Xem mẫu

LUẬN VĂN: Lý luận của lênin về chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội I . Lý luận của lênin về cntb nhà nước trong thời kỳ quá độ lên cnxh : 1. Sự cần thiết : Khi cách mạng tháng mười vừa thành công thì chính quyền Xô viết phẩi đương đầu với cuộc nội chiến và cuộc can thiệp cũ trang của cả chủ nghĩa đế quốc thế giới .Đứng trước nguy cơ một mất một còn , chính quyền xô viết tìm mọi cách để tập trung mọi lực lượng nhằm đánh bại những lực lượng thù địch bên trong và bên ngoài .Chính sách “ Cộng sản thời chiến “ ra đời trong hoàn cảnh đó . Đó là chính sách kinh tế của nhà nước Xô viết nhằm huy động mọi tài nguyên trong nước do nhu cầu của tiền tuyến trong điều kiện nền kinh tế bị tàn phá sau cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất . Chính sách thời chiến đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thắng lợi cho cuộc nội chiến . Nhưng sau khi đập tan bọn vũ trang can thiệp và kết thúc nội chiến , tình hình kinh tế , chính trị , xã hội nước Nga rất bi đát .Đất nước lâm vào cuộc khủng hoảng toàn diện trầm trọng . Đất nước Xô viết cần có những biện pháp mới , chiến lược mới để khôi phục và phát triển vì chính sách “ Cộng sản thời chiến “ không còn phù hợp . Thực tế cho thấy không thể thực hiện ngay CNXH mà cần phải lùi về CNTBNN , từ bỏ biện pháp tấn công chính diện và bắt đầu một cuộc bao vây lâu dài . Sự chuyển đổi ấy được đánh dấu bằng chính sách “ kinh tế mới “ . Chính sách kinh tế mới nói chung , CNTBNN nói riêng ra đời là sự xuất phát từ điều kiện thực tế và là sự tất yếu do hoàn cảnh kinh tế đề ra . Nước Nga là một nước chậm tiến ở châu âu , cho nên nước Nga Xô viết chỉ mới có nguyện vọng tiên quyết tiến lên con đường chxh mà chưa có nền móng kinh tế của nó .Trong một nước như vậy theo lênin , cuộc cách mạng xhcn chỉ có thể thắng lợi với hai điều kiện : Điều kiện thứ nhất là có sự ủng hộ kip thời của cách mạng xhcn ở một số nước tiên tiến . Điều kiện thứ hai : là sự thoả thuận giữa giai cấp vô sản đang thực hiện sự chuyên chính của mình hoặc đang nắm chính quyền nhà nước với đại da số nông dân .Lênin khẳng định : chừng nào cách mạng chưa nổ ra ở các nước khác thì chỉ có thoả thuận với nông dân mới có thể cứu vãn được cuộc cách mạng xhcn . Đó là lý do phải quay về tư bản nhà nước . Sự thoả thuận giữa hai giai cấp này sau khi kết thúc nội chiến đã trở nên không vững chắc vì nông dân không hài lòng với hình thức quan hệ hiện có , không muốn có hình thức quan hệ ấy nữa và không muốn tiép tục sống mãi như thế .Do đó , phải thiết lập những mối quan hệ mới thông qua các hoạt động kinh tếvà phải thoả mãn được những yêu cầu của nông dân , về thực chất có thể thoả mãn nông dân bằng hai việc : phải có sự tự do trao đổi nhất định và phải kiếm ra hàng hoá và lương thực . Chính sách tự do trao đổi là nhằm “ kiếm ra hàng hoá “ căn cứ vào tâm lý của người tiêu dùng . Nhờ chính sách tự do buôn bán mà kích thích người nông dân , vì lợi ích của bản thân mà tạo ra nhiều nông sản , hàng hoá , chính sách tự do buôn bán là sự thoả thuận với nông dân một cách thực tế , khéo léo , khôn ngoan và mềm dẻo . Cũng chính vì chính sách tự do trao đổi hàng hoá trong nông dân và chính sách đó mà xuất hiện hai vấn đề dẫn đến CNTBNN . Trước hết tự do trao đổi là tự do buôn bán ; mà tự do buôn bán tức là lùi lại CNTB . Lênin đã dự kiến trước như vậy nhưng không phải vì thế mà ta có thể ngăn cấm được . Từ đó thấy được sự cần thiết phải dung nạp CNTB . ở đây diễn ra một điều mà chính Lênin cũng phải nói “ hình như là ngược đời : CNTB lại đóng vai trò là trợ thủ cho CNXH , có thể sử dụng CNTB tư nhân để xúc tiến CNXH “ . Muốn không thể thay đổi bản chất của mình , nhà nước vô sản chỉ có thể thừa nhận cho CNTB được phát triển trong một chừng mực nào đó và tư bản tư nhân phải phục tùng sự điều tiết của nhà nước , phải tìm cách hướng chúng vào con đường của CNTBNN bằng một tổ chức của nhà nước và những biện pháp có tính chất nhà nước từ bên trên . Vậy , trong điều kiện nhà nước vô sản , tự do trao đổi , tự do buôn bán tất dẫn đến sự phục hồi của CNTB dưới hình thức chủ yếu là CNTBNN . Trong điều kiện mà CNTB tư sản chiếm ưu thế , hàng hoá chỉ có thể có được từ nông dân , từ nông nghiệp , như vậy , phạm vi trao đổi chỉ diễn ra trong phạm vi hàng hoá nông sản điều đó sẽ kích thích nông dân , nông nghiệp phát triển . Do đó , phải có những hàng hoá mà nông dân cần đó là những sản phẩm công nghiệp và thủ công nghiệp . Nhưng tình hình trong nước không thể giải quyết ngay vấn đề này nếu không có sự gíp đỡ của tư bản nước ngoài , theo Lênin thì cần phải “ du nhập “ CNTB từ bên ngoài bằng những hợp đồng buôn bán với nước tư bản lớn bằng những hình thức khác nhau cuả CNTBNN. 2 .Vai trò của CNTBNN trong nền kinh tế nước Nga : Bản chất của CNTBNN là sự kết hợp , phối hợp Nhà nước Xô viết , nền chuyên chính vô sản với CNTB , là một khối CNTB và đương nhiên sẽ không có CNTBNN, nếu không có những điều kiện cho họ , điều ấy theo Lênin , chính là” cống vật “ . Trong điều kiện trên thế giới chỉ có mình chính quyền Xô viết , xung quanh là cả một hệ thống các nước tư bản , muốn tồn tại , chính quyền Xô viết không thể bỏ qua sự thật ấy . Khi thực hiện CNTBNN, nhà tư bản được lặp lại , được du nhập không phải vì lợi ích củng cố chính quyền Xô viết , mà vì lợi ích của bản thân họ . Chính Lênin còn dự kiến khả năng sự phân chialợi ích đó thoạt đầu có lợi nhiều cho các nhà tư bản dưới hình thức” trả giá “cho sự lạc hậu , cho sự kém cỏi của mình . Vấn đề là không cần che giấu sự thật : phải nộp “ cống vật “ . Nhưng đối với nhà nước vô sản thì sự dung nạp và du nhập CNTB sẽ mang lại những lợi ích cơ bản và lâu dài . Sự phát triển của CNTB do nhà nước vô sản kiểm soát và điều tiết có thể đẩy nhanh sự phát triển ngay tức khắc nền nông nghiệp . Nhờ việc tăng nhanh lực lượng sản xuất trong nông nghiệp mà ổn định xã hội , thoát khỏi khủng hoảng , thoát khỏi tình cảnh giảm sút tín nhiệm của nông dân đối với chính quyền Xô viết , khắc phục tình trạng trộm cắp của công ... Bằng sự du nhập CNTB ở bên ngoài mà tăng nhanh lực lượng sản xuất , tăng lên ngay hoặc trong một thời gian ngắn . Cải thiện đời sống công nhân và nông dân , nền đại công nghiệp sẽ được phục hồi . CNTBNN là công cụ để liên hợp nền sản xuất nhỏ lại , khắc phục tình trạng phân tán và đấu tranh chống tính tự phát tiểu tư sản và TBCN . CNTBNN là một bước tiến lớn , nhờ nó mà tránh được tình trạng hỗn độn , tình trạng suy sụp về kinh tế , hiện tượng lỏng lẻo , những thói quen , địa vị kinh tế của giai cấp . Cũng chính vì thế mà CNTBNN sẽ đưa nước Nga lên CNXH bằng con đường chắc chắn nhất . CNTBNN là công cụ để khắc phục được “ kẻ thù chính trong nội bộ đất nước , kẻ thù của các biện pháp kinh tế “ của chính quyền Xô viết . Đó là bọn đầu cơ , gian thương , bọn phá hoại độc quyền nhà nước . CNTBNN còn được xem là công cụ đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu và những lệch lạc quan liêu chủ nghĩa . Thông qua CNTB và CNTBNN mà giai cấp công nhân có thể học tập cách quản lý của nền sản xuất lớn , tổ chức một nền sản xuất lớn . CNTBNN thông qua sự du nhập của tư bản từ bên ngoài là hình thức du nhập tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại , qua đó có được trình độ trang bị cao của CNTB . CNTB thông qua sự phát triển của nó mà phục hồi được giai cấp công nhân . Nếu CNTB được lợi thế thì sản xuất công nghiệp cũng sẽ tăng lên và giai cấp vô sản cũng theo đó mà lớn mạnh lên . 3.Các hình thức TBNN mà Lênin đã nêu : a.Tô nhượng : Tô nhượng là một giao kèo , một sự liên minh , liên kết giữa chính quyền nhà nước xô viết , nghĩa là nhà nước vô sản với CNTB , chống lại thế lực tự phát tiểu tư hữu .Tô nhượng là chính quyền Xô viết ký hợp đồng với nhà tư bản . Chính quyền XHCN giao cho nhà tư bản tư liệu sản xuất của mình . Nhà tư bản tiến hành kinh doanh với tư cách là một bên ký kết , là người thuê tư liệu sản xuất xã hội chủ nghĩa và thu được lợi nhuận của tư bản mà mình đã bỏ ra , rồi nộp cho nhà nước XHCN một phần sản phẩm , tô nhượng là hình thức kinh tế mà hai bên cùng có lợi . Nhà nước tư bản thu được lợi nhuận bất thường , siêu ngạch hoặc để có được loại nguyên liệu không tìm được hoặc khó tìm được . Chính quyền Xô viết cũng có lợi : lực lượng sản xuất phát triển , số lượng sản phẩm tăng lên . Hình thức tô nhượng là sự “ du nhập “ chủ nghĩa tư bản từ bên ngoài vào . Tất cả khó khăn trong nhiệm vụ này là phải suy nghĩ , phải cân nhắc hết mọi điều khi ký kết hợp đồng tô nhượng và sau đó phải biết theo dõi việc chấp hành nó . Lênin đã nêu ra những vấn đề cần chú ý : Để thực hành tô nhượng cần phải từ bỏ chủ nghĩa ái quốc địa phương một số người cho rằng , tự mình có thể làm lấy , không chấp nhận trở lại ách nô dịch của tư bản . ... - tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn