Xem mẫu

  1. LUẬN VĂN: Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của Ngân hàng NNo&PTNT Nam Hà nội
  2. lời nói đầu Hoạt động cho vay là một hoạt trong những hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Nhìn chung, các ngân hàng thương mại đều chú trọng đến hoạt động cho vay theo dự án bởi đây là một trong những hoạt động mang lại nguồn thu chủ yếu cho ngân hàng. Để có được quyết định cho vay hay không đối với một dự án đòi hỏi ngân hàng phải thẩm định dự án một cách kỹ lưỡng. Một trong những nội dung hết sức quan trọng trong thẩm định dự án đó là thẩm định tài chính dự án. Tuy nhiên hiện nay chất lượng thẩm định tài chính dự án tại các ngân hàng thương mại chưa cao. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nam Hà nội là một Chi nhánh cấp 1, mới được thành lập chưa đầy 3 năm nhưng Chi nhánh đã gặt hái được một số thành quả nhất định. Bên cạnh đó, Chi nhánh còn có nhiều vấn đề cấp bách cần được giải quyết và một trong những vấn đề đó là nâng cao chất lương thẩm định tài chính dự án tại Chi nhánh. Vì lý do trên nên qua thời gian thực tập tại Chi nhánh, em đã chọn đề tài : “ Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của Ngân hàng NNo&PTNT Nam Hà nội ” làm chuyên đề tốt nghiệp. Chuyên đề được cấu trúc bởi 3 chương: Chương 1: Chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của NHTM. Chương 2: Thực trạng chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của NHNo&PTNT Nam Hà Nội. Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án Trong hoạt động cho vay của NHNo&PTNT Nam Hà Nội.
  3. Chương 1 Chất lượng thẩ m định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của NHTM 1.1. Hoạt động cho vay của NHTM 1.1.1. Khái quát về hoạt động của NHTM Ngân hàng thương mại là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất. Tuy không trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất như những doanh nghiệp thuộc lĩnh vực sản xuất-kinh doanh nhưng tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất, lưu thông và phân phối sản phẩm xã hội bằng cách cung ứng vốn, dịch vụ cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế mở rộng kinh doanh, góp phần tăng nhanh tốc độ phát triển kinh tế. ở Việt Nam, Luật các tổ chức tín dụng ghi “ Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cung cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán ”. Ngân hàng thương mại tiến hành hoạt động huy động những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các cá nhân, tổ chức rồi chuyển đến cho những người có nhu cầu vốn. Ngân hàng là một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho công chúng và doanh nghiệp. Thành công của Ngân hàng là phụ thuộc vào năng lực xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách có hiệu quả. Các Ngân hàng thương mại ngày nay cung cấp rất nhiều loại hình dịch vụ tài chính khác nhau, bao gồm các loại hình mang tính truyền thống và các dịch vụ mới. Có thể xem xét qua một số hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại như sau: Hoạt động huy động vốn Huy động vốn đóng vai trò là hoạt động tạo nguồn vốn cho Ngân hàng thương mại. Vì vậy, hoạt động này ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của Ngân hàng. Trước đây hoạt động huy động vốn được hiểu là hoạt động nhận tiền gửi của khách hàng nhưng cho đến nay, cùng với sự đa dạng các hoạt động Ngân hàng thương mại, huy động vốn được hiểu bao gồm: tự huy động bằng vốn chủ sở hữu của ngân hàng, nhận tiền gửi, vay từ các tổ chức khác, vay trên thị trường vốn. Hoạt động tín dụng Tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng thương mại, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất song cũng là hoạt động mang lại nhiều rủi ro
  4. nhất. Tín dụng thực chất là hoạt động tài trợ của ngân hàng cho khách hàng. Hình thức tín dụng truyền thống của ngân hàng thương mại là cho vay ngắn hạn có bảo đảm bằng tài sản, giúp khách hàng mua hàng hóa, nguyên,nhiên , vật liệu, ..sau đó mở rộng thành nhiều hình thức khác nhau như cho vay thế chấp bằng bất động sản, bằng chứng khoán, bằng giấy tờ có giá khác, Như vậy, bản chất của tín dụng ngân hàng chính là việc ngân hàng thực hiện cho vay ngắn, trung hoặc dài hạn và được biểu hiện dưới nhiều hình thức như: cho vay tiêu dùng, đầu tư vào trái phiếu trung, dài hạn của doanh nghiệp, và đặc biệt chú trọng vào cho vay theo các dự án. Các hoạt động khác Hoạt động tín dụng và hoạt động huy động vốn có thể được coi là hai hoạt động chính đối với một ngân hàng thương mại. Nhưng ngày nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các ngân hàng cũng nhanh chóng mở rộng phạm vi ra sang các lĩnh vực kinh doanh khác phần lớn trở thành những ngân hàng đa năng. Cùng với hai hoạt động chính, các hoạt động này có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau và cùng đóng góp cho sự thành công của ngân hàng thương mại. Có thể kể đến các hoạt động như : hoạt động thanh toán, bảo lãnh, cho thuê, hoạt động đại lý ủy thác, hoạt động kinh doanh ngoại tệ...Đó thực chất cũng chính là các dịch vụ mà ngân hàng hiện đại rất quan tâm và ngày càng mở rộng. Bởi lẽ, nếu một ngân hàng thương mại có thu nhập từ hoạt động dịch vụ chiếm trên 30% tổng thu nhập thì ngân hàng đó ít gặp nguy cơ rủi ro thanh khoản và có thể được coi là hiệu quả. Tuy nhiên đi đôi với vấn đề rủi ro thường là mức sinh lời không cao. Chính vì điều này giải thích vì sao hoạt động tín dụng, mà cụ thể là hoạt động cho vay theo dự án, một hoạt động truyền thống nhất và cũng có tính sinh lời nhất, luôn được các ngân hàng thương mại coi trọng hàng đầu. 1.1.2. Hoạt động cho vay của NHTM Đối với các ngân hàng thương mại, dự án có vai trò đặc biệt quan trọng. Hoạt động cho vay của ngân hàng được tiến hành theo dự án, cho vay theo dự án là hoạt động chính và mang lại thu nhập từ lãi lớn nhất cho ngân hàng. Một trong những yêu cầu của ngân hàng là người vay phải xây dựng dự án, thể hiện mục đích, kế hoạch đầu tư cũng như quá trình thực hiện dự án. Đây cũng là một trong những cơ sở chủ đạo để ngân hàng xem xét, đưa ra quyết định chấp nhận hoặc từ chối tài trợ. Khi tiếp nhận một dự án, ngân hàng tiến hành thẩm định dự án để đưa ra quyết định cuối cùng là xác định phần vốn cho vay và khả năng hoàn trả của doanh nghiệp. Dự án được
  5. xây dựng gồm nhiều mục như phân tích thị trường, nguồn nhân lực, địa điểm, công nghệ, quy trình sản xuất, phân tích tài chính ... trong đó thẩm định tài chính dự án là mục tiêu quan tâm hàng đầu của ngân hàng. * Sự cần thiết thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại. Đối với các doanh nghiệp, một dự án trung và dài hạn thường đòi hỏi lượng vốn lớn trong một thời gian dài, phần lớn vượt khả năng tài chính, tự tài trợ của chủ đầu tư. Chính vì vậy, các doanh nghiệp các doanh nghiệp phải huy động vốn bằng nguồn tài trợ từ các ngân hàng thương mại.Thực chất đây là cách mà các doanh nghiệp sử dụng đòn bẩy tài chính thông qua việc tăng các khoản nợ từ ngân hàng nhằm đạt tới một cơ cấu vốn đầu tư hiệu quả. Do đó đối với các doanh nghiệp (các chủ đầu tư) thì việc có dự án chỉ là điều kiện cần còn việc thẩm định dự án, nhất là thẩm định tài chính dự án mới là điều kiện đủ để nhằm họ đưa ra phương pháp đầu tư tối ưu, có hiệu quả và quan trọng hơn, đó chính là cơ sở , là bằng chứng để họ có thể tìm nguồn tài trợ cho dự án từ các tổ chức tín dụng, đặc biệt là các ngân hàng thương mại. Về phía các ngân hàng thương mại, cho vay theo dự án là hoạt động kinh doanh truyền thống có khả năng sinh lợi cao nhưng cũng chứa đựng nhiều rủi ro. Vì thế, để hạn chế tới mức tối đa các rủi ro có xẩy ra, các ngân hàng thương mại phải tiến hành thẩm định dự án mà trong đó quan trọng nhất là thẩm định tài chính dự án. Đây là căn cứ mang tính quyết định giúp ngân hàng đưa ra quyết định của mình. Như vậy : - Thẩm định tài chính dự án là cơ sở để các ngân hàng thương mại xác định hiệu quả vốn đầu tư, khả năng hoàn vốn của dự án và khản năng trả nợ của nhà tư. Trên cơ sở đó, ngân hàng có thể đưa ra các quyết định tài trợ cho dự án ở mức độ nào như: giá trị khoản vay, thời hạn, lãi suất cho vay, hình thức thu nợ, các biện pháp bảo đảm tiền vay cũng như các phương án khác nhằm hạn chế rủi ro. - Thẩm định tài chính dự án là căn cứ để ngân hàng có biện pháp kiểm tra việc sử dụng vốn có đúng mục đích, đúng đối tượng hay không, góp phần để dự án thực hiện đầu tư có hiệu quả. - Thẩm định tài chính dự án giúp ngân hàng lường trước các rủi ro có thể xẩy ra ảnh hưởng đến quá trình triển khai thực hiện dự án như các yếu tố về công nghệ, sự biến động của thị trường nguyên liệu đầu vào, sản phẩm đầu ra, sự thay đổi về công suất sản xuất, doanh số bán hàng, chi phí sản xuất, các yếu tố về môi trường, chính sách quản lý,..Từ đó,
  6. ngân hàng phải xem xét các yếu tố nhằm đưa ra các giải pháp đối với chủ đầu tư, các kiến nghị đối với các cơ quan quản lý Nhà Nước, hạn chế các rủi ro và nâng cao tính khả thi trong việc thực hiện dự án . - Đối với các dự án đầu tư phụ thuộc, thẩm định tài chính dự án giúp ngân hàng có thể đưa ra các quyết định quan trọng như: chấp nhận cho vay với dự án nào thì có hiệu quả hơn. Nhìn tổng thể, thẩm định tài chính dự án giúp ngân hàng tích lũy được những kinh nghiệ m và rút ra những bài học quý báu để hoàn thiện các nguồn vốn cho vay, đầu tư cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Tóm lại, có thể nói thẩm định tài chính dự án là nội dung cần thiết, quan trọng và phức tạp nhất trong quá trình thẩm định dự án. Công tác này đòi hỏi sự tổng hợp tất cả các biến cố tài chính, kỹ thuật, thị trường, ...