Xem mẫu

LUẬN VĂN: Lợi nhuận và các yếu tố liên quan đến lợi nhuận Chương I Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận 1. Quan điểm của trường phái trọng thương về lợi nhuận. Chủ nghĩa trọng thương ra đời vào thời kỳ quá độ mà nền kinh tế phong kiến bước vào thời kỳ suy đồi và nền kinh tế tư bản chủ nghĩa bắt đầu hình thành. Nó ra đời phản ánh những quan điểm kinh tế của chủ nghĩa tư bản vào thời kỳ đầu tư bản vào thời kỳ tiền tư bản và nó được phát triển rộng rãi ở các nước Tây âu. Mặc dù thời kỳ này chưa biết đến quy luật kinh tế trọng thương đã tạo ra nhiều tiền đề về kinh tế xã hội cho các lý luận kinh tế thị trường sau này phát triển. Điều này được thể hiện ở chỗ họ đưa ra quan điểm sự giàu có không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị tiền. Mục đích hoạt động của kinh tế hàng hoá thị trường là lợi nhuận. “Học thuyết kinh tế trọng thương cho rằng lợi nhuận là do lĩnh vực lưu thông mua bánhững, trao đổi sinh ra. Nó là kết quả của việc mua ít bán nhiều, mua rẻ bán đắt mà có”. Nhưng trong giai đoạn này các nhà kinh tế học chưa hiểu quan hệ giữa lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ. Vì đó ở giai đoạn đầu của thời kỳ này, các nước tư bản đã đưa ra các chính sách làm tăng của cải tiền tệ, giữ cho khối lượng tiền không ra nước ngoài, tập trung buôn bán để nhà nước dễ kiểm tra, bắt buộc các thương nhân nước ngoài tập trung buôn bán phải dùng số tiền mà họ có mua hết hàng hoá mang về nước họ... ở giai đoạn sau họ dùng chính sách xuất siêu để có thêm chênh lệch, mang tiền ra nước ngoài để thực hiện mua rẻ bán đắt... Với những chính sách đưa ra nhằm đạt được lợi ích như trên của các nước tư bản chỉ mang tính chất bề mặt nông cạn. Chứng tỏ quan điểm về lợi nhuận cũng như kinh tế chưa có “chiều sâu” thực chất. Chính điều này đã dẫn đến nhiều mâu thuẫn trong nền kinh tế. Đòi hỏi phải thoát khỏi phương pháp kinh nghiệm thuần tuý. Phải phân tích kinh tế xã hội với tư cách là một chỉnh thể. 2. Quan điểm của trường phái cổ điển về lợi nhuận. Trong thời kỳ chủ nghĩa trọng thương, sự hoạt động của tư bản chủ yếu là trong lĩnh vực lưu thông. Các nhà kinh tế học của trường phái này lần đầu tiên chuyển đối tượng nghiên cứu lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất. Lần đầu tiên họ xây dựng một hệ thống các phạm trù và quy luật của nền kinh tế thị trường như phạm trù lợi nhuận, địa tô, lợi tức... trong đó có một số quan điểm về lợi nhuận, nổi bật là quan điểm của Kene, A.D Smith, Ricacdo. a. Quan điểm của Kene. Kene được C. Mac đánh giá là cha đẻ của kinh tế chính trị học cổ điển và ông có công lao to lớn trong lĩnh vực kinh tế. Kene đã đặt nền tảng cho việc nghiên cứu sản phẩm tức là nền móng cho việc nghiên cứu quan hệ thặng dư sau này. ông đã đưa ra những quan điểm kinh tế để tiến hành phê phán chủ nghĩa trọng thương. Kene cho rằng trao đổi thương mại chỉ đơn thuần là việc đổi giá trị này lấy giá trị sử dụng khác theo nguyên tắc ngang giá cả. Hai bên không có gì để mất hoặc được cả. Bởi vậy thương nghiệp không thể đẻ ra tiền được. Theo ông lợi nhuận thương nghiệp có được do tiết kiệm các khoản chi phí về thương mại và của cải chỉ có thể tạo ra trong việc sản xuất nông nghiệp. Chính quan điểm này đã chuyển việc nghiên cứu của cải từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất. Ngoài ra ông còn có lý luận về sản phẩm thặng dư. ông cho rằng sản phẩm thặng dư chỉ được tạo ra sản xuất nông nghiệp kinh doanh theo kiểu tư bản chủ nghĩa bởi vì trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp đã tạo ra được chất mới nhờ có được sự giúp đỡ của tự nhiên. Đây là một quan điểm sai lầm. Nhưng ông cũng manh nha bước đầu tìm ra được nguồn gốc của giá trị thặng dư. ông cho chi phí sản xuất là tiền lương, sản phẩm thuần tuý là số chênh lệch giữa thu hoạch và tiền lương đó chính là phần do lao động thặng dư tạo ra. Với Petty lợi nhuận là khoản dôi ra so với chi phí sản xuất và petty cho rằng phần lợi nhuận dôi ra phụ thuộc vào nhà tư bản là hợp lý. Đó là công lao về sự mạo hiểm của nhà tư bản ứng tiền ra sản xuất. Còn A.R.J Turogt thì cho rằng lợi nhuận là thu nhập không lao động do công nhân tạo ra. A.D. Smith thì nghĩ gì ? ông cho rằng lợi nhuận là khoản khấu trừ thứ hai vào sản phẩm của người lao động, chúng đều có chung nguồn gốc là lao động không được trả công của công nhân. ông chỉ ra lợi tức là một bộ phận của lợi nhuận mà nhà tư bản hoạt động bằng tiền đi vay phải trả cho chủ của nó để được sử dụng tư bản.Ông đã nhìn thấy xu hướng bình quân hoá tỉ suất lợi nhuận và xu hướng tỉ suất lợi nhuận giảm sút do khối lượng tư bản đầu tư tăng lên. Xuất phát từ sự phân tích giá trị hàng hoá do người công nhân tạo ra. A.D.Smith thấy một thực tế là công nhân chỉ nhận được một phần tiền lương, phần còn lại là địa tô và lợi nhuân tư bản .Theo ông địa tô cộng với lợi tức tư bản đầu tư cải tạo đất bằng tiền tô. Điều này tiến bộ hơn các học thuyết trước đây. Tuy nhiên ông còn cho rằng sở dĩ nông nghiệp có địa tô, vì lao đông nông nghiệp có năng suất lao động cao hơn công nghiệp và ông phủ nhận địa tô tuyệt đối. Ông cho rằng nếu thừa nhận địa tô tuyệt đối là vi phạm qui luật giá trị . b. Quan điểm của Picacdo: Nếu như A.D.Smith sống trong thời kì công trường thủ công phát triển mạnh mẽ thì David Ricacdo sống trong thời kì cách mạng công nghiệp. Đó là điều kiện khách quan để ông vượt được ngưỡng giới hạn mà A.D.Smith dừng lại.Ông là người kế tục xuất sắc của A.D.Smith. Theo C. Mac, A.D.Smith là nhà kinh tế của thời kì công trường thủ công còn Ricacdo là nhà tư tưởng của thời đại cách mạng công nghiệp. Ông sử dụng phương pháp khoa học tự nhiên, sử dụng công cụ trừu tượng hoá, đồng thời áp dụng các phương pháp khoa học chính xác, đặc biệt là phương pháp suy diễn để nghiên cứu kinh tế chính trị học. Về lợi nhuận, Ricacdo cho rằng : “Lợi nhuận là số còn lại ngoài tiền lương mà nha tư bản trả cho công nhân”. Ông đã thấy xu hướng giảm sút tỉ suất lợi nhuận và giải thích nguyên nhân của sự giảm sút nằm trong sự vận động, biến đổi thu nhập giữa ba giai cấp: địa chủ ,công nhân và nhà tư bản. Ông cho rằng quy luật màu mỡ đất đai ngày càng giảm, giá cả nông phẩm tăng lên làm cho tiền lương công nhân tăng và địa tô tăng lên còn lợi nhuận không tăng. Như vậy, theo ông địa chủ là người có lợi, công nhân không có lợi cũng không bị hại, còn nhà tư bản thì có hại vì tỉ suất lợi nhuận giảm xuống. Nhưng hạn chế của ông là không phân biệt thặng dư. 3. Quan điểm của trường phái: Theo lợi nhuận lãnh doanh là lợi tức ẩn, lợi nhuận là phần thưởng cho việc gánh chịu rủi ro cho sự đổi mới, lợi nhuận là lợi tức độc quyền. Bởi ông cho rằng lợi nhuận kinh doanh là tổng hợp của nhiều khoản khác nhau. Phần lớn giá trị lợi nhuận kinh doanh được báo cáo chỉ là phần lợi tức của các chủ sở hữu công ty do lao động của họ do vốn đầu tư của họ mang lại. Nghĩa là tiền trả cho các yếu tố sản xuất do họ cung cấp. Nếu loại bỏ tất cả lợi tức ẩn thì ta được lợi nhuận thuần tuý và đó là phần thưởng cho các hoạt động đầu tư có lợi bất định. Khi phân tích phần thưởng cho sự gánh chịu rủi ro nói trên chúng ta không tính tới các rủi ro do vỡ nợ hay các rủi ro có bảo hiểm. Có một dạng rủi ro cần lưu ý khi tính toán lợi nhuận đó là rủi ro không được bảo hiểm doanh thu công ty phụ thuộc rất lớn vào thăng trầm trong chu kì kinh doanh. Do các nhà đầu tư rất không thích các trường hợp rủi ro nên họ đòi hỏi phải có mức phí dự phòng rủi ro cho những đầu tư không chắc chắn nhằm bù đắp cho những rủi ro của họ. Lợi nhuận bằng doanh thu trừ chi phí. Lợi nhuận kinh doanh được báo cáo chủ yếu là thu nhập của công ty. 4. Học thuyết của Mác-Lênin: Mác viết: “Tôi là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động biểu hiện trong hàng hoá”. Sở dĩ hàng hoá có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị lao động vì lao động sản xuất hàng hoá có tính hai mặt là lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Theo Mác lao động cụ thể là lao động hao phí dưới một hình thức cụ thể của một nghề nghiệp chuyên môn nhất định, có mục đích riêng, đối tượng riêng thao tác riêng phương tiện riêng và kết quả riêng. Kết quả của lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hoá. Lao đông cụ thể càng nhiều loại thì giá trị sử dụng càng nhiều loại. Tất cả các lao động cụ thể hợp thành hệ thống phân công lao động xã hội ngày càng chi tiết. Lao động cụ thể là một phạm trù vĩnh viễn, là một điều kiện không thể thiếu được trong mọi điều kiện của xã hội. ... - tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn