Xem mẫu

  1. LUẬN VĂN: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện dịch vụ thanh toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Quận Hai Bà Trưng
  2. Lời mở đầu Trong hoạt động của nền kinh tế, với tư cách là một trung gian tài chính, Ngân hàng thương mại (NHTM) thực hiện chức năng điều hoà vốn thông qua nghiệp vụ huy động vốn nhàn rỗi trong các bộ phận dân cư và thực hiện cho vay đối với các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và các bộ phận dân cư khác. Với chức năng cơ bản này, NHTM đã cung cấp vốn cho mọi hoạt động của nền kinh tế, đáp ứng các nhu cầu vốn một cách kịp thời cho quá trình tái sản xuất, là cầu nối giữa đầu tư và tiết kiệm, giữa doanh nghiệp với thị trường, giúp nền kinh tế vận hành tốt. Bên cạnh đó, NHTM có chức năng vô cùng quan trọng khác mà thiếu nó NHTM không còn là một trung gian tài chính của nền kinh tế, đó là chức năng thanh toán. Thực hiện tốt chức năng này là điều kiện để NHTM hoạt động có hiệu quả, thu lợi nhuận và hơn nữa, giúp cho NHTM hoàn thành tốt tất cả các chức năng khác. Ngoài ra, NHTM còn cung cấp các dịch vụ tài chính và kinh doanh tiền tệ khác. Đi ngược lại lịch sử phát triển của tiền tệ, từ thời xa xưa con người đã biết sử dụng những công cụ thanh toán thô sơ đầu tiên như vỏ sò, vỏ hến ... đến các kim loại quý hiếm như đồng, bạc, vàng ... làm vật ngang giá chung trong trao đổi, đặt nền tảng đầu tiên cho sự ra đời của các công cụ thanh toán nói riêng và ngành ngân hàng nói chung... Cho đến những năm giữa của thế kỷ XX, các công cụ thanh toán đã trở nên hoàn hảo hơn nhờ tính chất phi tiền mặt của nó.Và đỉnh cao của sự phát triển các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt là sự ra đời của công cụ thanh toán mới: Tiền điện tử - Thẻ Ngân hàng.Trong bối cảnh nền tài chính tiền tệ Việt Nam hiện nay, thẻ Ngân hàng - công cụ chính của dịch vụ Ngân hàng bán lẻ đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội của Việt Nam, có tác động lớn đến chính sách tiền tệ cũng như đến hiệu quả kinh doanh của các NHTM. Việt Nam với dân số gần 80 triệu dân thực sự là một thị tr ường có tiềm năng lớn trong lĩnh vực phát triển thẻ Ngân hàng. Sau thời gian tìm hiểu một số lĩnh vực , những vấn đề về thẻ thanh toán đã cuốn hút tôi bởi tính hấp dẫn của nó. Nhận thấy đây là khía cạnh khá mới mẻ , xuất hiện ở Việt nam chưa được bao lâu, phần lớn dân cư còn chưa thông hiểu , nên tôi đã mạnh dạn đi sâu vào nghiên cứu và quyết định chọn đề tài “ Một số giải pháp nhằm hoàn thiện dịch vụ thanh
  3. toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Quận Hai Bà Trưng.” Cho chuyên đề tốt nghiệp của mình. chương 1: lý luận cơ bản về thanh toán không dùng tiền mặt và thẻ ngân hàng trong nền kinh tế thị trường 1.1. tổng quan về thanh toán không dùng tiền mặt. 1.1.1 Sự cần thiết và vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt trong hoạt động kinh tế. 1.1.1.1 Sự cần thiết của thanh toán không dùng tiền mặt. Như chúng ta đã biết, sự ra đời và phát triển của lưu thông tiền tệ gắn liền với quá trình ra đời và phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Sở dĩ như vậy là do yêu cầu của quá trình trao đổi hàng hoá mà tiền tệ đã ra đời với vai trò làm trung gian trao đổi các loại hàng hoá được thực hiện dễ dàng, nhanh chóng góp phần thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển. Quá trình tái sản xuất xã hội là một quá trình liên hoàn và không ngừng mở rộng, trong đó tồn tại các quan hệ trao đổi, mua bán hàng hoá dịch vụ do đó không thể không có hoạt động thanh toán. Khi nền sản xuất còn ở trình độ thấp, thanh toán tiền tệ chỉ bó hẹp trong phạm vi và khối lượng nhỏ, việc thanh toán được thực hiện bằng việc chi trả tiền mặt, sự vận động của vật tư hàng hoá gắn liền với sự vận động của một khối lượng tiền mặt nhất định. Thanh toán bằng tiền mặt lúc này tỏ ra là phương thức thanh toán hữu hiệu nhất, nó được thực hiện rất linh hoạt tuỳ theo thoả thuận giữa hai bên mua bán mà ít gặp trở ngại. Tuy nhiên, khi sản xuất hàng hoá phát triển ở trình độ cao hơn, khối lượng sản phẩm sản xuất nhiều hơn thì trao đổi hàng hoá không chỉ bó hẹp trong phạm vi một vùng mà mở rộng ra cả nước và quốc tế. Lúc này, thanh toán bằng tiền mặt đã bộc lộ những hạn chế nhất định như chi phí tốn kém trong việc in ấn, bảo quản, vận chuyển, kiểm đếm, không đáp ứng các nhu cầu thanh toán lớn, ở xa và nó trở nên không an toàn. Chính vì vậy, đòi hỏi phải có một hình thức
  4. thanh toán mới để phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế, thanh toán không dùng tiền mặt ra đời. Thanh toán không dùng tiền mặt ( TTKDTM ) là sự vận động của tiền tệ qua chức năng phương tiện thanh toán nhằm phục vụ các quan hệ thanh toán giữa các tổ chức kinh tế và cá nhân trong xã hội bằng cách trích chuyển vốn tiền tệ từ tài khoản này sang tài khoản khác, bằng cách bù trừ lẫn nhau thông qua vai trò trung gian của Ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng khác. TTKDTM ra đời là kết quả tất yếu của quá trình phát triển ngày càng cao của quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá, nó nhanh chóng chiếm ưu thế và trở thành một phần không thể thiếu được trong nền kinh tế thị trường. TTKDTM ra đời đã khắc phục được nhược điểm của thanh toán bằng tiền mặt. Có thể nói, TTKDTM mang lại hiệu quả cao, thể hiện một nền kinh tế đã và đang phát triển, các mối quan hệ về kinh tế, tài chính đã mở rộng, hoạt động của hệ thống Ngân hàng ngày càng đa dạng và phong phú. Việc phát triển các hình thức TTKDTM và hiện đại hoá các nghiệp vụ Ngân hàng là minh chứng hiện thực cho sự tồn tại và phát triển hợp logic cũng như vai trò, vị trí của hệ thống Ngân hàng trong nền kinh tế quốc dân. Như vậy, có thể nói TTKDTM là phương tiện thanh toán không thể thiếu được, nó là nấc thang phát triển tất yếu của các quan hệ thanh toán trong nền kinh tế thị tr ường và chính nó đã, đang và sẽ đáp ứng tối đa yêu cầu của nền kinh tế hiện đại. 1.1.1.2 Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt. Ngày nay, TTKDTM là một phần không thể tách rời các doanh nghiệp, các cá nhân và các tổ chức đoàn thể. Trong nền kinh tế thị trường, TTKDTM được thực hiện trôi trảy sẽ đem lại hiệu quả thiết thực cho tất cả các đối tác tham gia cũng như cho toàn xã hội. - TTKDTM góp phần tăng nhanh tốc độ vận động của vật tư, hàng hoá và tiền vốn, qua đó thúc đẩy quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Như chúng ta đã biết, bất kỳ một chu kỳ sản xuất nào cũng đều bắt đầu và kết thúc bằng khâu thanh toán- từ việc mua các yếu tố đầu vào đến việc tiêu thụ các yếu tố đầu ra. Việc đẩy nhanh tốc độ thanh toán qua Ngân hàng giúp khách hàng rút ngắn được thời gian trong khâu lưu thông do đó rút ngắn thời được thời gian qua một vòng chu chuyển vốn, tăng nhanh tốc độ của quá trình sản xuất.
  5. - Tăng tỷ trọng TTKDTM sẽ góp phần làm giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông từ đó tiết kiệm được chi phí của xã hội và của Ngân hàng. Cụ thể đó là những chi phí trong việc in ấn, vận chuyển, bảo quản, kiểm đếm tiền mặt… Nhờ vậy, có thể sử dụng các nguồn vốn tiết kiệm được để đầu tư mở rộng sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, TTKDTM còn góp phần hạn chế đến mức thấp nhất các tệ nạn xã hội như tham ô, hối lộ, trộm cắp…, ngăn chặn hoạt động "rửa tiền", làm tiền giả hay đầu cơ, tích trữ… -TTKDTM tạo điều kiện để Ngân hàng thu hút nguồn vốn nhàn rỗi mở rộng tín dụng và phát triển dịch vụ Ngân hàng. Như chúng ta đã biết, nghiệp vụ tín dụng và nghiệp vụ thanh toán luôn có mối quan hệ ràng buộc hữu cơ với nhau, chỉ khi thực hiện tốt mối quan hệ này thì Ngân hàng mới có điều kiện phát triển được. TTKDTM đòi hỏi các doanh nghiệp phải có tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng và số dư trên tài khoản tiền gửi phải đảm bảo khả năng thanh toán khi cần thiết. Các tổ chức kinh tế và cá nhân mở tài khoản tiền gửi thanh toán ở Ngân hàng có quyền sử dụng toàn bộ số tiền đó vào bất cứ lúc nào và Ngân hàng phải có trách nhiệm thoả mãn nhu cầu đó. Tuy nhiên, có sự không ăn khớp giữa những người có nhu cầu rút tiền và gửi tiền vào, do đó hình thành một số dư tương đối lớn và ổn định về nguồn vốn ngắn hạn cho Ngân hàng. Mặt khác, Ngân hàng hoàn toàn có kế hoạch một cách tương đối chính xác nhu cầu rút tiền mặt của khách hàng trong từng thời kỳ. Như vậy, ngoài phần dự trữ tiền mặt để đảm bảo khả năng chi trả, thanh toán kịp thời cho khách hàng, số còn lại, Ngân hàng có thể sử dụng để đầu tư, mở rộng tín dụng của mình. Thực tế, khối lượng tiền gửi thanh toán chiếm tỷ trọng khá cao trong toàn bộ nguồn vốn của Ngân hàng, tạo thuận lợi cho Ngân hàng trong việc giảm lãi suất cho vay. Bản chất của nguồn vốn này không phải gửi vào Ngân hàng để lấy lãi mà để sử dụng một cách chủ động, kịp thời trong thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ giữa các đơn vị và cá nhân. Làm tốt công tác thanh toán qua Ngân hàng, thu hút nhiều khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng để thanh toán là điều kiện tốt để mở rộng khối lượng tín dụng với lãi suất thấp. - Thông qua TTKDTM, tạo điều kiện để NHTW xây dựng và điều hành CSTT một cách thuận lợi. Sở dĩ như vậy là do yêu cầu bắt buộc chủ thể tham gia TTKDTM phải có tài khoản tại NH, vì thế thông qua tình hình biến động số dư trên tài khoản của các khách
  6. hàng, Ngân hàng sẽ thu thập những thông tin cần thiết về tình hình tài chính, tình hình thanh toán của khách hàng cũng như những thông tin về dòng lưu chuyển tiền tệ… Từ đó, Ngân hàng có thể thực hiện việc quản lý và điều hành CSTT một cách thuận lợi bằng việc đưa ra những chính sách phù hợp trong từng thời kỳ. Như vậy, TTKDTM là rất cần thiết trong nền kinh tế thị trường khi mà Ngân hàng Thương mại và các doanh nghiệp thực sự kinh doanh tự chủ bởi khi đó tính năng động, sáng tạo và yếu tố hiệu qủa luôn đặt đúng vị trí của nó. 1.1.2 Các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt đang áp dụng ở Việt Nam. Hiện nay, trên thế giới đã nghiên cứu và áp dụng nhiều hình thức TTKDTM rất đa dạng và phong phú. Nhưng ở mỗi nước tuỳ theo mô hình kinh tế, trình độ quản lý, tuỳ theo mức độ hoàn thiện và hiệu năng của hệ thống Ngân hàng người ta lựa chọn một số hình thức và cụ thể hoá cho phù hợp với điều kiện, đặc thù của mỗi nước. ở nước ta hiện nay, nền kinh tế cơ bản đã chuyển sang nền kinh tế thị trường. Vị trí, vai trò và chức năng của doanh nghiệp, của Ngân hàng thương mại, của Ngân hàng Nhà nước đã thay đổi theo mô hình kinh tế thị trường. Chính vì vậy, chế độ TTKDTM cũng được hoàn thiện hơn để phù hợp với thực tiễn. TTKDTM được quy định trong Nghị định số 64/ 2001/ NĐ - CP ngày 20/09/2001 của Chính phủ bao gồm những hình thức sau : 1. Hình thức thanh toán bằng séc 2. Hình thức thanh toán bằng UNC - chuyển tiền 3. Hình thức thanh toán bằng UNT 4. Hình thức thanh toán bằng thư tín dụng 5. Hình thức thanh toán bằng thẻ thanh toán 1.1.2.1 Thanh toán bằng séc Séc là một thể thức thanh toán quan trọng không thể thiếu được trong TTKDTM hiện nay. Mặc dù đã ra đời từ rất sớm và ngày càng có nhiều công cụ thanh toán hiện đại nhưng thanh toán bằng Séc vẫn giữ vị trí quan trọng trong các thể thức TTKDTM .
  7. Theo Nghị định số 30/ CP : Séc là lệnh trả tiền của chủ tài khoản được lập trên mẫu do Ngân hàng Nhà nước quy định yêu cầu Ngân hàng phục vụ mình trích tiền từ tài khoản tiền gửi của mình để trả cho người thụ hưởng có tên trên tờ séc hay người cầm tờ séc đó. Séc là loại chứng từ thanh toán được áp dụng rộng rãi ở tất cả các nước trên thế giới, quy định sử dụng séc đã được chuẩn hoá trên Luật thương mại quốc gia và Công ước quốc tế. Theo Nghị định số 30/ CP quy định rõ ở Việt Nam được phép lưu hành các loại séc vô danh vá séc ký danh được phép chuyển nhượng thông qua thủ tục ký hậu chuyển nhượng. Nghị định số 30/ CP ra đời đã đánh dấu một bước chuyển biến có ý nghĩa kinh tế lớn trong việc sử dụng séc ở Việt Nam. Theo quy định này, séc không còn là một công cụ chuyển khoản đơn thuần mà còn phát huy được vai trò là một công cụ lưu thông. Séc được dụng để thanh toán tiền hàng, dịch vụ, nộp thuế, trả nợ … hoặc được dùng để rút tiền mặt tại các chi nhánh Ngân hàng. Tất cả các khách hàng mở tài khoản tại Ngân hàng đều có quyền sử dụng séc để thanh toán. Thời hạn hiệu lực của séc là 15 ngày kể từ ngày chủ tài khoản phát hành séc đến ngày người thụ hưởng nộp séc vào Ngân hàng ( gồm cả ngày chủ nhật và ngày lễ ). Trường hợp nếu ngày kết thúc thời hạn hiệu lực của tờ séc là ngày nghỉ, ngày lễ thì thời hạn đó được lùi vào ngày làm việc kế tiếp. ở Việt Nam hiện nay có 2 loại séc thanh toán: Séc chuyển khoản và Séc bảo chi. . Séc chuyển khoản Séc chuyển khoản là lệnh trả tiền của người phát hành séc đối với Ngân hàng phục vụ mình về việc trích một khoản tiền nhất định từ tài khoản của mình để trả cho người được hưởng có tên trong tờ séc. Séc chuyển khoản chỉ được áp dụng trong phạm vi thanh toán giữa các khách hàng có tài khoản ở cùng một chi nhánh nhưng các chi nhánh này có tham gia giao nhận chứng từ trực tiếp cho nhau theo quy định hiện hành (thanh toán bù trừ ), thời gian hiệu lực của tờ séc tối đa là 10 ngày làm việc. Khác với séc lĩnh tiền mặt, khi phát hành séc thanh toán chuyển khoản, chủ tài khoản phải gạch hai đường song song chéo góc hoặc viết chữ "chuyển khoản " ở góc phía trên bên trái mặt trước tờ séc trước khi giao người thụ hưởng. Về nguyên tắc, séc chuyển khoản phải được phát hành trên cơ sở số dư tài khoản tiền gửi hiện có tại Ngân hàng. Nếu tài khoản tiền gửi không đủ để thanh toán, séc sẽ bị Ngân
  8. hàng từ chối thanh toán, chủ tài khoản phải chịu trách nhiệm thanh toán tờ séc đó và những khoản tiền phạt chi phí phát sinh liên quan đến việc khiếu nại và khởi kiện. + Thanh toán giữa khách hàng mở tài khoản ở cùng một Ngân hàng . Séc bảo chi Séc bảo chi là một loại séc thanh toán được Ngân hàng đảm bảo khả năng chi trả bằng cách trích trước số tiền trên tờ séc từ tài khoản tiền gửi của người trả tiền sang tài khoản " Đảm bảo thanh toán séc " nhằm đảm bảo khả năng thanh toán của tờ séc đó. Séc bảo chi có phạm vi thanh toán rộng hơn séc chuyển khoản. Ngoài việc sử dụng để thanh toán giữa các chủ thể mở tài khoản tại cùng một chi nhánh Ngân hàng hoặc hai Ngân hàng có tham gia thanh toán bù trừ trên cùng địa bàn séc bảo chi còn được sử dụng để thanh toán giữa khách hàng mở tài khoản tại các chi nhánh trong cùng hệ thống trong phạm vi cả nước. + Trường hợp hai chủ thể thanh toán mở tài khoản khác Ngân hàng có tham gia thanh toán bù trừ Về cơ bản, quy trình luân chuyển chứng từ trong trường hợp này giống như Séc chuyển khoản, tuy nhiên có sự khác nhau về tài khoản hạch toán: Nếu hai đơn vị mở tài khoản ở khác Ngân hàng, khác hệ thống có tham gia thanh toán bù trừ thì tại Ngân hàng phục vụ, đơn vị thụ hưởng sau khi kiểm soát đủ điều kiện sẽ hạch toán: Nợ TK Thanh toán bù trừ Ngân hàng thành viên Có TK Tiền gửi của người thụ hưởng Trường hợp thanh toán khác Ngân hàng, cùng hệ thống và khác địa bàn hạch toán: Nợ TK Liên hàng đi Có TK Tiền gửi của người thụ hưởng Tại Ngân hàng phục vụ đơn vị phát hành séc ( đơn vị mua) khi nhận được các chứng từ kèm séc bảo chi từ Ngân hàng khác chuyển đến thì sẽ hạch toán Nợ TK Tiền gửi đảm bảo thanh toán séc bảo chi Có TK Liên hàng đến (hoặc TK thanh toán bù trừ) 1.1.2.2 Thanh toán bằng UNC- chuyển tiền UNC ra đời từ khá sớm, cùng với tiến bộ Khoa học kỹ thuật, nó được sử dụng ngày một rộng rãi với các ưu thế nổi bật: an toàn, hiệu quả và đặc biệt thuận tiện dưới sự trợ
  9. giúp của các thành tựu phát triển trong lĩnh vực Công nghệ tin học ( UNC có thể được xử lý dưới dạng các chứng từ điện tử). Đơn vị trả tiền sau khi nhận được hàng hoá, dịch vụ cung ứng, trong thời gian nhất định phải lập các UNC gửi đến Ngân hàng để trích tài khoản chuyển trả cho đơn vị thụ hưởng. Tuỳ theo phạm vi và tổ chức thanh toán, đơn vị phải lập từ 3-4 liên với đâỳ đủ nội dung và các yếu tố cần thiết. Khi lập và nộp UNC vào Ngân hàng, đơn vị trả tiền phải đảm bảo đủ số dư trên tài khoản để đảm bảo chi trả. Nếu chứng từ hợp lệ, tài khoản đủ tiền, trong phạm vi một ngày làm việc, Ngân hàng phải hoàn tất UNC đó. Nếu chứng từ không hợp lệ, hợp pháp, tài khoản không đủ số dư thì Ngân hàng không thanh toán. Trường hợp bên thụ hưởng không có tài khoản tiền gửi thì Ngân hàng phục vụ bên thụ hưởng ghi Có TK "Chuyển tiền phải trả" và báo cho bên thụ hưởng đến nhận tiền. 1.1.2.3 Uỷ nhiệm thu (UNT) UNT là giấy uỷ nhiệm đòi tiền do người thụ hưởng lập và gửi vào Ngân hàng phục vụ mình nhờ thu hộ tiền theo số lượng hàng hoá đã giao, dịch vụ đã cung ứng. UNT được sử dụng rộng rãi trong việc thanh toán các hoá đơn định kỳ cho người cung ứng dịch vụ công cộng như điện, nước, điện thoại … bởi nó thường được dùng cho các giao dịch thanh toán có giá trị nhỏ nên các UNT chiếm tỷ lệ không đáng kể trong tổng các giao dịch TTKDTM. UNT được áp dụng thanh toán giữa các khách hàng mở tài khoản trong cùng một chi nhánh Ngân hàng hoặc các chi nhánh Ngân hàng cùng hệ thống hoặc khác hệ thống. Khách hàng mua và bán phải thống nhất thoả thuận dùng hình thức UNT đối với những điều kiện cụ thể đã ghi trong hợp đồng kinh tế, đồng thời phải thông báo bằng văn bản cho Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng biết làm căn cứ để thực hiện các UNT. Sau khi giao hàng hoặc hoàn tất dịch vụ cung ứng, bên thụ hưởng lập giấy UNT theo mẫu của Ngân hàng, kèm theo hoá đơn gửi tới Ngân hàng phục vụ mình hoặc gửi trực tiếp đến Ngân hàng phục vụ bên trả tiền yêu cầu thu hộ. Khi nhận được giấy UNT trong vòng một ngày làm việc, Ngân hàng bên trả tiền trích tài khoản của khách hàng mình trả ngay cho bên thụ hưởng để hoàn tất việc thanh toán. 1.1.2.4 Thư tín dụng (TTD)
  10. TTD là hình thức thanh toán theo sự thoả thuận giữa hai bên bán và mua trong điều kiện bên bán đòi hỏi bên mua phải có đủ tiền để chi trả phù hợp với giá trị hàng hoá mà bên bán đã giao theo hợp đồng hay đơn đặt hàng đã ký. TTD thường dùng để thanh toán giữa các khách hàng có tài khoản ở hai Ngân hàng khác nhau, có thể cùng hoặc khác hệ thống ( trường hợp khác hệ thống thì nơi Ngân hàng bên bán đóng trụ sở phải có Ngân hàng cùng hệ thống với Ngân hàng mở TTD và tham gia thanh toán bù trừ với Ngân hàng bên bán). Mỗi TTD chỉ được dùng để thanh toán cho một người thụ hưởng. Thời hạn hiệu lực của một TTD là 3 tháng kể từ ngày Ngân hàng bên mua nhận mở TTD. Mức tiền tối thiểu cuả một TTD là 10 triệu đồng. 1.1.2.5 Thẻ ngân hàng Việc áp dụng hình thức thanh toán bằng thẻ được thực hiện theo quyết định số 371/ 1999/QĐ- NHNN1 ngày 19.10.1999 của Thống đốc NHNN Việt Nam. Thẻ ngân hàng là một công cụ thanh toán do Ngân hàng phát hành và bán cho khách hàng của mình để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, thanh toán công nợ hay lĩnh tiền mặt tại các Ngân hàng đại lý thanh toán hay các quầy trả tiền mặt tự động. ở một số nước, các hãng hay các Công ty kinh doanh lớn cũng phát hành thẻ thanh toán để thu tiền bán hàng của mình. Thẻ Ngân hàng có nhiều loại nhưng có một số loại thẻ sau được sử dụng phổ biến: - Thẻ ghi Nợ: Người sử dụng loại thẻ này không phải lưu ký tiền vào tài khoản " Đảm bảo thanh toán thẻ". Căn cứ để thanh toán thẻ là số dư tài khoản tiền gửi của chủ sở hữu thẻ tại Ngân hàng và hạn mức thanh toán tối đa do Ngân hàng phát hành thẻ quy định. Hạn mức của thẻ được ghi vào bộ nhớ của thẻ nếu là thẻ điện tử hoặc được ghi vào dải băng từ nếu là thẻ từ. ở Việt Nam, thẻ ghi Nợ được quy định là thẻ loại A, loại thẻ này áp dụng cho những khách hàng có quan hệ tốt, thường xuyên và có tín nhiệm với Ngân hàng. - Thẻ tín dụng: áp dụng với những khách hàng có đủ điều kiện được Ngân hàng đồng ý cho vay tiền để mua thẻ. Mức tiền cho vay được coi như hạn mức tín dụng và được ghi vào bộ nhớ của thẻ, khách hàng chỉ được thanh toán số tiền trong phạm vi hạn mức tín dụng đã được Ngân hàng chấp thuận.
  11. Thẻ rút tiền tự động- thẻ ATM: Thẻ được phát hành trên cơ sở tài khoản tiền gửi của khách hàng tại Ngân hàng phát hành. Chủ thẻ có thể sử dụng để rút tiền mặt hoặc tiếp nhận một vài dịch vụ Ngân hàng thông qua các máy rút tiền tự động ATM(Automatic tellẻ Machine) như chuyển khoản, kiểm tra số dư… Thẻ thanh toán dù dưới hình thức nào cũng phải có đầy đủ các yếu tố: Tên chủ thẻ, tên Ngân hàng phát hành thẻ, số thẻ, nhãn hiệu thương mại và thời hạn sử dụng thẻ. Trong thanh toán thẻ bao gồm các chủ thể sau: - Ngân hàng phát hành thẻ: là Ngân hàng bán thẻ cho khách hàng và chịu trách nhiệm thanh toán số tiền do người sử dụng trả cho người thụ hưởng. Ngân hàng phát hành thẻ có thể uỷ nhiệm cho một số chi nhánh Ngân hàng phát hành và quản lý thẻ. - Người sử dụng thẻ: là người trực tiếp mua thẻ tại Ngân hàng và dùng thẻ để mua hàng hoá, dịch vụ. - Người tiếp nhận thẻ thanh toán bằng thẻ: là các doanh nghiệp cung ứng hàng hoá, dịch vụ cho người sử dụng thẻ. - Ngân hàng đại lý thanh toán: là các chi nhánh Ngân hàng do Ngân hàng phát hành thẻ quy định, Ngân hàng đại lý thanh toán có trách nhiệm thanh toán cho người tiếp nhận thanh toán bằng thẻ khi nhận được biên lai thanh toán. Người sử dụng thẻ có thể rút tiền mặt nhưng mỗi lần không quá 5 triệu đồng và mỗi ngày thẻ chỉ rút một lần. Nếu mất thẻ, người sử dụng phải thông báo ngay bằng văn bản cho Ngân hàng phát hành thẻ biết để thông báo cho Ngân hàng đại lý thanh toán thẻ báo cho cơ sở tiếp nhận thẻ biết. Khi sử dụng hết hạn mức hoặc hết thời hạn sử dụng của thẻ, nếu có nhu cầu, người sử dụng thẻ phải đến Ngân hàng phát hành thẻ làm thủ tục sử dụng tiếp. Trong phạm vi 10 ngày làm việc, kể từ ngày viết hoá đơn cung ứng hàng hoá, dịch vụ, người tiếp nhận thẻ phải nộp biên lai vào Ngân hàng đại lý để đòi tiền, nếu quá thời hạn trên, Ngân hàng không chấp nhận thanh toán. Trong phạm vi 1 ngày làm việc, kể từ khi nhận được biên lai thanh toán, Ngân hàng đại lý phải thanh toán cho người tiếp nhận thanh toán thẻ. Như vậy, ta thấy rằng TTKDTM với rất nhiều hình thức, có vị trí và vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế thị trường. Vấn đề đặt ra là trong công tác thanh toán còn một số
  12. tồn tại đòi hỏi ta phải xem xét tuỳ từng Ngân hàng cụ thể để có thể đưa ra những biện pháp hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả của công tác TTKDTM . 1.2 những vấn đề chung về thẻ thanh toán. 1.2.1 Cơ sở hình thành và phát triển. Vào những năm 40, một số cơ sở cung ứng hàng hoá, dịch vụ tư nhân lớn mở rộng dịch vụ bán chịu cho khách hàng và cho phép họ trả tiền hàng hoá dịch vụ vào tài khoản của mình. Nhiều cơ sở nhỏ cũng muốn thực hiện dịch vụ này nhưng nhận thấy họ không đủ khả năng. Điều đó tạo cơ hội cho các tổ chức tài chính, Ngân hàng đứng ra lập một hệ thống mua bán chịu: Charg-It, đây chính thức là sơ khai của thẻ thanh toán. Hệ thống này do John Biggins sáng lập ra năm 1946, cho phép khách hàng trả tiền cho những giao dịch bán lẻ tại địa phương. Các cơ sở bán hàng nộp biên lai bán hàng vào nhà băng của Biggins, Nhà băng sẽ trả tiền cho họ và thu lại tiền từ khách hàng sử dụng Charg-It. Hệ thống mua bán chịu này mở đường cho sự ra đời của thẻ tín dụng do Ngân hàng Franklin National Bank ở Long Island –NewYork phát hành lần đầu tiên năm 1951. Khách hàng đệ trình đơn xin vay và được thẩm định khả năng thanh toán, nếu có khả năng sẽ được duyệt cấp thẻ. Thẻ này dùng thanh toán cho các thương vụ bán lẻ hàng hoá, dịch vụ. Trong những năm sau, ngày càng nhiều tổ chức tín dụng tham gia vào chương trình này. Đến năm 1959, nhiều Nhà phát hành thẻ đã tung ra một dịch vụ mới: tín dụng tuần hoàn. Với nó các chủ thẻ có thể duy trì số dư có trên tài khoản vay bằng một hạn mức tín dụng nếu họ hoàn thành trách nhiệm thanh toán hàng tháng . Số tiền thanh toán hàng tháng của chủ thẻ sẽ được cộng thêm một khoản phí tính từ những khoản vay của chủ thẻ . Vào năm 1960 . Bank of America giới thiệu sản phẩm thẻ đầu tiên của mình . BankAmericad. The BankAmercard phát triển rộng khắp và trong những năm tiếp theo ngày càng nhiều các tổ chức tài chính Ngân hàng trở thành thành viên của BankAmericard . Đến năm 1966, 14 Ngân hàng của mỹ thành lập InterBank- một tổ chức mới với chức năng là đầu mối trao đổi các thông tin về giao dịch thẻ. Trong năm tiếp theo – 1967, 4 Ngân hàng ở Cliornia đổi tên của họ từ Cliornia Bank Card Association (WSBA). WSBA
  13. mở rộng mạng lưới thành viên của mình sang các tổ chức tài chính Ngân hàng khác ở miền Tây nước mỹ. Thẻ của họ được gọi là MasterCharge. Tổ chức WSBA cho phép Interbank sử dụng tên và biểu tượng MasterCharge của mình. Vào cuối những năm 60, một số lớn các tổ chức tài chính Ngân hàng đã trả thành thành viên của MasterCharge - đối thủ cạnh tranh của BankAmericard. Vào năm 1977, BankAmericard trở thành Vi SA USA và sau đó là tổ chức thẻ Quốc tế VISA. Ngay sau đó, vào năm 1979, với sự tăng trưởng mạnh mẽ, MasterCharge trở thành tổ chức thẻ quốc tế MasterCard. Các thành viên của hai Tổ chức thẻ quốc tế này cũng nh ư bản thân cả hai tổ chức bắt đầu mua các chương trình phần mềm cũng như các thiết bị phần cứng phát hành , thanh toán và quản lý thẻ của các công ty bên ngoài với mụch đích tiết kiệm chi phí cho các thành viên và tạo điều kiện cho ngày càng nhiều các tổ chức tài chính Ngân hàng có thể tham gia hệ thống . Tiếp thu và ứng dụng những thành tựu của thế giới về khoa học kỹ thuật , nhất là về công nghệ tin học ….hệ thống thanh toán thẻ ngày càng hoàn thiện. Hệ thống tín dụng thẻ ngày nay bao gồm cả các tổ chức thẻ quốc tế , các tổ chức tài chính Ngân hàng , các công ty cung ứng thiết bị và giải pháp kỹ thuật, các công ty quốc tế …Cùng với mạng lưới thanh viên và khách hàng phát triển từng ngày , các tổ chức thẻ quốc tế đã xây dựng hệ thống xử lý giao dịch và trao đổi thông tin trên toàn thế giới. Với doanh số giao dịch hàng trăm tỷ USD mỗi năm , thẻ đang cạnh tranh quyết liệt cùng tiền mặt và séc trong hệ thống thanh toán toàn cầu. Đây là một thành công đáng kể đói với một ngành kinh doanh mới chỉ trong vài thập kỷ hình thành và phát triển . Một câu hỏi được đặt ra : “Tại sao thẻ xuất hiện , được sử dụng chỉ trong một thời gian không dài như vậy lại có thể có tính phổ cập mạnh mẽ đến thế ?” Câu trả lời thật đơn giản , bởi lẽ thẻ có ưu thế riêng của mình , tạo nên sự quan trọng không thể thiếu trong xã hội hiện đại ngày nay . 1.2.2 Vai trò của thẻ thanh toán : Hiện nay khi các tiến bộ khoa học kỹ thuật được áp dụng rộng rãi, trong cả lĩnh vực tiền tệ Ngân hàng, thì việc thanh toán tiền mặt đã trở nên lỗi thời tốn kém, gây lãng phí vốn, nhiều rủi ro hạn chế về hiệu quả kinh tế. Mặt khác , nó ngẫu nhiên tạo ra môi trường
  14. cho hoạt động trốn thuế, làm giảm thu ngân sách nhà nước, làm mất tính công bằng trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế của mỗi người dân … Do đó, khi thanh toán không dùng tiền mặt ra đời, nó ngày càng phát triển và được coi trọng, trong đó có việc sử dụng thẻ thanh toán . 1.2.2.1 Vai trò của thẻ đối với nền kinh tế Thẻ thanh toán giải quyết được vấn đề lãng phí vốn của xã hội thông qua việc thu hút tiền gửi của các tầng lớp dân cư vào Ngân hàng, tạo ra được một nguồn vốn rất lớn tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng để cân đối đầu tư lại cho nền kinh tế. Nó làm giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông, tăng nhanh chu chuyển thanh toán trong nền kinh tế do hầu hết mọi giao dịch trong phạm vi quốc gia cũng như phạm vi toàn cầu đều được thanh toán trực tuyến (on-line). Thêm vào đó , nó tạo cơ sở cho việc thực hiện tốt chính sách quản lý ngoại hối, tạo nền tảng để tăng cường quản lý thuế của cá nhân cũng như của doanh nghiệp đối với nhà nước. Nhà nước cũng như Ngân hàng có thể kiểm soát mọi hoạt động giao dịch của bất cứ thẻ nào do bất kỳ Ngân hàng thương mại trong nước phát hành. 1.2.2.2 Vai trò của thẻ đối với xã hội. Người ta cho rằng, muốn khuyến khích các tầng lớp dân cư tăng cườmg tiêu dùng thì thẻ là một trong những công cụ hữu hiệu góp phần thực hiện biện pháp “ kích cầu” của nhà nước. Thêm vào đó, chấp nhận thanh toán thẻ đã góp phần tạo môi trường thu hút khách du lịch và các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt đối với các nước đang phát triển như Việt nam, cải thiện môi trường văn minh thương mại và văn minh thanh toán, nâng cao hiểu biết của dân cư về các ứng dụng công nghệ tin học trong phục vụ đời sống. Hơn thế, triển khai thẻ thanh toán tạo điều kiện cho sự hoà nhập với cộng đồng quốc tế và nâng cao hệ số an toàn xã hội trong lĩnh vực tiền tệ. 1.2.2.3 Vai trò của thẻ đối với người sử dụng Trước hết người ta có thể sử dụng thẻ để thanh toán hàng hoá, dịch vụ, rút tiền mặt hoặc tiếp nhận một số dịch vụ Ngân hàng tại các cơ sở chấp nhận, máy ATM, cácNgân hàng thanh toán thẻ trong nước và ngoài nước.Hơn nữa, họ được phép chi tiêu trước, trả tiền sau thuận tiện khi tiêu dùng. Thêm vào đó, thẻ nhỏ, gọn vì vậy rất tiện cất giữ và bảo quản. Ngoài ra thẻ giúp cho việcquản lý chi tiêu cá nhân được dễ dàng , lại an toàn, các công
  15. nghệ sản xuất thẻ cho các mã hoá các thông số từ tính hoặc kỹ thuật vi mạch điẹn tử khiến cho chúng khó làm giả, khi mất hoạc thất lạc thẻ, tiền trong thẻ vẫn được đảm bảo. Bên cạnh đó, thẻ còn có tính linh hoạt. Đây là một đặc điểm nổi bật của thẻ tín dụng, thích hợp với mọi khách hàng. Có những loại thẻ có hạn mức thấp và các loại thẻ phù hợp với các nhu cầu của khách hàng như; thẻ điện thoại thẻ thanh toán điện nước, thẻ thu phí giao thông, thẻ thanh toán, thẻ séc…Với các giá trị khác nhau nhằm cung cấp độ thoả dụng cho mọi đối tượng khách hàng. 1.2.3 Các nghiệp vụ trong kinh doanh thẻ. 1.2.3.1 Nghiệp vụ maketing. Cũng như những ngành nghề khác, kinh doanh thẻ ngân hàng đòi hỏi chú trọng đáng kể vào công tác marketing và dịch vụ khách hàng. Về lý thuyết, marketing và dịch vụ khác hàng trong kinh doanh thẻ là khái niệm tương đối rộng, bao gồm tòan bộ các phương thức để tìm kiếm khách hàng (CSCNT và chủ thẻ), giúp họ tiếp cận, quyết định lựa chọn phương thức thanh toán phi tiền mặt này và trở thành khách hàng lâu dài của ngân hàng Trên thực tế, marketing bao gồm các hoạt động như: - Tiếp xúc với các đơn vị cung ứng hàng hóa, dịch vụ có tiềm năng cho hoạt động thẻ; thuyết phục họ ký kết hợp đồng chấp nhận thanh toán thẻ thông qua những lợi ích về thẻ ngân hàng và các ưu thế của các ngân hàng riêng biệt - Cung cấp dịch vụ cho các CSCNT như: lắp đặt các thiết bị đọc thẻ, hướng dẫn quy trình nghiệp vụ, thao tác cần thiết cho hoạt động chấp nhận thẻ, tiếp nhận những yêu cầu về duy trì, bảo dưỡng máy móc thiết bị từ ĐVCNT. - Tiến hành việc quảng cáo cho các CSCNT nói chung hoặc các CSCNT tiềm năng cùng với chương trình quảng cáo, khuyếch trương thẻ. - Nâng cao tính trung thành của các CSCNT bằng cách xếp hạng, tính điểm phục vụ hoặc lượng giá trị giao dịch tại đơn vị để từ đó có thể giảm phí chiết khấu… - Tiếp xúc với các khách hàng là cá nhân, doanh nghiệp có tiềm năng sử dụng thẻ, thuyết phục họ ký kết hợp đồng sử dụng thẻ thông qua những tiện ích của thẻ ngân hàng nói chung và các ưu thế, những dịch vụ mà ngân hàng cung cấp.