đã được lượng hóa trong các nội dung thẩm định trước nhằm phân tích, tạo ra các bảng dự trù tài chính, những chỉ tiêu tài chính phù hợp và có ý nghĩa. Đây chính là nội dung của hoạt động thẩm định tài chính dự án, là kim chỉ nam, tạo tiền đề cho quyết định tài trợ của ngân hàng. 1.2. Thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của NHTM. 1.2.1. Đặc điểm dự án Đầu tư là hoạt động quan trọng của bất kỳ tổ chức nào trong nền kinh tế. Đó là hoạt động bỏ vốn với hy vọng sẽ đạt được lợi ích tài chính, kinh tế xã hội trong tương lai. Ngày nay, nhằm tối đa hóa hiệu quả đầu tư, các hoạt động đầu tư đề được thực hiện theo dự án. Khái niệm về dự án ở Việt Nam, trong “Quy chế đầu tư và xây dựng” theo Nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày 08 tháng07 năm 1999 : Dự án là một tập hợp những đề xuất có liên quan đến việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải tiến, nâng cao chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thời gian xác định. Có quan điểm khác lại cho rằng : dự án là hoạt động đặc thù tạo nên một thực tế mới một cách có phương pháp với nguồn lực đã định. Dự án được xem xét dưới nhiều góc độ nhưng tổng hợp lại có thể hiểu: “ Dự án là tập hợp các hoạt động kinh tế đặc thù quan hệ mật thiết với nhau nhằm thực hiện mục tiêu cụ thể trong tương lai trên cơ sở nguồn lực và thời gian xác định bằng những phương pháp nhất định ”
  7. Dự án đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với các chủ đầu tư, các nhà quản lý và tác động trực tiếp tới tiến trình phát triển kinh tế xã hội. Nếu có dự án, nền kinh tế sẽ khó nắ m bắt được cơ hội phát triển. Dự án là căn cứ quan trọng để quyết định bỏ vốn đầu tư, xây dựng kế hoạch đầu tư và theo dõi quá trình thực hiện đầu tư. Dự án là căn cứ để các tổ chức tài chính đưa ra quyết định tài trợ, các cơ quan chức năng của Nhà nước phê duyệt và cấp giấy phép đầu tư. Dự án còn được coi là công cụ quan trọng quản lý vốn, vật tư, lao động trong quá trình thực hiện dự án. Đặc điểm của dự án: * Dự án không chỉ là một ý tưởng phác thảo mà còn có hàm ý hành động với mục tiêu cụ thể. Nếu không có hành động thì dự án chỉ vĩnh viễn tồn tại ở trạng thái tiềm năng. * Dự án không phải là một nghiên cứu trừu tượng hay ứng dụng mà phải nhằm đáp ứng một nhu cầu cụ thể đã được đặt ra, tạo nên một thực thể mới. * Được thực hiện trong một môi trường bất định. Môi trường Chính trị, Kinh tế-Xã hội, Tự nhiên tác động tới quá trình thực hiện dự án. * Dự án bị khống chế bởi thời hạn. * Nó bị ràng buộc về mặt nguồn lực. Thông thường, các dự án bị ràng buộc về vốn, vật tư, lao động. * Mức độ rủi ro đối với một dự án thường là rất lớn và dễ xẩy ra do thời gian thực hiện dài. Phân loại dự án : Trên thực tế, các dự án rất đang dạng về cấp độ, loại hình, quy mô và thời hạn và được phân loại theo nhiều cách thức khác nhau. ở nhiều nước trên thế giới người ta phân dự án theo một số tiêu thức sau: - Theo cơ cấu tái sản xuất: + Dự án theo chiều rộng: dự án này có số vốn lớn để khô đọng lâu, thời gian thực hiện dài và thời gian thu hồi vốn lâu, tính chất kỹ thuật phức tạp, độ mạo hiểm cao. + Dự án theo chiều sâu: Đòi hỏi khối lượng ít hơn, thời gian thực hiện đầu tư không lâu, độ mạo hiểm thấp hơn so với dự án theo chiều rộng. - Theo lĩnh vực hoạt động: + Dự án phát triển sản xuất kinh doanh + Dự án phát triển khoa học kỹ thuật + Dự án phát triển cơ sở hạ tầng (kỹ thuật và xã hội) - Theo nguồn vốn:
  8. + Dự án có vốn huy động trong nước (vốn tích lũy của ngân sách , của doanh nghiệp, tiết kiệm của dân cư) + Dự án có vốn nước ngoài ( đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp) .... ở Việt nam, theo “Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng” ban hành kèm theo Nghị định số 12/2000/NĐ-CP ngày 5-5-2002 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung Nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày 8-7-1999 thì dự án được phân ra thành các nhóm A, B, C. 1.2.2. Khái niệm về thẩm định tài chính dự án . Thẩm định tài chính dự án là việc rà soát, đánh giá một cách toàn diện và khoa học mọi khía cạnh tài chính của dự án trên giác độ của nhà đầu tư. Nếu như Chính phủ, các cơ quan quản lý vĩ mô quan tâm nhiều hơn đến hiệu quả kinh tế xã hội của dự án thì các nhà đầu tư lại quan tâm nhiều hơn đến khả năng sinh lãi của dự án. Thẩm định tài chính dự án là nội dung rất quan trọng trong thẩm định dự án. Cùng với thẩm định kinh tế, thẩm định tài chính giúp các nhà đầu tư có những thông tin cần thiết để đưa ra quyết định đầu tư đúng đắn. Song đối với ngân hàng thương mại, khi tiến hành thẩm định tài chính dự án thường quan tâm hơn đến khả năng trả nợ của dự án, hay nói cách khách chính là ngân hàng có thể thu hồi cả gốc và lãi vay của mình sau khi tài trợ cho dự án hay không. Có thể ngay cả lúc ngân hàng thấy dự án của doanh nghiệp có NPV
  9. nghiệm ở khâu thẩm định dự án sau đầu tư, ngân hàng cần phải so sánh, nếu thấy có sự khác biệt lớn thì phải tìm ra được nguyên nhân, từ đó đưa ra nhận xét. Công việc đó giúp cho ngân hàng có thể xác định mức vốn đầu tư hợp lý cho dự án trên cơ sở vẫn bảo đảng được các mục tiêu mà dự án đặt ra, từ ngân hàng có thể xác định mức tài trợ tối đa của ngân hàng khi tham gia dự án. Nhìn chung tổng vốn đầu tư mà ngân hàng thẩm định bao gồm hai yếu tố chính: Vốn đầu tư tài sản cố định và vốn đầu tư tài sản lưu động: - Vốn đầu tư tài sản cố định chính là những chi phí đầu tư ban đầu như: máy móc, trang thiết bị. công nghệ, chi phí cho đầu tư xây dự cơ bản.. hoặc đầu tư bổ sung chúng trong quá trình thực hiện dự án - Vốn lưu động bao gồm chi phí nguyên vật liệu, điện nước, nhiên liệu,..và thành phẩm tồn kho, hàng hoá bán chịu, vốn bằng tiền.. Ngoài hai khoản chính trên thì trong tổng vốn đầu tư còn có: lãi vay ròng thời gian thi công, vốn dự phòng của dự án, vốn để bù đắp các khoản chi phí như điều tra, khảo sát, tư vấn thiết kế... Thực chất việc thẩm định tổng vốn đầu tư giúp ngân hàng kiểm tra lại số vốn mà nhà đầu tư dự tính đã chính xác hay không. Thẩm định nguồn tài trợ cho dự án Đối với một dự án thường có hai nguồn tài trợ chính đó là: - Nguồn từ nhà đầu tư - Nguồn từ bên ngoài: do ngân sách nhà nước cấp, vay các ngân hàng thương mại, vốn cổ phần, vốn liên doanh,... Để bảo đảm tiến độ thực hiện của dự án, đồng thời tránh ứ đọng vốn, các nguồn tài trợ không chỉ xem xét về mặt số lượng mà còn cả về thời điểm nhận tài trợ. Các nguồn tài trợ phải được bảo đảm chắc chắn trên cơ sở pháp lý và cơ sở thực tế. Cơ sở pháp lý: Bất kỳ nguồn vốn nào cũng đều có giấy tờ, văn bản xác nhận của cơ quan, các cấp có thẩm quyền. Chẳng hạn nếu nguồn tài trợ là Ngân sách cấp hoặc ngân hàng cho vay thì phải có văn bản của các cơ quan này, nếu là vốn góp cổ phần hoặc liên doanh thì phải có văn bản về tiến độ và số lượng vốn góp của mỗi bên. Nếu là vốn tự có thì phải giải trình về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của cơ sở 3 năm trước đây và hiện tại để chứng tỏ cơ sở đã và đang hoạt động có hiệu quả, có đủ khả năng thực hiện dự án. Cơ sở thực tế: dự trên quy mô và tiến độ giải ngân của các nguồn tài trợ
  10. - Quy mô: thông qua việc xem xét các nguồn tài trợ và so sánh với nhu cầu vốn đầu tư thì sẽ biết được số vốn còn thiếu và mức cho vay đối với dự án. Ngoài ra ngân hàng phải đánh giá các yếu tố khác như : nguồn tài trợ từ các ngân hàng khác có thoả mãn những quy định pháp lý không. Nếu các ngân hàng cùng tham gia góp vốn thì các yếu tố về nguồn tài trợ còn phải được các ngân hàng cùng xem xét và ra quyết định thống nhất. - Tiến độ giải ngân của các nguồn tài trợ cũng phải được dự tính kỹ lưỡng, đặc biệt là đối với các dự án có thời gian dài. Thông thường các công trình đầu tư bằng phương thức cho vay dài hạn thì sẽ phân tiến độ giải ngân phải làm sao cho phù hợp với tiến độ của dự án tránh tình trạng dự án thiếu vốn, hay có khi lại thừa vốn làm giảm hiệu quả của dự án. Sự phối hợp nhịp nhàng giữa ngân hàng và nhà đầu tư sẽ làm cho dự án được thực hiện một cách có hiệu quả. Thẩm định các bảng dự tính doanh thu - chi phí, lợi nhuận từ hoạt động của dự án. Sau khi đề cập tới nhu cầu vốn, giải trình các nguồn trả nợ, hồ sơ dự án sẽ trình bày về giá thành, chi phí sản xuất, giá bán sản phẩm, doanh thu, lợi nhuận của dự án. Trong phần này các ngân hàng thương mại thường thẩm định các yếu tố: - Chi phí Chi phí cơ bản của dự án về cơ bản gồm: + Nguyên, nhiên vật liệu + Chi phí nhân công + Chi phí trả lãi + Chi phí quản lý doanh nghiệp + Chi phí khấu hao tài sản cố định + Chi phí phân xưởng + Chi phí sửa chữa máy móc thiết bị Trong khi thẩm định về chi phí thì cán bộ tín dụng phải dựa vào các định mức mà nhà nước đã công bố, kết hợp với giá cả thực trên thị trường để xác định xem việc xác định chi phí của dự án đã hợp lý chưa. - Giá thành đơn vị sản phẩm: được tính với giá của các sản phẩm cùng loại trên thị trường. - Doanh thu : Doanh thu của dự án là tổng các giá trị bán ra và được người mua chấp nhận trả tiền của hàng hoá và dịch vụ, bao gồm : doanh thu từ sản phẩm chính, sản phẩm phụ, phế liệu và dịch vụ cung cấp cho bên ngoài.
  