Xem mẫu

LUẬN VĂN: Lý luận hình thái kinh tế - xã hội và vận dụng nó trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta 1 Lời nói đầu Triết học có lịch sử ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ VI trước công nguyên tại các trung tâm văn hoá - văn minh cổ đại Trung Quốc, ấn độ và Hy Lạp. Trải qua một quá trình phát triển của lịch sử, triết học có ảnh hưởng hết sức lâu dài trong lịch sử văn hoá phương Đông và phương Tây. Triết học được coi là khoa học của mọi khoa học, với ý nghĩa bao quát trong nó mọi tri thức, đều có căn nguyên lịch sử từ sự phát triển chưa đầy đủ của tri thức nhân loại. Triết học với tư cách là một khoa học, có nhiệm vụ nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, từ đó xây dựng thế giới quan và phương pháp luận cơ bản, có tính định hướng cho cả quá trình nhận thức và cải tạo thế giới. Trong lịch sử nhận thức và thực hiện của nhân loại, triết học thông qua hai chức năng thế giới quan và phương pháp luận của mình để giải thích về thế giới, định hướng cho quá trình nhận thức và cải tạo thế giới. Do vậy xây dựng một thế giới quan triết học đúng đắn khoa học là tiền đề để xây dựng một phương pháp luận chuẩn xác trong nhận thức và thực tiễn. Thế giới quan và phương pháp luận triết học khoa học trong thời đại ngày nay thuộc về triết học Mác-Lênin. Thế giới quan và phương pháp luận ấy xuất phát từ việc giải quyết một cách khoa học vấn đề cơ bản của triết học. Do đó, muốn nắm vững những vấn đề về thế giới quan và phương pháp luận thì cần phải hiểu rõ về triết học. Trong triết học có đề cập đến chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong chủ nghĩa duy vật lịch sử, lý luận hình thái kinh tế-xã hội là lý luận cơ bản nhất, vạch ra xã hội không phải là sự kết hợp một cách ngẫu nhiên, máy móc của các cá nhân, mà là một hệ thống vận động phát triển theo các quy luật khách quan. Lý luận hình thái kinh tế - xã hội đã đưa lại một phương pháp thực sự khoa học để phân tích các hiện tượng trong đời sống xã hội. Ngày nay, mặc dầu nhân loại đã và đang có nhiều thay đổi nhưng lý luận đó vẫn nguyên giá trị. Lý luận đó cũng luôn luôn được Đảng ta vận dụng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nhận thấy được tầm quan trọng về lý luận hình thái kinh tế - xã hội và ý nghĩa phương pháp luận của nó cũng như sự vận dụng một cách khoa học và linh hoạt vào điều kiện cụ thể của Việt Nam trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH), em quyết định chọn đề tài nghiên cứu : "Lý luận hình thái kinh tế - xã hội và vận dụng nó trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta". Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, đề tài bao gồm hai nội dung chính :  Phần I : Khái quát chung về hình thái kinh tế - xã hội  Phần II : Vận dụng hình thái kinh tế -xã hội vào quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Phần I : Khái quát chung về hình thái kinh tế - xã hội I. Hình thái kinh tế - xã hội sự phát triển của quá trình lịch sử tự nhiên 1. Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội Xã hội không là sự kết hợp một cách ngẫu nhiên giữa các yếu tố với nhau theo ý muốn chủ quan của con người, mà là một hệ thống trong đó các yếu tố thống nhất với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và không ngừng tác động với tự nhiên, làm biến đổi tự nhiên. Trên cơ sở phân tích các mặt trong đời sống xã hội và các mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng. Các Mác đã đi đến khái quát xã hội bằng phạm trù hình thái kinh tế - xã hội và coi sự phát triển của các hình thái kinh tế -xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên. Trong hệ thống các quan hệ xã hội hết sức phức tạp, C.Mác đã vạch ra quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản của xã hội, là cơ sở của các quan hệ xã hệ khác, nó quy định tính độc đáo riêng của từng xã hội trong lịch sử. Trong tác phẩm của mình, Mác đã viết "tổng hợp lại thì những quan hệ sản xuất hợp thành cái mà người ta gọi là những quan hệ xã hội và hơn nữa hợp thành một xã hội ở vào một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, một xã hội có tính độc đáo riêng biệt. Xã hội thời cổ, xã hội phong kiến, xã hội tư bản đều là những tổng thể quan hệ sản xuất như vậy, mỗi tổng thể đó đồng thời lại đại biểu cho một giai đoạn phát triển đặc thù trong lịch sử nhân loại. Căn cứ vào các tư tưởng của Mác và Lênin, các nhà triết học macxit đã nêu ra các định nghĩa về hình thái kinh tế - xã hội. Theo G.E Glê-dec-man, hình thái kinh tế - xã hội là một giai đoạn lịch sử nhất định trong sự phát triển của xã hội mà cơ sở của nó là một phương thức sản xuất đặc trưng chỉ riêng cho nó. Đó không phải là xã hội "chung chung" mà là xã hội thuộc một kiểu nhất định, hoặc là phong kiến hoặc là tư bản chủ nghĩa hoặc là cộng sản chủ nghĩa ... Trong cuốn từ điển triết học, hình thái kinh tế - xã hội là kiểu xã hội có tính lịch sử dựa trên cơ sở một phương thức sản xuất nhất định và biểu hiện từ chế độ nguyên thuỷ qua chế độ nô lệ, phong kiến và tư bản đến hình thái cộng sản. Trong giáo trình của nhà trường, hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy. Như vậy hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống xã hội hoàn chỉnh có cấu trúc phức tạp, trong đó các mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt của hình thái kinh tế - xã hội có vị trí riêng và tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau. Trong đó lực lượng sản xuất là cơ sở vật chất - kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội khác nhau có lực lượng sản xuất khác nhau. Suy cho cùng, sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng của nó. Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội. 2. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử - tự nhiên Các mặt cấu thành của hình thái kinh tế - xã hội không ngừng tác động qua lại lẫn nhau, làm cho các hình thái kinh tế - xã hội không ngừng vận động và phát triển. Theo Mác, xã hội vận động và phát triển theo các quy luật khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan của con người. Theo Lênin, sự vận động của xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên chịu sự chi phối của những quy luật không những không phụ thuộc vào ý chí, ý thức và ý định của con người mà trái lại, còn quyết định ý chí, ý thức và ý định của con người. Sự vận động và phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội vừa bị chi phối bởi các quy luật chung, phổ biến, vừa bị chi phối bởi các quy luật đặc thù. Quy luật phổ biến của sự vận động, phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là các quy luật chi phối sự vận động, phát triển ... - tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn