâng cao chất lượng sinh hoạt Chi bộ, Đảng bộ, đẩy mạnh phê bỡnh và tự phê bỡnh thường xuyên định kỳ. Phấn đấu xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh. Chính quyền, đoàn thể vững mạnh theo 5 tiêu chuẩn mà Chỉ thị 05 của Ban thường vụ Tỉnh uỷ đề ra. Tiếp tục phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo, khoa học – công nghệ (KH-CN) theo định hướng đó được xác định trong Nghị quyết TW2 và Nghị quyết 03 TU. Giáo dục đào tạo là một bộ phận trọng yếu xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng
  17. mới. Đẩy mạnh giáo dục toàn diện trên tất cả các ngành học, bậc học. Tạo được đời sống văn hoá cơ sở lành mạnh, nâng mức hưởng thụ văn hoá của nhân dân, coi trọng việc xây dựng gia đỡnh văn hoá và phát huy đạo lý tốt đẹp của gia đỡnh. Nêu cao vai trũ gương mẫu của ông bà cha mẹ, tạo ra mối quan hệ khăng khít giữa gia đỡnh nhà trường – xó hội. Phát triển không ngừng và nâng cao chất lượng hoạt động của thiết chế văn hoá cơ sở. Tăng cường hoạt động của các tổ chức văn hoá, nghệ thuật chuyên nghiệp, và phong trào quần chúng. Nghiêm chỉnh chấp hành Chỉ thị số 27/CT -TW của Bộ Chính trị và Chỉ thị số 08 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về thực hiện nếp sống văn minh, thực hành tiết kiệm đẩy lùi, tiến đến xoá bỏ tệ nạn xó hội và hoạt động phản văn hoá. Đánh giá về những khó khăn, thuận lợi sau khi tái lập tỉnh, Hội nghị tỉnh uỷ lâm thời lần thứ nhất họp trong hai ngày 20 và 21-1-1997 đó chỉ rừ: Những thuận lợi cơ bản đó là Hưng Yên là một vùng đất văn hiến, giầu truyền thống và tiềm năng. Đất đai trù phú, một số nghề truyền thống đang từng bước được khôi phục. Sau hơn 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới Hưng Yên bước đầu đó xây dựng được một số cơ sở vật chất. Với vị trí nằm trong vùng trọng điểm kinh tế phia Bắc, là cửa ngừ phia Đông của Thủ đô Hà Nội. Hưng Yên có thế mạnh lớn trong việc thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài, dịch vụ và du lịch có nhiều triển vọng. Đảng bộ và nhân dân Hưng Yên có truyền thống đoàn kết, ý chí quyết tâm xây dựng quê hương giầu đẹp. Việc tái lập tỉnh có ý nghĩa quan trọng giup Đảng bộ và chính quyền tỉnh có sự chỉ đạo sát sao hơn với thực tế địa phương nhằm khai thác thế mạnh, tiềm năng của tỉnh, bắt kịp với tỡnh hỡnh mới, cơ chế mới, từ đó nhanh chóng ổn định và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xó hội của tỉnh. Bên cạnh những thuận lợi, Hưng Yên cũng đứng trước những khó khăn lớn sau khi tái lập tỉnh. Khó khăn lớn nhất là điểm xuất phát của tỉnh sau tái lập cũn thấp. GDP bỡnh quân đầu người năm 1966 khoảng 180 USD, thu nhập ngân sách trên địa bàn tỉnh chỉ đáp ứng 1/3 so với yêu cầu. Trong nông nghiệp, cùng với việc chuyển dịch cơ cấu, việc khảo nghiệm, đánh giá các loại cây trồng từng vùng, từng vụ chưa tốt, chưa gắn với quy trỡnh kỹ thuật đó hạn chế đến sản xuất; hệ thống cơ sở hạ tầng nông nghiệp chưa phát triển đồng bộ; lực lượng lao động dư thừa lớn, tỷ lệ lao động được đào tạo có trinh độ kỹ thuật, tay nghề cũn thấp; bỡnh quân đất nông nghiệp trên đầu người thấp (đạt 580m2/người), ruộng đất đa phần cũn manh mún.
  18. Ngành thương mại, dịch vụ và du lịch của tỉnh kém phát triển do chưa được đầu tư quan tâm đúng mức. Du lịch hầu như chưa phát triển. Cơ sở vật chất của ngành giáo dục cũn nghèo nàn, thiết bị dạy và học cũn thiếu thốn, đặc biệt là đối với ngành học mầm non. Đội ngũ giáo viên thiếu và chưa đồng bộ. Nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân chưa được đáp ứng đầy đủ. Bộ máy và đội ngũ cán bộ cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan sự nghiệp, các đơn vị kinh doanh của tỉnh vừa thiếu, vừa ít kinh nghiệm trên một số lĩnh vực. Nhằm nâng cao vai trũ và năng lực lónh đạo của Đảng, tỉnh uỷ đó có Chỉ thị số 03-CT/TU về đẩy mạnh phong trào thi đua xây dựng và nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch vững mạnh. Tổ chức cơ sở đảng yếu kém từ 4,9% năm 1997 cũn 3,7% năm 1999. Năm 2000 có 408 tổ chức cơ sở đảng (TCCSĐ) đạt trong sạch vững mạnh (TSVM), đạt 79%, tăng 29 cơ sở so với năm 1999. Trong đó TCCSĐ tiêu biểu được Tỉnh uỷ biểu dương 51, tăng 7 cơ sở so với năm 1999. TCCSĐ yếu kém từng mặt 12 cơ sở (2,4%). Có 5 TCCSĐ đạt TSVM từ 5 năm trở lên được Tinh uỷ biểu dương: Đảng bộ Công ty may Hưng Yên; Đảng bộ xó Thuần Hưng (Khoái Châu); Đảng bộ xó Quảng Châu (Tiên Lữ); Đảng bộ xó Phan Sào Nam (Phủ Cừ); Đảng bộ xó Tân Quang (Văn Lâm). Năm 2001 co 424 TCCSĐ đạt trong sạch vững mạnh (81,38%), trong đó có thành tích tiêu biểu được tỉnh biểu dương, khen thưởng 65 cơ sở; huyện, thị uỷ, đảng uỷ trực thuộc biểu dương khen thưởng 195 cơ sở; loại khá 87 cơ sở (16,70%); loại yếu kém 10 cơ sở (1,92%). Trong đó Thị xó Hưng Yên có 39 tổ chức cơ sở đảng (TCCSĐ) trên 47 TCCSĐ đạt trong sạch vững mạnh; huyện Tiên Lữ có 36/46; huyện Phủ Cừ có 26/36; huyện Ân Thi có 33/50; huyện Kim Động có 33/47; huyện Khoái Châu có 41/55; huyện Yên Mỹ có 35/42; huyện Mỹ Hào có 36/41; huyện Văn Lâm có 33/41; huyện Văn Giang có 28/31 Đảng uỷ Quân sự có 6/6; Đảng uỷ Công an có 23/23 và Đảng uỷ các cơ quan tỉnh có 55/59 TCCSĐ đạt trong sạch vững mạnh. Tổng số đảng viên đủ tư cách phát huy tác dụng tốt có 35.561 đạt 85,5%. Đảng viên đủ tư cách cũn hạn chế từng mặt có 5.656 chiếm 13,6%. Đảng viên vi phạm tư cách có 283 chiếm 0,7%. Đảng viên không đủ tư cách phải đưa ra khỏi đảng 89 chiếm 0,21%. Kết quả kiểm tra của Uỷ ban kiểm tra các cấp có 45 tổ chức cơ sở đảng và 303 đảng viên vi phạm từng mặt [56, tr.20].
