Xem mẫu

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM NGUYỄN THỊ HÀ HUYỆN CHIÊM HOÁ -TUYÊN QUANG NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ VIỆT NAM Thái Nguyên, năm 2010 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM NGUYỄN THỊ HÀ HUYỆN CHIÊM HOÁ -TUYÊN QUANG NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 60 22 54 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ VIỆT NAM NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Đàm Thị Uyên Thái Nguyên, năm 2010 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  3. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN CHIÊM HOÁ TỈNH TUYÊN QUANG .... 7 1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và các thành phần dân tộc ........... 7 1.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên ............................................. 7 1.1.2. Các thành phần dân tộc trong huyện ..................................... 9 1.2. Lịch sử hành chính .................................................................... 16 Chƣơng 2: KINH TẾ CHIÊM HOÁ NỬA ĐẦU TH Ế KỶ XIX ................... 17 2.1. Vài nét về tình hình ruộng đất trước thế kỷ XIX ........................ 17 2.2. Tình hình ruộng đất Chiêm Hoá nửa đầu thế kỷ XIX theo địa bạ Gia Long 4 (1805). ...................................................................... 21 2.3. Tình hình ruộng đất Chiêm Hóa giữa thế kỉ XIX theo địa bạ Minh Mệnh 21 (1840) ...................................................................... 30 2.4. Tình hình hoạt động kinh tế ....................................................... 36 2.4.1. Nông nghiệp ....................................................................... 36 2.4.2. Công thương nghiệp ........................................................... 39 2.5. Thuế khóa ................................................................................. 43 Chƣơng 3: TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ, XÃ HỘI VÀ VĂN HÓA HUYỆN CHIÊM HOÁ NỬA ĐẤU THẾ KỈ XIX ........................................................ 47 3.1. Chính trị - xã hội ....................................................................... 47 3.1.1. Các tầng lớp xã hội ............................................................. 49 3.1.2. Thiết chế chính trị- xã hội ................................................... 58 3.2. Một số yếu tố văn hóa tộc người ................................................ 60 3.2.1. Văn hoá vật chất. ................................................................ 61 3.2.2. Tục lệ xã hội ....................................................................... 68 3.2.3. Văn hóa tinh thần ................................................................ 75 KẾT LUẬN................................................................................................... 84 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 88 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  4. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  5. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Tuyên Quang là một tỉnh miền núi phía bắc Việt Nam, là địa bàn cư trú của 22 dân tộc anh em. Từ buổi sơ khai của lịch sử nơi đây đã có người nguyên thuỷ sinh sống. Đất lành chim đậu mảnh đất này đã thu hút các dòng người từ bốn phương tìm về tụ lại... Xứ Tuyên Quang mà trung tâm là vùng Chiêm Hoá xưa nay là một địa bàn lãnh thổ có nhiều tộc người cộng cư bên nhau. Chiêm Hóa là vùng đất có điều kiện tự nhiên thuận lợi, đất đai tương đối màu mỡ, giàu tài nguyên khoáng sản, các dân tộc Chiêm Hoá mặc dù có nguồn gốc lịch sử khác nhau nhưng khi đã cùng nhau sinh sống tại nơi đây thì các dân tộc đã tích cực khai phá, mở mang ruộng đồng, xây làng lập bản để làm nơi sinh cơ lập nghiệp và phát triển lâu dài. Tình hình cộng cư của nhiều thành phần dân tộc gắn liền với quá trình phát triển lâu dài của đất nước.Việc xây dựng cộng đồng chính trị xã hội trong lịch sử không tách rời với việc xây dựng cộng đồng quốc gia dân tộc gồm nhiều thành phần dân tộc. Tình hình đó luôn gắn liền và bị chi phối bởi yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước nói chung, từng vùng miền nói riêng và bởi yêu cầu chống ngoại xâm bảo vệ sự tồn tại của quốc gia độc lập. Trong công cuộc phát triển kinh tế xã hội ở các vùng dân tộc miền núi nói chung và Chiêm Hoá nói riêng “ Với yêu cầu của công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, việc di dân gắn liền với việc phân bố dân cư, quy hoạch, xây dựng các vùng kinh tế. Đảng và Nhà nước rất quan tâm tới việc xây dựng và phát triển kinh tế xã hội ở các vùng dân tộc thiểu số.Việc phân bố lại dân cư gắn với xây dựng các vùng kinh tế nhằm khắc phục dần sự cách biệt về kinh tế xã hội giữa các dân tộc, khai thác mọi tiềm năng của đất nước, phát triển 1
  6. kinh tế xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng, đồng thời góp phần khôi phục rừng bảo vệ môi trường sinh thái” [26, tr43]. Là vùng đất rộng người thưa, núi non hiểm trở, có vị trí chiến lược về quốc phòng Chiêm Hoá từ xa xưa luôn là một bộ phận của tổ quốc Việt Nam thống nhất. Đồng bào các dân tộc nơi đây có truyền thống đoàn kết, yêu nước, giàu lòng nhân ái, dũng cảm trong đấu tranh chống cường quyền, áp bức, đánh giặc ngoại xâm; cần cù, sáng tạo trong lao động và có đời sống văn hoá tinh thần khá phong phú, độc đáo. Ngày nay, công cuộc đổi mới đất nước đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” là sự nghiệp của toàn xã hội, toàn dân tộc trong đó có phần đóng góp không nhỏ của những huyện miền núi như Chiêm Hoá vào công cuộc phát triển chung của đất nước. Bản thân tôi là một ngưòi dân địa phương cũng như bao người dân khác sinh sống trên mảnh đất Chiêm Hoá lịch sử đều mong muốn hiểu biết về một thời kỳ lịch sử của địa phương mình: Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội cũng như đời sống tinh thầ n phong phú, độc đáo của nhân dân các dân tộc Chiêm Hoá nửa đầu thế kỷ XIX. Việc nghiên cứu về một thời kỳ lịch sử của Chiêm Hoá (nửa đầu thế kỷ XIX) còn góp phần làm cơ sở cho việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta: đại đoàn kết dân tộc, đưa miền núi tiến kịp miền xuôi, xây dựng con người mới, cuộc sống mới trên mảnh đất Chiêm Hoá giàu truyền thống. Được sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của cô giáo hướng dẫn khoa học là PGS. TS Đàm Thị Uyên cùng các thầy, cô giáo trong tổ bộ môn Lịch Sử Việt Nam và Ban Chủ nhiệm khoa Lịch Sử trường Đại học Sư Phạm - Đại học Thái Nguyên, nên tôi đã chọn đề tài: “Huyện Chiêm Hoá (Tuyên Quang) nửa đầu thế kỷ XIX”. 2