11. Nó phụ thuộc rất nhiều vào công suất thực hiện, mức tiêu thụ, và giá cả thị trường. Trong khi kiểm tra doanh thu, ngân hàng phải chú ý tới công suất thiết kế của sản phẩm cũng như khả năng tiêu thụ sản phẩm vì trong năm đầu tiên, công suất thực hiện thường thất hơn so với thiết kế và mức tiêu thụ cũng thất. - Lợi nhuận : Lợi nhuận của dự án được hiểu là phần chênh lệch giữa doanh thu bán hàng hoá, dịch vụ và các chi phí (trong và ngoài sản xuất). EBIT là phần chênh lệch giữa doanh thu và các khoản chi phí chưa tính lãi vay. Lấy EBIT mà trừ đi lãi vay thì được lợi nhuận trước thuế. Lấy lợi nhuận trước thuế trừ đi thuế thu nhập doanh nghiệp thì được lợi nhuận sau thuế. Nếu mà dự án chỉ là quá trình bổ sung vào quá trình sản xuất chung của doanh nghiệp hay là sản phẩm được tạo ra từ dự án không phải là sản phẩm cuối cùng thì lợi nhuận của dự án kiểu này được tính bằng sự chênh lệch của lợi nhuận trước và sau khi có dự án. Thẩm định dòng tiền của dự án, khả năng trả nợ của dự án. * Thẩm định dòng tiền của dự án : Đối với Ngân hàng thì chỉ tiêu mà họ quan tâm nhất không giống như doanh nghiệp đó là chi phí sản xuất, doanh thu, lợi nhuận từ dự án... mà là dòng tiền của dự án. Bởi vì dòng tiền của dự án là cơ sở để phân tích, đánh giá dự án có hiệu quả về mặt tài chính hay không. Dòng tiền của dự án là sự chênh lệch giữa lượng tiền nhận được với lượng tiền chi ra của dự án. Phân tích dòng tiền là một nội dung, một căn cứ quan trọng để đánh giá dự án về mặt tài chính. Tuy nhiên cần phân biệt khái niệm này với khoản thu nhập của bản báo cáo kết quả kinh doanh được lập theo hệ thống kế toán. Sự khác biệt ở đây vì theo phương pháp kế toán việc xác định những khoản thu nhập , chi phí trên cơ sở việc thu, chi đã thực hiện xong còn việc xác định dòng tiền thì tính các khoản thu, chi ở thời điểm ghi nhận hiện tại (những khoản thu chi thực xuất hoặc thực nhập quỹ). Việc xác định dòng tiền ở đây là dòng tiền sau thuế vì đây là dòng tiền mà sẵn sàng cho việc sử dụng, chia lãi hay tái đầu tư. Từ đó mà việc tính toán dòng tiền thì chỉ dùng các số liệu ngoài thuế. Trong hoạt động thẩm định tài chính dự án , các dòng tiền thường được ngân hàng thẩm định bao gồm các nội dung sau: - Xác định các dòng tiền vào của dự án : Dòng tiền vào được tính chính là toàn bộ doanh thu ngoài thuế từ dự án ( khoản thực nhập quỹ). Xác định giá trị thu hồi tài sản cố định: Hầu hết các dự án đều có giá trị thu hồi tài sản cố định. Khoản này là khoản thu nhập bất thường của dự án. Khi tài sản cố định được thu hồi
  12. ( thường là vào năm cuối của dự án) thì sẽ xuất hiện một dòng tiền vào có ảnh hưởng đến dòng tiền ròng của dự án. Vì vậy, mà khi trường hợp này xảy ra thì dòng tiền năm cuối của dự án sẽ được cộng thêm thu nhập sau thuế của hoạt động đó. - Xác định các dòng tiền ra của dự án : bao gồm toàn bộ chi phí xuất quỹ của dự án. + Chi phí đầu tư trang thiết bị : ở đây không chỉ đơn thuần là giá mua trên hoá đơn mà con bao gồm tất cả các chi phí đưa nó vào hoạt động. Ví dụ như chi phí vận chuyển , bảo hiểm, lắp đặt , ...Ngoài ra nó còn bao gồm cả chi phí cơ hội mà khó có thể lượng hoá được một cách chính xác. + Xác định khấu hao: Trong báo cáo thu nhập của kế toán, khấu hao được khấu trừ vào chi phí để xác định lợi nhuận trong kỳ. Mặc dù đây là một chi phí kế toán nhưng nó không phải là chi phí xuất quỹ cho nên khi tính thu nhập ròng của dự án, khấu hao không phải chi bằng tiền mà chỉ là một yếu tố là giảm thuế thu nhập doanh nghiệp. Vì vậy mà nó tác động một cách gián tiếp đến dòng tiền sau qua thuế. Khi khấu hao thay đổi thì sẽ làm thay đổi mức thuế phải nộp, mà thuế lại là một dòng tiền thực nên nó lại làm ảnh hưởng đến dòng tiền sau thuế. Việc tăng khấu hao có thể tác động tới chi phí theo hai hướng: khấu hao lớn sẽ làm tăng chi phí, giảm lợi nhuận trước thuế, giảm lợi nhuận sau thuế và từ đó làm giảm dòng tiền; mặt khác khấu hao lớn lại làm xuất hiện một khoản tiết kiệm thuế thu nhập doanh nghiệp và từ đó làm dòng tiền có xu hướng tăng lên. Do vậy mà khấu hao được coi là một nguồn thu của dự án . + Xác định chi phí lãi vay: là một khoản chi phí và là một khoản chi tiêu bằng tiền thực nhưng nó không được đưa vào dòng tiền vì lãi vay tượng trưng cho giá trị thời gian của tiền và khoản này được tính bằng cách chiết khấu dòng tiền tương lai. Dòng tiền ròng từng năm của dự án (CFi) có thể được tính theo công thức: Lợi nhuận Khấu Thu hồi Lợi nhuận sau sau hao CFi = + + vốn lưu + thuế từ hoạt động thuế năm năm thứ động bất thường thứ i i Hay: CFi = Tổng các dòng - Tổng các dòng
  13. tiền vào năm thứ i tiền ra năm thứ i Tóm lại, việc xác định dòng tiền của dự án có thể coi là khâu quan trọng nhất trong quá trình thẩm định tài chính dự án tại ngân hàng thương mại. Vì đây là cơ sở để ngân hàng xem xét khả năng trả nợ của dự án. * Thẩm định khả năng trả nợ của dự án: Nguồn trả nợ của dự án thường được xác định hàng năm. Trên lý thuyết thì nó là dòng tiền ròng của dự án (CFi), nghĩa là bao gồm cả lợi nhuận sau thuế và khấu hao tài sản cố định. Trên thực tế nguồn trả nợ chủ yếu là toàn bộ khấu hao và một phần lợi nhuận sau thuế ( phần kia dùng để tái đầu tư hoặc đầu tư vào dự án khác ). Từ nguồn trả nợ này, ngân hàng có thể tính được tỷ lệ đảm bảo trả nợ của dự án từng năm: Nguồn trả nợ năm thứ i Tỷ lệ đảm bảo trả = nợ năm thứ i Số nợ phải trả năm thứ i Nếu tỷ lệ này càng cao và đạt 100% thì càng tốt và ngược lại. Trong trường hợp tỷ lệ bảo đảm trả nợ thấp tức là nguồn trả nợ từ dự án không đủ thì ngân hàng cần yêu cầu nhà đầu tư giải trình các nguồn khác để trả nợ chẳng hạn như: thanh lý tài sản cố định , thu hồi vốn lưu động ròng hoặc nguồn vốn vay khác... Thẩm định tỷ lệ chiết khấu Tuỳ theo các quan điểm khác nhau, cách dự tính tỷ lệ này có thể khác nhau. Song thực chất, đó là lãi suất mong đợi của nhà đầu tư. Việc xác định một tỷ lệ chiết khấu hoàn toàn chính xác là rất khó. Tỷ lệ chiết khấu là chi phí cơ hội của nhà đầu tư vào dự án mà không đầu tư trên thị trường vốn. Tỷ lệ này thường được tính bằng tỷ lệ thu nhập của các tài sản tài chính tương đương. Hiện tại chúng ta vẫn giả thiết rằng tỷ lệ chiết khấu không thay đổi trong suốt thời gian của dự án. Tuy nhiên điều đó là không hoàn toàn chính xác. Giả sử vốn vào thời điểm này rất khan hiếm so với trước đây, trong tình huống này ta thấy chi phí của vốn vào thời điểm hiện tại sẽ cao một cách bất thường và tỷ lệ chiết khấu sẽ giảm dần trong lúc cung cầu về vốn trở lại mức bình thường. Ngược lại, nếu hiện tại dư thừa về vốn, thì chúng ta dự chiến chi phí vốn và tỷ lệ chiết khấu sẽ xuống thấp hơn mức bình quân dài hạn, trong trường hợp này chúng ta dự kiến tỷ lệ chiết khấu sẽ tăng lên khi cung cầu về vốn quay trở lại xu hướng dài hạn. Do vậy mà giá trị hiện tại ròng (NPV) của dự án nên tính:
  14. n Bt  Ct  NP = B0 - C0 + t  (1  r ) V t1 i i 1 Ngoài ra một yếu tố hết sức quan trọng cần phải tính đến trong khi dự tính tỷ lệ chiết khấu đó là tỷ lệ lạm phát. Thẩm định các chỉ tiêu đánh giá dự án về mặt tài chính dự án. Thực chất, một dự án mang tính thuyết phục và khả thi để đưa ra quyết định tài trợ phụ thuộc rất lớn vào vào việc lựa chọn chỉ tiêu đánh giá dự án đó về mặt tài chính. Bởi lẽ có rất nhiều chỉ tiêu đánh giá dự án đó về mặt tài chính, trong đó mỗi chỉ tiêu có một ưu điểm và nhược điểm riêng. Đối với ngân hàng thương mại thì chỉ sử dụng một số chỉ tiêu làm cơ sở để ra quyết định, các chỉ tiêu khác lúc đó chỉ có giá trị tham khảo. Các chỉ tiêu đánh giá dự án về mặt tài chính thường được sử dụng có thể kể đến: - Giá trị hiện tại ròng (NPV) - Tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR) - Thời gian hoàn vốn nội bộ (PP) - Chỉ số doanh lợi (PI) * Chỉ tiêu giá trị hiện tại ròng (NPV): Giá trị hiện tại ròng (NPV) của một dự án là sự chênh lệch giữa giá trị hiện tại của các dòng tiền ròng kỳ vọng trong tương lai với giá trị hiện tại của vốn đầu tư. Ta có công thức : n CF CF1 CFn CF2  t NPV = - CF0 = - CF0 + + + + + (1  r ) 2 (1  r )n 1 (1  r ) (1 r)t t1 Hoặc : n  (B rC t t NPV = t 1) t0
  15. Trong đó: n : Số năm tính từ thời điểm đầu tư đến khi kết thúc dự án r : Tỷ lệ chiết khấu áp dụng cho dự án CF0 : Vốn đầu tư ban đầu Bt : Thu nhập của dự án năm thứ t C t : Chi phí của dự án năm thứ t CFt hay ( Bt - C t ): dòng tiền ròng của dự án năm thứ t NPV đo lường phần giá trị tăng thêm dự tính dự án sẽ đem lại cho nhà đầu tư với mức rủi ro cụ thể của dự án. Có thể thấy NPV cho biết chi phí cơ hội của vốn đầu tư, xác định kết quả sử dụng nguồn lực - chủ yếu là vốn - cho dự án có mang lại lợi ích lơn hơn các nguồn lực đã sử dụng hay không. Nếu dự án độc lập thì dự án nào có NPV  0 thì sẽ được lựa chọn, dự án có NPV0, dự án nào có NPV lớn nhất sẽ được chọn. Để xác định chính xác tỷ lệ chiết khấu của từng dự án là một việc không đơn giản. Có thể hiểu tỷ lệ chiết khấu là phần lợi nhuận thích hợp bù đắp rủi ro. Tỷ lệ này có mối quan hệ chặt chẽ với NPV, khi tỷ lệ chiết khấu tăng lên thì NPV của dự án sẽ giảm xuống và ngược lại. Trường hợp tỷ lệ chiết khấu mà tại đó npv bằng 0 thì chính là tỷ lệ hoàn vốn nội bộ của dự án. ưu điểm của NPV: Phương pháp tính dựa trên cơ sở chiết khấu các dòng tiền (tức là hiện tại hoá giá trị thời gian của dòng tiền trong tương lai) là hoàn toàn hợp lý. Trong công thức này chúng ta đã coi tỷ lệ chiết khấu là tỷ lệ lãi suất mà tại đó các luồng tiền có thể được tái đầu tư ( có nghĩa chi phí vốn của dự án cũng thích hợp). Cách thức lựa chọn theo NPV về bản chất là phù hợp bởi nó cho phép lựa chọn được các dự án làm tối đa hoá giá trị của chủ đầu tư. Nhược điểm: Độ chính xác của chỉ tiêu này phụ thuộc rất nhiều vào tỷ lệ chiết khấu r - chi phí vốn của doanh nghiệp - nhưng trên thực tế việc xác định tỷ lệ chiết khấu là rất khó khăn, hơn nữa tỷ lệ chiết khấu cũng chịu nhiều yếu tố tác động khác đặc biệt là lạm phát. Chỉ tiêu này ngào ra cũng chỉ phản ánh được quy mô sinh lời (số tuyệt đối) mà chưa phản ánh được hiệu quả sinh lời (số tương đối) của dự án. Do vậy với các dự án khác nhau về
  16. thời gian, dùng NPV không có nhiều ý nghĩa hoặc giả sử vẫn sử dụng thì đòi hỏi các tính toán khá phức tạp. * Chỉ tiêu hoàn vốn nội bộ (IRR): Chỉ tiêu hoàn vốn nội bộ là chỉ tiêu dùng để đo lường tỷ lệ hoàn vốn đầu tư của một dự án. Về mặt kỹ thuật tính toán, IRR của một dự án là tỷ lệ chiết khấu mà tại đó NPV=0 Công thức : n n Bt  Ct CF   (1  irr ) t = = 0 (1  irr ) t t t0 t0 Thông thường người ta tính IRR bằng nội suy tuyến tính tức là chọn ra hai mức lãi suất chiết khấu : r1 và r2 sao cho NPV(r1) >0 và NPV(r2) < 0. Chênh lệch giữa hai tỷ lệ chiết khấu này càng ít thì việt nội suy càng chính xác (thông thường chênh lệch không quá 0,05). Sau đó áp dụng công thức: NPV1 (r1  r2 ) = r1 + irr NPV1  NPV2 Với sự xuất hiện của những phần mềm kế toán-tài chính thì việc tính IRR là hết sức đơn giản. Ví dụ như trong Microsoft Exel thì ta có thể sử dụng hàm IRR. IRR cho biết tỷ lệ sinh lời cần thiết của dự án. Nó chính là chi phí vốn bình quân cao nhất mà nha đầu tư có thể chấp nhận mà không chịu thua thiệt (NPV  0). Nếu toàn bộ số tiền đầu tư cho dự án đều là vốn vay thì IRR được coi là lãi suất tiền vay cao nhất mà nhà đầu tư có thể chấp nhận được. Khi IRR=r thì tức là toàn bộ các khoản thu từ dự án chỉ đủ để hoàn trả phần vốn gốc và lãi đầu tư ban đầu vào dự án. Đối với những dự án độc lập thì lựa chọn dự án có IRR lớn hơn hoặc bằng chi phí vốn bình quân của dự án. Đối với các dự án phụ thuộc, loại trừ lẫn nhau thì trong các dự án có IRR lớn hơn hoặc bằng chi phí vốn bình quân của dự án thì chọn dự án có IRR lớn nhất. Ưu điểm: IRR cũng như NPV đã tiếp cập hiệu quả của dự án trên cơ sở giá trị thời gian của tiền, đây là một cách tiếp cận đúng đắn. tuy nhiên so với chỉ tiêu NPV, chỉ tiêu IRR đã giải quyết được vấn đề lựa chọn giữa các dự án có thời gian khác nhau. Trong
  17. thực tế người ta thường dùng cả hai chỉ tiêu NPV và IRR để tận dụng được ưu điểm của cả hai. Về mặt toán học, NPV và IRR sẽ đưa đến cùng một quyết định chấp nhận hay bác bỏ đối với những dự án độc lập. Tuy nhiên đối với những dự án loại trừ, hai chỉ tiêu này có thể đưa đến kết quả khác nhau. Trong trường hợp này các nhà phân tích cho rằng kết quả của NPV có ý nghĩa hơn . Nhược điểm: IRR chưa đề cập đến độ lớn, quy mô của dự án , do vậy sẽ không hiệu quả nếu sử dụng chỉ tiêu IRR để lựa chọn những dự án loại trừ có quy mô khác nhau. Ngoài ra, với những dòng tiền đổi dấu liên tục sẽ dẫn tới có nhiều kết quả IRR ( thoả mãn phương trình NPV=0), do đó trong trường hợp này IRR sẽ không áp dụng được. Bên cạnh đó, nhược điểm lớn nhất của IRR là nó giả định thu nhập ròng của dự án được tái đầu tư tại tỷ lệ lãi suất IRR. Điều này thực sự không chính xác làm tỷ lệ thích hợp nhất phải là chi phí vốn bình quân của dự án. Để khắc phục nhược điểm trên , người ta điều chỉnh chỉ tiêu IRR và đưa ra chỉ tiêu MIRR (tỷ suất hoàn vốn nội bộ có điều chỉnh). Đây là tỷ lệ chiết khấu mà tại đó giá trị hiện tại của chi phí đầu tư bằng giá trị hiện tại của tổng giá trị tương lai của các dòng tiền thu được từ dự án với giả định các dòng tiền này được tái đầu tư tại tỷ lệ lãi suất bằng chi phí vốn bình quân ( Ký hiệu là k). Ta có công thức tính MIRR như sau: n n 1  B (1  k ) n C t  (1  tk ) t = t 0 (1  MIRR) n t 0 * Chỉ tiêu thời gian hoàn vốn nội bộ (PP): Thời gian hoàn vốn nội bộ của một dự án là độ dài thời gian cần thiết thu hồi đủ vốn đầu tư ban đầu. Để tính chính xác PP, các dòng tiền ở đây phải quy về giá trị hiện tại lúc này PP còn có thể gọi là thời gian thu hồi vốn chiết khấu. Công thức: Số năm ngay trước Chi phí chưa được bù đắp đầu năm các năm dòng tiền PP = + Giá trị hiện tại dòng tiền thu được trong đủ đáp ứng được chi năm phí
  18. Chỉ tiêu PP cho biết sau bao nhiêu lâu thì dự án có thể đem lại số vốn đã đầu tư ban đầu. Ngoài ra PP còn cũng cho biết mức độ rủi ro của dự án , một dự án có PP càng ngắn thì tính thanh khoản của dự án càng cao và ngược lại. Người ta thường sử dụng chỉ tiêu này để lựa chọn các dự án loại trừ nhau có, dự án nào có PP ngắn hơn thì sẽ được chọn. Ưu điểm: Chỉ tiêu PP đơn giản, dễ áp dụng. Ngoài việc cho biết thời gian thu hồi vốn dự kiến còn cho biết mức độ rủi ro của dự án. Nhược điểm: Phương pháp đánh giá theo chỉ tiêu PP có nhiều nhược điểm hơn so với các phương pháp khác: + Phần thu nhập của dự sau thời gian hoàn vốn được bỏ qua hoàn toàn, như vậy phương pháp này đã không đề cập một cách đầy đủ hiệu quả tài chính của toàn bộ dự án. + Yếu tố rủi ro đối với luồng tiền tương lai của dự án không được xem xét. Do đó, khi sử dụng chỉ tiêu PP nếu không chiết khấu các dòng tiền sẽ không đảm bảo tính chính xác và thông thường sẽ cho kết quả khả quan hơn thực tế. + Yếu tố thời gian của tiền tệ không được đề cập. + Xếp hạng các dự án không phù hợp với mục tiêu tối đa hoá giá trị vốn chủ sở hữu. * Chỉ tiêu doanh lợi (PI): Chỉ tiêu doanh lợi (PI) được tính dựa vào mối quan hệ tỷ số giữa giá trị hiện tại của các dòng tiền dự án mang lại so với giá trị của đầu tư ban đầu. Nó phản ánh 1 đơn vị đầu tư sẽ mang lại bao nhiêu đơn vị giá trị . Nếu PI lớn lơn 1 thì có nghĩa là dự án mang lại giá trị cao hơn chi phí và khi đó có thể chấp nhận được. Công thức: n CFt  (1  r) t t 1 PI  CF0 Ưu điểm: Nó có mối quan hệ chặt chẽ với chỉ tiêu NPV, thường cùng đưa tới một quyết định. Ngoài ra nó còn dễ hiểu và dễ diễn đạt. Nhược điểm: Do chỉ tiêu chỉ đưa lại số tương đối nên khó sử dụng trong một số trường hợp, ví dụ như đối với việc lựa chọn hai dự án loại trừ nhau
  19. Cả bốn chỉ tiêu : NPV, IRR, PP và PI đều bổ sung cho nhau và về căn bản không có gì trái ngược nhau khi đánh giá dự án về mặt tài chính. Trên cơ sở biết được ưu điểm và nhược điểm của từng chỉ tiêu mà có thể sử dụng chúng một cách linh hoạt nhằm đem lại hiệu quả tốt nhất. Nói tóm lại, có rất nhiều phương pháp, nhiều chỉ tiêu nhằm thẩm định tài chính một dự án. Trong thực tế, tuỳ vào từng dự án cụ thể mà cũng như tuỳ vào từng mục đính của nhà thẩm định dự án mà sẽ lựa chọn chỉ tiêu phù hợp làm cơ sở cho việc đưa ra các quyết định. Đây cũng là một trong những nhân tố rất quan trọng để đánh giá chất lượng thẩm định tài chính dự án. 1.3. Chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của NHTM 1.3.1. Quan niệm về chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của NHTM Cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa chuẩn về chất lượng thẩm định tài chính dự án bởi lẽ đây là một khái niệm khá trừu tượng và rất khó lượng hoá. Tuỳ vào các góc độ, mục tiêu đánh giá của chủ thể nghiên cứu mà có những quan niệm khác nhau về chất lượng thẩm định tài chính dự án. Đối với Ngân hàng thương mại thì chất lượng thẩm định tài chính dự án được đánh giá dựa trên : - Mức độ khoa học, chính xác, toàn diện và sâu sắc của các kết quả thẩm định tài chính thông qua việc phân tích kế hoạch vốn đầu tư, nguồn trả nợ, dòng tiền của dự án, các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính, khả năng trả nợ, mức độ rủi ro của dự án,... và vai trò của các kết quả đó đối với việc đưa ra quyết định đúng đắn của ngân hàng. -Sự phù hợp của các dự đoán so với thực tế khi dự án được thực hiện. Điều này được thể hiện ở các chỉ tiêu : sự tăng trưởng của dư nợ cho vay theo dự án của ngân hàng, tỷ lệ nợ quá hạn, nợ khó đòi trong cơ cấu cho vay trung và dài hạn. -Bên cạnh đó còn có một số yếu tố như: thủ tục, thời gian thẩm định nhanh chóng, sự thuận tiện trong quá trình thẩm định,... Ngoài ra còn có một số quan niệm khác. Nhìn chung, chất lượng thẩm định tài chính dự án được đánh giá tốt khi đưa ra được các phân tích , dự đoán chính xác, khách quan về hiệu quả tài chính của dự án giúp ngân hàng đưa ra quyết định tài trợ hay không tài trợ cho dự án.
  20. Trong trường hợp dự án được sự chấp nhận tài trợ của ngân hàng thì chất lượng thẩm định tài chính dự án được kiểm chứng chính là trong quá trình dự án được triển khai và đi vào hoạt động. Khi đó, chất lượng thẩm định tài chính dự án cao thì với sự thay đổi của các yếu tố khác (thị trường, kỹ thuật,...) sẽ phải được lường trước, đảm bảo dự án vẫn được thực hiện theo dự kiến, góp phần đem lại hiệu quả tài chính cho các nhà đầu tư cũng như sự an toàn và sinh lợi cho ngân hàng. Ngược lại, nếu chất lượng thẩm định tài chính dự án thấp sẽ dẫn tới các dự toán kém chính xác gây nhiều khó khăn cho ngân hàng trong quyết định cho vay. Bởi vì, thứ nhất, nếu các phân tích, dự đoán kém chính xác thì khó có thể đưa ra quyết định cho vay của ngân hàng. Thứ hai, nếu ngân hàng quyết định cho vay thì sẽ khó có khả năng thu hồi vốn. Lúc đó thì dự án sẽ trở thành những khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi đối với ngân hàng. Mặc dù trên thực tế, trong nhiều trường hợp, một số dự án hoạt động không hiệu quả lại xuất phát từ các nguyên nhân như: chất lượng thẩm các nội dung ngoài tài chính chưa cao, sự thay đổi bất ngờ của các yếu tố thị trường, kỹ thuật, công nghệ, công nghệ, quản lý kém giai đoạn thi công,.. song nguyên nhân chủ yếu vẫn là do chất lượng thẩm định tài chính dự án chưa đạt yêu cầu. Do vậy, muốn nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đòi hỏi phải nghiên cứu kỹ các nhân tố tác động đến chất lượng của công tác này. 1.3.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của NHTM. Có rất nhiều nhân tố tác động làm ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến chất lượng thẩm định tài chính dự án nhưng tổng kết lại có thể chia thành hai nhóm nhân tố chính: nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan. Trong đó nhân tố chủ quan chính là nhưng nhân tố xuất phát từ ngân hàng thương mại, nhân tố khách quan xuất phát từ chủ đầu tư và môi trường vĩ mô. Về phía Ngân hàng thương mại Các nhân tố cần quan tâm đó là: Đội ngũ cán bộ thẩm định, quy trình và phương pháp tiến hành thẩm định tài chính dự án, quá trình thẩm định các yếu tố khác, việc tổ chức, điều hành thực hiện công tác thẩm định. * Đội ngũ cán bộ thẩm định Đây là nhân tố quan trọng nhất quyết định đến chất lượng thẩm định tài chính dự án. Bởi vì lẽ con người là chủ thể trực tiếp tổ chức và thực hiện hoạt động thẩm định tài chính dự
nguon tai.lieu . vn