  19. Tuy cũn nhiều khó khăn, nhưng với tinh thần quyết tâm cách mạng, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hưng Yên đó phát huy truyền thống vẻ vang của quê hương cách mạng và những thành tựu đạt được trong 10 năm đổi mới, để nhanh chóng vượt qua những khó khăn thách thức của một tỉnh sau tái lập, cùng cả nước thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới. 1.2. NHỮNG CHỦ TRƯƠNG LỚN CỦA ĐẢNG BỘ VỀ CÔNG TÁC XÂY DỰNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG Sau một thời gian tích cực chuẩn bị, được sự đồng ý của Bộ chính trị, Ban chấp hành lâm thời Đảng bộ tỉnh Hưng Yên đó triệu tập Đại hội đại biểu đảng bộ Tỉnh lần thứ XIV. Đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh Hưng Yên lần thứ XIV được tiến hành từ ngày 11 đến ngày 13 tháng 11 năm 1997. Dự Đại hội có 250 đại biểu đại diện cho hơn 45.000 đảng viên trong toàn tỉnh. Đại hội có nhiệm vụ đánh giá một năm sau khi tái lập tỉnh, xây dựng phương hướng nhiệm vụ ba năm 1998-2000 và bầu Ban chấp hành Đảng bộ. Từ thực tiễn sau một năm tái lập tỉnh, đánh giá những kết quả đó đạt được, những yếu kém cũn tồn tại, Đại hội đó tổng kết một số kinh nghiệm bước đầu: Một là, từ điểm xuất phát thấp,trên cơ sở đường lối chính sách của Trung ương và các Nghị quyết của Tỉnh uỷ, tất cả các cấp, các ngành đều phải đầu tư nghiên cứu, tỡm ra bước đi thích hợp, nhằm tạo ra sự đột biến trên một số lĩnh vực. Nếu không tạo ra được sự đột biến thỡ Hưng Yên không theo kịp các tỉnh trong khu vực. Hai là, đứng trước những khó khăn và thử thách gay gắt, những đũi hỏi bức súc của cuộc sống ở một tỉnh vừa tái lập, các cơ quan đầu nóo ở địa phương phải thật bỡnh tĩnh, tự tin và gương mẫu, biết tháo gỡ khó khăn. Mở rộng dân chủ trong đảng để đoàn kết và thống nhất, biết dựa vào dân, biết khơi dậy ý chí tự lập, tự cường, truyền thống yêu nước tạo thành nguồn sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn trở ngại. Ba là, trong tiến trỡnh xây dựng và phát triển phải biết vận dụng quan điểm “phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”, phát triển sức sản xuất phải gắn liền với hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, mở rộng kinh tế thị trường
  20. phải đi đôi với tăng cường quản lý, kiên quyết và tỉnh táo, hạn chế những mặt tiêu cực như suy thoái về đạo đức, tham nhũng và các tệ nạn xó hội khác. Đại hội đó đề ra mục tiêu, phương hướng, và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xó hội ba năm 1998 – 2000. Về mục tiêu phấn đấu đến năm 2000, Đại hội chỉ rừ: Tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, đưa công cuộc đổi mới phát triển một cách toàn diện, đồng bộ, tăng trưởng kinh tế nhanh, vững chắc và có hiệu quả đi đôi với giải quyết những vấn đề bức súc về xó hội, tăng cường an ninh quốc phũng, cải thiện một bước đời sống nhân dân, chống quan liêu, tham nhũng, lóng phí, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn sau năm 2000. Về công tác xây dựng Đảng, Đại hội Đảng bộ tỉnh xác định: Tiếp tục kiện toàn hệ thống chính trị, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân. Xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, có kiến thức và năng lực, có uy tín, đủ sức lónh đạo nhân dân Hưng Yên vượt qua khó khăn thử thách, đẩy mạnh quỏ trỡnh cụng nghiệp hoỏ, hiện đại hoá, xây dựng tỉnh giầu mạnh, xó hội cụng bằng văn minh [3, tr.14]. Công tác xây dựng Đảng tập trung vào những nhiệm vụ chủ yếu sau: Một là: tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiền phong trong Đảng. Coi trọng giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cho cán bộ, đảng viên. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, tăng cường bản chất giai cấp công nhân một mặt phải tăng cường số đảng viên xuất thân từ giai cấp công nhân, nhưng điều chủ yếu và quyết định là xây dựng quan điểm, chính sách, tổ chức và sinh hoạt của Đảng bộ thực sự dựa trên lập trường, quan điểm của giai cấp cụng nhõn, cú ý thức tổ chức, kỷ luật cao, đi tiên phong trên mọi lĩnh vực, có bản lĩnh và trí tuệ, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực sự vỡ dõn, chống chủ nghĩa thực dụng, vụ kỷ luật, bố phỏi trong Đảng. Hai là: nõng cao trỡnh độ trí tuệ và năng lực hoạt động thực tiễn. Học tập là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi cán bộ đảng viên và được quy định thành chế độ của cấp uỷ. Đối với cán bộ chủ chốt của tỉnh, huyện và thị xó phải cú kế hoạch học tập lý luận, chuyờn mụn, ngoại ngữ và tin học. Đông thời phải thường xuyên sâu sát cơ sở kịp thời nắm bắt tâm tư nguyện vọng của quần chúng nhân dân.
nguon tai.lieu . vn