  7. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Trong quá trình nghiên cứu đề tài, chúng tôi đã tham khảo các tác p hẩm sau: - Trước hết là cuốn “Đồng Khánh dư địa chí”, đã nêu một cách đầy đủ, khái quát về: Vị trí địa lí, tài nguyên, khí hậu, tình hình kinh tế - xã hội, phong tục tập quán; về đồn lũy, cửa quan, số dân, diện tích ruộng đất… của các huyện trong tỉnh, trong đó có huyện Chiêm Hoá. - Lịch sử Đảng bộ huyện Chiêm Hoá (Tuyên Quang) - (1943-1991) của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Chiêm Hoá, là một công trình nghiên cứu khoa học đầy đủ và có hệ thống về huyện Chiêm Hoá trong thời kì kháng chiến cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. - Tiếp đến là tài liệu nghiên cứu “Tìm hiểu vài nét về chế độ Quằng ở vùng Mường Giàng thuộc Chiêm Hoá Tuyên Quang trước năm 1945” của Vũ Xuân Bân. Tài liệu đã nêu khá đầy đủ và chi tiết về chế độ Quằng ở vùng Mường Giàng (Chiêm Hoá) - Tuyên Quang như: quá trình hình thành và tồn tại của chế độ Quằng từ khi hình thành, khi thực dân Pháp xâm lược và sự tan rã của nó; chế độ ruộng đất, chính sách cai trị của Quằng và quan hệ giai cấp trong chế độ Quằng ở Mường Giàng (Chiêm Hóa) – Tuyên Quang. Nguồn tài liệu trên là ý kiến gợi mở quý báu tạo điều kiện cho tôi thực hiện đề tài của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích: Trước hết bản thân là một người dân địa phương có mong muốn tìm hiểu về quê hương trong lịch sử và nhằm góp thêm cơ sở khoa học về cư dân miền núi nói chung và phía Bắc nói riêng lâu nay còn ít người quan tâm. Đồng thời, việc tìm hiểu nghiên cứu này mong muốn góp phần nêu lên một cách chân thực, khoa học về một thời kì lịch sử trong quá khứ của mảnh đất 3
  8. cũng như con người Tuyên Quang. Ngoài ra, còn có thể bổ sung thêm nguồn tư liệu góp phần lí giải một số vấn đề lịch sử Việt Nam trung đại: lịch sử đấu tranh và bảo vệ biên cương, bảo vệ chính quyền quốc gia dân tộc, mối quan hệ giữa các dân tộc trong quá trình tồn tại và phát triển của đất nước, góp phần lí giải về cơ sở xuất phát cho những chính sách của Đảng và nhà nước ta.... - Nhiệm vụ: Bước đầu nghiên cứu tương đối toàn diện và đầy đủ về các mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội của huyện Chiêm Hóa Tuyên Quang nửa đầu thế kỉ XIX để qua đó thấy được bức tranh về một thời kì lịch sử trong quá khứ của mảnh đất và con người Tuyên Quang. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu : Bao gồm nguồn gốc các dân tộc, tổ chức hành chính, chế độ sở hữu ruộng đất, văn hoá xã hội của Chiêm Hoá nửa đầu thế kỷ XIX. - Phạm vi nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu về huyện Chiêm Hoá (Tuyên Quang) khoảng thời gian nửa đầu thế kỉ XIX. Đây là giai đoạn lịch sử Việt Nam có nhiều sự kiện quan trọng, tác động mạnh mẽ đến quá trình tồn tại và phát triển của huyện Chiêm Hoá nói riêng và tỉnh Tuyên Quang nói chung. 5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu - Nguồn tư liệu Nguồn tư liệu chung: Đại Việt sử kí toàn thư, Lịch triều hiến chương loại chí, Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam nhất thống chí, Đại Nam thực lục, Đồng Khánh Dư địa chí… Nguồn tài liệu địa phương: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (1940 - 1975). Lịch sử Đảng bộ huyện Chiêm Hoá (1943 - 1991); Văn hoá truyền thống các dân tộc Tày, Dao, Sán Dìu ở Tuyên Quang, di tích lịch sử Tuyên Quang, huyện Chiêm Hoá anh hùng, Các dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang... 4
  9. Nguồn tài liệu thực địa, điền dã: Các tài liệu truyền miệng, chuyện kể, truyền thuyết, ca dao, tục ngữ địa phương, quần thể bia mộ của dòng họ Quằn g Ma Doãn ở xã Thổ Bình, Minh Đức huyện Chiêm Hoá (Tuyên Quang)... Nguồn tư liệu địa bạ: 25 đơn vị địa bạ có niên đại Gia Long 4 (1805 ) với các kí hiệu từ 8073 F1:10 đến 8099 F1:8; 7 đơn vị địa bạ có niên đại Minh Mệnh 21 (1840) với các kí hiệu từ 8101 F1:8 đến 8107 F3:11. Các bản địa bạ nêu trên hiện đang lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I – Hà Nội. Hầu hết các thôn xã đều có địa bạ, đó là cơ sở để chúng tôi phục dựng lại tổ chức làng bản cũng như kết cấu kinh tế xã hội của Chiêm Hoá nửa đầu thế kỉ XIX. - Phương pháp nghiên cứu Trong giới hạn nghiên cứu của đề tà i chúng tôi đặc biệt chú ý khâu giám định tư liệu nhất là các tư liệu bằng chữ Hán để thấy được mức độ chính xác của nó. Kết hợp với việc sử dụng phương pháp khai thác tà i liệu thành văn kết hợp với phương pháp điền dã lịch sử. Đồng thời sử dụng các phương pháp lịch sử, logic, phân tích, mô tả, so sánh, đối chiếu các nguồn tà i liệu, phương pháp tổng hợp bằng hệ thống các bảng biểu. Chúng tôi đặt việc nghiên cứu lịch sử huyện Chiêm Hoá (tỉnh Tuyên Quang) trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc (trong khoảng thời gian nửa đầu thế kỷ XIX) để thấy được những tác động, ảnh hưởng giữa lịch sử địa phương với lịch sử dân tộc. 6. Đóng góp của luận văn Dựa trên những nguồn tài liệu có thể khai thác được , đề tài bước đầu khôi phục một cách có hệ thống bộ mặt Chiêm Hoá trong một giai đoạn lịch sử, mối quan hệ tộc người, loại hình kinh tế xã hội, thiết chế chính trị xã hội, các hoạt động kinh tế, những nét văn hoá tiêu biểu gắn với môi trường sinh thái địa phương, vùng miền, những nhân tố thúc đẩy sự biến đổi về kinh tế xã hội địa phương... trong thời kì lịch sử xã hội phong kiến Việt Nam. 5
  10. 7. Cấu trúc của luận văn Đề tài gồm 87 trang, ngoài phần mục lục, phần mở đầu, tài liệu tham khảo, phụ lục, đề tài được cấu trúc thành 3 chương: Chương 1: Khái quát về huyện Chiêm Hoá tỉnh Tuyên Quang. Chương 2: Kinh tế huyện Chiêm Hoá nửa đầu thế kỉ XIX. Chương 3: Tình hình chính trị - xã hội và văn hóa huyện Chiêm Hoá nửa đầu thế kỉ XIX. 6
  11. BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH TỈNH TUYÊN QUANG
  12. Chƣơng 1: KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN CHIÊM HOÁ TỈNH TUYÊN QUANG 1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và các thành phần dân tộc 1.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên Chiêm Hoá là một huyện vùng cao của tỉnh Tuyên Quang, mang đậm nét đặc thù của vùng núi phía Bắc Việt Nam; Phía bắc giáp huyện Na Hang; phía nam giáp huyện Yên Sơn; phía đông giáp huyện chợ Đồn (Bắc Cạn); phía tây giáp huyện Hàm Yên và huyện Bắc Quang (Hà Giang), huyện lị đặt tại thị trấn Vĩnh Lộc, cách tỉnh lị Tuyên Quang 67 km về phía Bắc. Tính từ các điểm tận cùng theo Bắc- Nam, Đông- Tây, chiều rộng của huyện là 75 km, chiều dài là 120 km. “Châu Chiêm Hoá, ở cách phủ 106 dặm về phía nam, đông tây cách nhau 73 dặm, nam bắc cách nhau 139 dặm, phía đông đến địa giới châu Bạch Thông tỉnh Thái Nguyên 22 dặm, phía tây đến địa giới huyện Vị Xuyên 51 dặm, phía nam đến địa giới huyện Vĩnh Điện 65 dặm. Đời Đinh, Lê là châu Vị Long; thời thuộc Minh là châu Đại Man, thổ tù họ Ma nối đời quản trị…”[21, tr340]. Nhìn chung địa hình của Chiêm Hoá bị chia cắt khá lớn bởi hệ thố ng sông ngòi và nhiều dã y núi lớn. Nét chung của địa hình là sự xen kẽ không đều giữa các núi đá vôi và núi đất, giữa các dãy núi cao và vùng đồi đất có độ cao trung bình hoặc thấp. Giữa các vùng đồi núi đó là các thung lũng có diện tích không lớn song đất đai màu mỡ thuận lợi cho việc xây dựng các điểm dân cư, phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp. Chiêm Hoá có nhiều dãy núi cao, điển hình là dãy núi phía nam có đỉnh cao nhất là núi Quạt (745m), dãy núi phía bắc có đỉnh cao nhất là núi Phia Gioòng (1229m), dãy núi phía đông có đỉnh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 7
  13. cao nhất là núi Khau Bươn (957m), dãy núi phía tây có đỉnh cao nhất là núi Chặm Chu (1587m). Sông, suối Chiêm Hoá có độ dốc cao , hướng chảy khá tập trung, các con suối, ngòi đều đổ về sông Gâm và sông Lô. Con sông lớn nhất là sông Gâm, bắt nguồn từ Trung Quốc, sau khi chảy qua Cao Bằng, Na Hang, sông Gâm chảy qua Chiêm Hoá trên một độ dài 40 km và là đường thuỷ duy nhất nối huyện với tỉnh lỵ Tuyên Quang và các vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Các con suối lớn như: ngòi Quẵng, ngòi Đài, ngòi Nhụng… cùng nhiều khe nhỏ khác với chiều dài 317 km tạo thành một nguồn thuỷ sinh phong phú, cung cấp nước, thuỷ sản phục vụ đời sống, sản xuất cua nhân dân và là những con đường giao thông, vận tải quan trọng. Trong hoàn cảnh đặc thù của một huyện miền núi, giao thông đường bộ của Chiêm Hoá có vai trò lớn trong việc phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh… Song đây cũng là ngành đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn, khó thực hiện và cho tới nay, kết quả đạt được vẫn chưa hoàn toàn thoả mãn được nhu cầu. Con đường chiến lược của huyện là tuyến đường khởi xuất từ k m31 của quốc lộ II chạy qua huyện lỵ lên Na Hang. Sau nhiề u năm xây dựng nâng cấp huyện đã có một mạng lưới đường liên xã, liên thôn trải rộng khắp địa bàn. Đương nhiên, đây chủ yếu là đường đất, lòng đường hẹp, nhiều dốc, việc giao thông vận tải còn gặp nhiều khó khăn, nhất là vào mùa mưa. Theo Đại Nam nhất thống chí, khí hậu của Chiêm Hoá: “ Mùa hè và mùa thu thường mưa nhiều, mùa đông và mùa xuân thường âm u mỗi khi mưa lâu tiếp đến ngày nắng, thì khí nóng khác thường, đến tiết sương giáng thì có gió rét, tháng 3 và tháng 9 khí nóng nung nấu, nhiều người bị cảm” [21, tr314]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 8
  14. Chiêm Hoá thuộc vùng khí hậu nhiệt đới thấp được phân chia thành hai mùa rõ rệt. Mùa nóng từ tháng 4 đến tháng 10, thường có mưa nhiều và mưa rào tập trung từ tháng 5 đến tháng 8, với lượng mưa cao nhất là 300,3 mm, mùa này thường xảy ra lũ lụt ; mùa lạnh thường kéo dài từ tháng 11 năm trước tới tháng 3 năm sau, thường có gió mùa đông bắc, sương mù và sương muối ; nhiệt độ trung bình năm là 22,60 C cao nhất là 39,70 C và thấp nhất là 4,20C; độ ẩm trung bình là 85%. Điều kiện tự nhiên mang lại cho Chiêm Hoá nhiều lợi thế, sự giàu có về tài nguyên khoáng sản cũng như thế mạnh về sản xuất nông, lâm nghiệp. Rừng Chiêm Hoá có nhiều lâm thổ sản và nhiều muông thú quý hiếm : Đinh, lim, nghiến, lát... gấu, nhím, tê tê, tắc kè... Dưới lòng đất có nhiều khoáng sản như : Ăngtimoan, mangan, vàng sa khoáng... Đất đai có độ phong hoá cao, lượng mưa và độ ẩm thích hợp. Chiêm Hoá có đầy đủ các điều kiện để trồng cây lương thực (lúa, ngô, sắn).. . Cây công nghiệp (sả, chè, các cây họ đậu, mía) chăn nuôi gia súc gia cầm và phát triển nghề rừng cũng như các ngành công nghiệp khai thác, chế biến. 1.1.2. Các thành phần dân tộc trong huyện Từ lâu Tuyên Quang đã là một tỉnh có nhiều dân tộc anh em sinh sống. Lê Quý Đôn trong “Kiến Văn Tiểu Lục” đã chép: Tuyên Quang có c ác giống người như: giống người Nùng, giống người Răng Vàng, giống người Hoá Thường, giống người Ngô Ngàn, bảy chủng tộc ngưòi Mán trong đó có Sơn Trang, Sơn Tử, Cao Lan, Sơn Man, Sơn Bán, Sơn Miêu...giống người Sá Ngoại, giống người La Quả, giống người Sá Tụ...[2, tr11- 12]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 9
  15. Theo sách Đại Nam nhất thống chí : “Nhân dân thì người Thanh, người Thổ, người Nùng, người Mán ở lẫn lộn với nhau, mỗi chủng tộc nó i một thứ tiếng khác nhau...”[21, tr342]. Theo số liệu thống kê năm 2008 của tỉnh Tuyên Quang, huyện Chiêm Hóa có 135.873 người (chiếm 18,57% dân số cả tỉnh). Chiêm Hoá là một huyện vùng cao của tỉnh Tuyên Quang bao gồm nhiều dân tộc sinh sống, trong đó tập trung nhiều nhất là dân tộc Tày, Kinh, Dao, Nùng, Hoa, Mông... BẢNG THỐNG KÊ CÁC THÀNH PHẦN DÂN TỘC Ở CHIÊM HOÁ (SỐ LIỆU NĂM 2008) Dân tộc Dân số Tỉ lệ (%) STT 1 Tày 82578 60.8 2 Kinh 29332 21.6 3 Dao 17839 3.04 4 Hoa 1885 1.39 5 Mông 1571 1.16 6 Nùng 1483 1.09 Các dân tộc khác 7 1185 1 Tổng số 135873 100 Nơi cư trú của các dân tộc chủ yếu là những vùng rừng núi xa xôi, hiểm trở, nơi đất rộng người thưa, giàu tài nguyên, giáp với các tỉnh bạn, có vị trí quan trọng về kinh tế và quốc phòng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 10
  16. Trên cơ sở tư liệu lịch sử, truyền miệng, khảo sát thực tế các xã của huyện Chiêm Hoá, cho biết khái quát về địa bàn cư trú, nguồn gốc, quê quán của các dân tộc Chiêm Hoá như sau: 1.1.2.1. Dân tộc Tày Dân tộc Tày là một cộng đồng thuộc ngôn ngữ Tày - Thái. Trước kia dân số đông nhất tỉnh Tuyên Quang. Người Tày Chiêm Hoá sống xen kẽ với các dân tộc khác trong huyện, tập trung ở các xã: Vi Sơn, Khúc Phụ, Miện Dương, Xuân Quang, Thổ Bình, Minh Đức... Người Tày còn có tên là “Thổ”, Thổ chỉ thổ dân, người bản xứ. Ngoài ra, dân tộc Tày còn có các tên gọi theo các nhóm địa phương: Thổ (tên cũ); Ngạn: do mặc áo ngắn hơn; Phén: mặc áo nâu; Thu Lao: quấn khăn thành chóp nhọn trên đầu; PaDí: áo có thêu hoa văn ở cổ và vải vắt ngang ngực, ống tay áo nối nhiều đ oạn vải màu, mũ hình mái nhà [25 ,tr14]. Tuy nhiên, là một cộng đồng khá thuần nhất với một yếu tố rõ rệt, các cư dân Tày đều thống nhất tên tự gọi là Tày và tên đó đã trở thành tên gọi chính thức của dân tộc từ cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công. Người Tày ở Chiêm Hoá đã lâu đời, chắc chắn lâu đời nhất trong các dân tộc. Điều chắc chắn là đến thế kỉ XI có một họ Hà đã có công giúp triều đình nhà Lý đánh đuổi quân phong kiếm nhà Tống (Trung Quốc) xâm lược nước ta, được vua nhà Lý gả công chúa và dựng bia ghi công họ Hà ấy. Tấm bia hiện còn ở xã Yên Nguyên (Chiêm Hoá). Ngoài ra cũng có một số bộ phận từ Trung Quốc sang được mấy đời nay và có bộ phận từ Cao Bằng, Bắc Thái, Lạng Sơn chuyển đến... 1.1.2.2. Dân tộc Kinh. Về nguồn gốc lịch sử tộc người, người Kinh lên Chiêm Hoá theo nhiều con đường khác nhau. Trong đó có nguyên nhân là những công thần hoặc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 11
  17. những quan chức thân cận được triều đình nhà Nguyễn phong tước, cử lên Chiêm Hoá (Chính sách “Lưu quan”). Theo sách: Các dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang: “Theo chính người trong họ thổ ty kể – thì đều có tình trạng là người Kinh lên làm rể hoặc chiếm đoạt chức tước. V í dụ: Một người Kinh làm rể họ Ma Doãn đã sát hại em cậu rồi hưởng g ia tài, dùng họ vợ là Ma Doãn (ở Chiêm Hoá). Điều này phù hợp với tục con gái thổ ty chỉ được lấy chồng là người Kinh hoặc người Khách (Hoa) không được lấy chồng người đồng tộc hoặc dân tộc thấp kém hơn”... [2, tr41]. Bộ phận người Kinh này dần dần bị Tày hoá và trở thành những người Tày gốc Kinh. Do điều kiện môi trường, điều kiện cư trú của đồng bào Kinh là xen kẽ, ít tách biệt giữa người Kinh và các tộc người khác, nên mối giao thoa văn hóa giữa các tộc người diễn ra mạnh mẽ. Người Kinh ngoài canh tác lúa nước còn có thế mạnh chăn nuôi gia súc, gia cầm và thuỷ sản ở ao hồ. Các nghề thủ công phát triển như: Nghề mộc, rèn... Phong tục tập quán không có gì khác biệt so vói người Kinh ở các địa phương khác. 1.1.2.3. Dân tộc Nùng. Dân tộc Nùng ở Tuyên Quang bao gồm những ngành như: Nùng Cháo, Nùng Phán Sình, Nùng Inh, Nùng Xuồng. Ở Chiêm Hoá chủ yếu là ngành Nùng An, tập trung nhiều ở xã Trung Hoà, chiếm 1/7dân số xã đó [2, tr77]. Người Nùng ở Chiêm Hóa vốn từ các vùng đất thuộc tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) sang đến nay đã được vài ba trăm năm. Trong “ Kiến Văn Tiểu Lục”, Lê Quý Đôn có chép: Người Nùng di cư từ 12 châu thổ ở Trung Quốc sang Tuyên Quang. Hiện nay, người Nùng còn khá ít, sở dĩ như vậy là do trên thực tế có rất nhiều người Nùng đã cố kết với người Tày, sự cố kết giữa Tày và Nùng cũng là dễ hiểu vì 2 dân tộc này xa xưa cùng 1 nguồn gốc, tiếng nói và phong tục tập quán cơ bản giống nhau. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 12
  18. Người Nùng không có chữ viết riêng mà dùng chữ Hán để ghi chép và làm phương tiện giao dịch khác. Do dân số ít, lại ở xen kẽ với dân tộc Kinh nên thạo tiếng Kinh... Nguồn sống chính của người Nùng là làm ruộng và trồng các loại hoa màu như: ngô, khoai, sắn, đỗ... cách trồng trọt và công cụ sản xuất giống như người Tày. 1.1.2.4. Dân tộc Dao. Dân tộc Dao trước đây gọi là Mán. Hiện nay ở Tuyên Quang có các ngành Dao: 9 ngành 1. Dao Đại Bản hay gọi là Mán Đỏ (Dao Đỏ) 2. Dao Tiểu Bản hay gọi là Dao Tiền (Mán Tiền) 3. Dao Coóc Mùn hay gọi là Thanh, Phán, Thanh Bản. 4. Dao Quần Chẹt. 5. Dao Lồ Gang. 6. Dao Coóc Ngáng. 7. Dao Quần Trắng. 8. Dao Thanh Y. 9. Dao Áo Dài. Tên gọi các ngành Dao hầu hết căn cứ vào trang phục mà đặt tên như: Quần trắng, áo dài, quần chẹt... Tuy tiếng nói và phong tục tập quán không hoàn toàn giống nhau và có chỗ khác hẳn nhau như: 6 ngành Dao trên nói giống nhau, khác 3 ngành dưới và ngược lại. Nhưng đồng bào tự nhận tên gọi của dân tộc mình là “Kiềm Miền” (phát âm của 6 ngành trên) hay “Kiềm Mân” (phát âm của 3 ngành dưới). Phát âm theo Hán Việt là “Sơn Nhân” có nghĩa là người ở rừng. Ngoài tên gọi thông thường là “Kiềm Miền”, “Kiềm Mân”, trong các gia phả, sách cúng ma, văn thơ... còn viết chữ Hán là “Dao Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 13
  19. Nhân”- Tức là người Dao, phát âm của đồng bào là Dìu Miền, Ỳu Miền, Dao Miền... Vì lẽ đó người ta gọi là dân tộc Dao [2, tr183]. Ở Chiêm Hoá tập trung các ngành Dao sau: Dao Đại Bản, Dao Tiểu Bản, Dao áo dài. Cùng 1 dân tộc nhưng mỗi ngành cư trú 1 vùng nhất định, có vài ngành cùng cư trú xen kẽ như: Dao Đại Bản, Dao Tiểu Bản... Nói ch ung là ở xen kẽ với các dân tộc khác, xen kẽ theo xóm, không xen kẽ theo hộ. Nguồn gốc: Theo gia phả 1 số gia đình và những tài liệu khác như: Bình hoàng khoán điệp, Quá hải đồ, các sách truyện, sách cúng ma...ta biết được nguồn gốc của người Dao là từ bên Trung Quốc di cư vào Việt Nam. Nhiều gia phả ghi rõ ràng trước khi sang Việt Nam đã ở Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam... Trong các sách truyện, sách cúng ma thường nói đến nhiều địa danh ở Trung Quốc. Đồng bào di cư sang Việt Nam có nhiều nguyên nhân, thời gian và luồng di cư khác nhau. Nguyên nhân chủ yếu là do sự chèn ép, áp bức của chế độ phong kiến Trung Quốc, các cuộc chiến tranh phong kiến liên miên. Ngoài ra là nạn thiên tai, hạn hán, mất mùa... Về thời gian thì vào khoảng thế kỷ XIII đến XVI (Đại Minh quốc) hoặc vào thế kỉ XVI, XIX (Đại Thanh quốc) [2, tr188]. Người Dao đến Tuyên Quang với luồng di cư và thời gian khác nhau, do nhiều nguyên nhân lịch sử, điều kiện cư trú, sinh hoạt, sự ảnh hưởng văn hoá qua lại giữa các dân tộc cho nên trình độ phát triển kinh tế và văn hóa giữa các ngành Dao có sự chênh lệch nhau. 1.1.2.5. Dân tộc Mông. Dân tộc Mông là 1 dân tộc có truyền thống lịch sử lâu đời. Theo gia phả của của dân tộc mình thì dân tộc Mông bắt nguồn từ Trung Quốc , cách đây khoảng 200 đến 500 năm bắt đầu di cư sang Việt Nam và họ vẫn giữ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 14
nguon tai.lieu . vn