  16. - Duy trì mối liên hệ với chủ thẻ, khuyến khích tiêu dùng thẻ của chủ thẻ thông qua việc xây dựng các chương trình khuyến mại, điểm thưởng… Các công cụ thực hiện marketing được chia ra làm 2 loại: công cụ phục vụ tại quầy: như những tờ rơi, tờ giới thiệu… tại nơi tiếp đón và nhận yêu cầu của khách hàng ở các chi nhánh và các công cụ phục vụ tại nơi công cộng như các panô, áp phích quảng cáo, những biển báo, lôgô và hình ảnh thẻ tại các CSCNT… Tuy nhiên, yếu tố quan trọng và đóng vai trò quyết định trong hoạt động marketing chính là con người. Các cán bộ marketing đòi hỏi vừa vững về nghiệp vụ thẻ nói chung, vừa nắm rõ thị trường, nhanh nhạy với các thông tin và có khả năng nghiệp vụ marketing. 1.2.3.2 Nghiệp vụ tra soát và bồi hoàn Bước này chỉ phát sinh trong quá trình thanh toán khi mà nhà phát hành hoặc chủ thẻ không chấp nhận thanh tán giao dịch và thực hiện khiếu nại hoặc đòi bồi hoàn. Việc nhà bồi hoàn thực hiện khiếu kiện giao dịch theo yêu cầu của chủ thẻ (giao dịch chưa được cung ứng, số tiền giao dich không đúng…) hoặc vì một lý do nào đó(CSCNT không xin cấp phép, thẻ nàm trong danh sách thẻ cấm lưu hành, thẻ hết hạn…) thì gọi là quá trình tra soát và đòi bồi hoàn. Khi đó, Ngân hàng phát hành yêu cầu tổ chức thẻ quốc tế ghi nợ cho Ngân hàng thanh toán và gửi các thông tin liên quan cho ngân hàng thanh toán. Ngân hàng thanh toán dựa vào các thông tin này để tiến hành tra soát đối với CSCNT. 1.2.4. Quản lý rủi ro trong kinh doanh thẻ. Trong kinh doanh, dù ở bất cứ lĩnh vực nào cũng có thể gặp phải rủi ro. Kinh doanh thẻ cũng không nằm ngoài quy luật đó. Vấn đề quan trọng là các Ngân hàng phải nghiên cứu, phân tích, từ đó hạn chế tối đa rủi ro có thể gặp phải. 1.2.4.1. Các loại rủi ro thường gặp.  Đơn phát hành thẻ với thông tin giả mạo (Fraudulent Application)  Thẻ giả (Counterfeit Card)  Thẻ mất cắp, thất lạc và bị sử dụng (Lost-Stolen Card)  Chủ thẻ không nhận được thẻ do ngân hàng phát hành gửi và thẻ bị sử dụng (Never Received issue)  Tài khoản của chủ thẻ bị người khác lợi dụng để sử dụng (Account Takeover)
  17.  Thẻ bị giả mạo để sử dụng qua dịch vụ thanh toán thẻ qua thư, điện thoại (Mail, Tele phone order)  Nhân viên cơ sở chấp nhận thẻ giả mạo hoá đơn thanh toán thẻ  Thẻ bị giả mạo qua tạo băng từ giả (Skimming). Ngoài các loại rủi ro chính trên, còn một số nguy cơ rủi ro khác có thể xuất hiện nếu các Ngân hàng Thương mại không chú trọng đúng mức đến việc quản lý hệ thống xử lý dữ liệu và quản trị hệ thống kỹ thuật. 1.2.4.2. Hoạt động quản lý rủi ro. Bộ phận quản lý rủi ro tại các ngân hàng có kinh doanh thẻ được coi là bộ phận xương sống (backbone) trong hoạt động thẻ, thực hiện các chức năng: - Ngăn ngừa và điều tra các hành vi sử dụng thẻ giả mạo; - Quản lý danh mục các tài khoản liên quan tới những thẻ đã được thông báo mất, thất lạc; - Xây dựng các kế hoạch theo dõi việc bảo mật phôi thẻ, thẻ đã in và thẻ hỏng, thẻ thu hồi; - Cập nhật thông tin trên các Danh sách thẻ mất cắp, thất lạc; - Hợp tác với cơ quan có thẩm quyền liên quan trong việc điều tra, xử lý các hành vi vi phạm hợp đồng, giả mạo; - Theo dõi và quản lý hoạt động của Trung tâm Thẻ, bao gồm cả hoạt động của các cán bộ; - Tổ chức tập huấn cho nhân viên CSCNT và chủ thẻ về các biện pháp phòng ngừa giả mạo. Kinh doanh thẻ Ngân hàng càng phát triển thì lĩnh vực quản lý rủi ro càng được đầu tư nhiều hơn. Các chuyên gia trong lĩnh vực này là những người thực sự am hiểu về thẻ và công nghệ hiện đại bởi trước khả năng thu lời siêu lợi nhuận, các tổ chức tội phạm quốc tế đã tận dụng công nghệ hiện đại, bằng mọi cách thu thập các dữ liệu về thẻ, tài khoản của khách hàng, từ đó thực hiện các hành vi giả mạo, gây tổn hại khôn lường về tài chính cũng như uy tín cho Ngân hàng, chủ thẻ…
  18. Chương 2: Thực trạng phát hành, thanh toán và quản lý rủi ro trong kinh doanh thẻ ngân hàng tại ngân hàng ngoại thương việt nam – chi nhánh quận hai bà trưng 2.1 Khái quát chung về hoạt động của ngân hàng ngoại thương việt nam 2.1.1 Sự hình thành và phát triển của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Vài nét về Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Là Ngân hàng Thương mại quốc doanh (NHTMQD) được thành lập từ 1/4/1963. Vốn điều lệ hơn 3.955 tỷ đồng. · Là doanh nghiệp nhà nước hạng đặc biệt, được tổ chức theo mô hỡnh Tổng cụng ty 90,91. Là Ngân hàng Thương mại phục vụ đối ngoại lâu đời nhất tại Việt Nam. Là NHTM đầu tiên tại Việt Nam quản lý vốn tập trung. Là trung tâm thanh toán ngoại tệ liên Ngân hàng của trên 100 Ngân hàng trong n ước và các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Là NHTM đầu tiên ở Việt Nam hoạt động kinh doanh ngoại tệ, luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất trên thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng. Là thành viên của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam Hiệp hội Ngân hàng Châu á Tổ chức thanh toán toàn cầu Swift. Tổ chức thẻ quốc tế Visa, Master Card. Là NHTM đầu tiên phát hành và thanh toán thẻ quốc tế Visa, MasterCard và là đại lý thanh toỏn thẻ lớn nhất tại Việt Nam: Visa, American Express, MasterCard, JCB...Hiện là Ngõn hàng độc quyền phát hành thẻ American Express tại Việt Nam. Là đại lý thanh toỏn chuyển tiền nhanh toàn cầu Money Gram lớn nhất tại Việt Nam. Là Ngõn hàng chiếm tỷ trọng thanh toỏn xuất nhập khẩu và bảo lónh lớn nhất Việt Nam. Là Ngân hàng duy nhất tại Việt Nam đạt tỷ lệ trên 95% điện Swift được xử lý hoàn toàn tự động theo tiêu chuẩn của Mỹ. Liên tiếp trong 8 năm liền: 1996, 1997, 1998, 1999, 2000, 2001, 2002 và 2003 được
  19. công nhận là Ngân hàng có chất lượng dịch vụ tốt nhất về thanh toán Swift theo tiêu chuẩn quốc tế. Được chọn lựa làm Ngân hàng chính trong việc quản lý và phục vụ cho cỏc khoản vay nợ, viện trợ của Chính phủ và nhiều dự án ODA tại Việt Nam. Là NHTM hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực tài trợ thương mại, thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại hối, ứng dụng công nghệ vào hoạt động Ngân hàng. Là NHTM duy nhất tại Việt Nam được tạp chí “the Banker” một tạp chớ Ngõn hàng cú tiếng trong giới tài chớnh quốc tế của Anh quốc bỡnh chọn là “Ngõn hàng tốt nhất của Việt Nam" liờn tục trong 5 năm 2000, 2001, 2002, 2003 và 2004.
  20. Túm tắt tỡnh hỡnh hoạt động kinh doanh Trong những năm gần đây nền kinh tế thế giới có nhiều biến cố lớn như cuộc khủng khoảng tài chính và tiền tệ năm 1997, đồng tiền chung Châu âu ra đời, sự cố máy tính, sự sáp nhập của các tập đoàn kinh tế, định chế trong hệ thống tài chính Ngân hàng thế giới tiếp tục diễn ra đó ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế Việt Nam trên các lĩnh vực đầu tư nước ngoài, sản xuất và tiêu thụ hàng hoá nên tốc độ phát triển kinh tế chỉ được duy trỡ ở mức khiờm tốn. Tuy vậy, cựng với những biện phỏp thỏo gỡ khú khăn linh hoạt của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thỡ với những cố gắng, nỗ lực lớn lao của mỡnh Ngõn hàng Ngoại thương vẫn luôn duy trỡ được tốc độ tăng trưởng cao và ổn định liên tiếp qua các năm. Mặc dù môi trường kinh doanh có nhiều khó khăn nhưng hoạt động Tín dụng của Ngân hàng Ngoại thương đó được cải tiến về nhiều mặt nên đảm bảo được chất lượng tốt, các dịch vụ Ngân hàng luôn được cải tiến về chất lượng và đa dạng hoá nhằm đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Ngoài các hoạt động cho vay thông thường Ngân hàng Ngoại thương đó tăng cường hoạt động qua thị trường liên ngân hàng trong nước và quốc tế nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, góp phần tăng trưởng lợi nhuận. Trong những năm qua Ngân hàng Ngoại thương luôn phát huy vai trũ là một ngõn hàng uy tớn nhất trong cỏc lĩnh vực tài trợ, thanh toỏn xuất nhập khẩu, kinh doanh ngoại hối, bảo lónh và cỏc dịch vụ tài chớnh, ngõn hàng quốc tế, do vậy trong điều kiện cạnh tranh gay gắt Ngân hàng Ngoại thương vẫn giữ vững được thị phần ở mức cao và ổn định. Song song với các hoạt động kinh doanh, Ngân hàng Ngoại thương luôn chú trọng đến các hoạt động hỗ trợ kinh doanh khác như phát triển nguồn nhân lực, đầu tư chiều sâu vào công nghệ Ngân hàng. Hệ thống Ngân hàng bán lẻ (VCB -2010) - một bộ phận của chiến lược phát triển công nghệ Ngân hàng - được đưa vào sử dụng từ tháng 9/1999 tại Sở giao dịch và đến nay đó triển khai trong toàn hệ thống Ngõn hàng Ngoại thương. Xác định được những khó khăn trước mắt cũng như trong tương lai, nhằm hội nhập với bên ngoài, theo đuổi các chuẩn mực Ngân hàng trong khu vực cũng như trên thế giới, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đó xõy dựng chiến lược phát triển đến năm 2010 với những định hướng lớn và toàn diện bảo đảm cho ngân hàng phát triển
nguon tai.lieu . vn