Xem mẫu

  1. Khóa luận tốt nghiệp 2011 Khoa Kế toán - Tài chính Phần I: Đặt vấn đề 1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu Việt Nam đang bước dài trên con đường hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Những chuyển biến quan trọng trong vài năm gần đây đã đưa nước ta đến với nhiều cơ hội và thách thức mới. Trong xu thế toàn cầu hoá đó, kiểm toán đã không còn là một khái niệm mới mẻ. Dần dần, kiểm toán, nhất là kiểm toán báo cáo tài chính, đã trở thành một bộ phận không thể thiếu của bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào. Về thực chất, hoạt động kiểm toán Báo cáo tài chính là quá trình thu thập và đánh giá các bằng chứng về các Báo cáo tài chính dựa trên các cơ sở dẫn liệu của chúng. Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam VSA 500: “Bằng chứng kiểm toán là tất cả các tài liệu, thông tin do kiểm toán viên thu thập được liên quan đến cuộc kiểm toán và dựa trên các thông tin này kiểm toán viên hình thành nên ý kiến của mình” . Các loại bằng chứng kiểm toán khác nhau sẽ ảnh hưởng khác nhau đến kết luận trên báo cáo kiểm toán. Do đó, kiểm toán viên và công ty kiểm toán cần nhận thức được vai trò của mỗi loại bằng chứng để có thể thu thập và đánh giá một cách đầy đ ủ và hợp lý nhất, t ừ đó đưa ra được ý kiến phù hợp về báo cáo tài chính được kiểm toán. Có th ể nói, s ự thành công của một cuộc kiểm toán phụ thuộc trước hết vào việc thu thập và sau đó là đánh giá bằng chứng kiểm toán của KTV. Xuất phát từ mục tiêu đó, kiểm toán viên phải sử dụng các phương pháp kỹ thuật để thu thập các bằng chứng kiểm toán thích hợp và đầy đủ trong suốt quá trình thực hiện kiểm toán của mình. Các kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán bao gồm: kiểm tra đối chiếu, quan sát, điều tra - phỏng vấn, xác nhận, tính toán, phân tích. Những gì học được trên ghế nhà trường chỉ là khung lí thuyết chung nhất về các kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán. Thực tế, mỗi công ty kiểm toán lại vận dụng các kỹ thuật này rất khác nhau. Từ những kiến thức đã được học và được có được cơ hội thực tập tại phòng Kiểm toán Báo cáo tài chính của công ty Kiểm toán và kế toán AAC, đây là điều kiện tốt để cho tôi có thể đi sâu nghiên cứu đ ể hiểu rõ việc vận dụng các kỹ thuật thu thập bằng chứng, từ đó có sự so sánh, làm rõ giữa lí thuyết và thực tế. Từ đó, tôi đã chọn đề tài “Hoàn thiện kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán trong kiểm toán BCTC tại Công ty TNHH Kiểm toán và Kế toán AAC” cho luận văn tốt nghiệp của mình. luanvan84@gmail.com 1 SVTH: Nguyễn Trường An
  2. Khóa luận tốt nghiệp 2011 Khoa Kế toán - Tài chính 2. Mục tiêu Đề tài nghiên cứu nhằm các mục đích sau:  Thứ nhất: Hệ thống hóa về mặt lý luận về bản chất của bằng chứng kiểm toán và các kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính.  Thứ hai: Tìm hiểu thực tế việc vận dụng các kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán của công ty TNHH Kiểm toán & Kế toán AAC tại khách hàng của công ty.  Thứ ba: Nhận xét và đề xuất giải pháp nhằm khắc phục các hạn chế góp phần hoàn thiện các kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán tại Công ty Kiểm toán & Kế toán AAC. 3. Phương pháp nghiên cứu 3.1. Phương pháp thu thập số liệu • Thu thập, nghiên cứu các chuẩn mực, chế độ kế toán và kiểm toán Việt Nam hiện hành cùng các tài liệu chuyên khảo có liên quan như giáo trình, sách báo về kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán trong kiểm toán BCTC. • Thu thập các tài liệu, hồ sơ năm trước liên quan tới kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán trong trong kiểm toán báo cáo tài chính tại Công ty TNHH Kiểm toán và Kế toán AAC. • Quan sát quá trình các KTV tiến hành thu thập bằng chứng kiểm toán và phỏng vấn KTV về quy trình tiến hành thu thập bằng chứng kiểm toán trong thực tế. • Trực tiếp tham gia quy trình kiểm toán với vai trò Trợ lý Kiểm toán viên. 3.2. Phương pháp xử lý số liệu Sau khi thu thập số liệu, người viết tiến hành phân tích, tổng hợp, đối chiếu số liệu cũng như vận dụng các kiến thức và kinh nghiệm thực tế có được về kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán để từ đó có cái nhìn khái quát về vấn đề nghiên cứu. 4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu a, Nội dung thực hiện: Do giới hạn về thời gian và không gian nên đề tài chỉ nghiên cứu việc sử dụng kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán do các kiểm toán viên của công ty Kiểm toán và Kế toán AAC đang áp dụng tại khách hàng là công ty cổ phần đường ABC. luanvan84@gmail.com 2 SVTH: Nguyễn Trường An
  3. Khóa luận tốt nghiệp 2011 Khoa Kế toán - Tài chính c, Không gian: Đề tài được thực hiện tại Công ty TNHH Kiểm toán và Kế toán AAC. d, Thời gian: Số liệu thực hiện tại Công ty cổ phần đường ABC cho năm tài chính kết thúc vào ngày 31/12/2010. Thời gian nghiên cứu bắt đầu từ ngày 15/01/2011 đến ngày 15/04/2011. 5. Giá trị của đề tài Đề tài “Hoàn thiện kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán trong kiểm toán BCTC tại Công ty TNHH Kiểm toán và Kế toán AAC” thực hiện mang lại kết quả sau: - Về mặt khoa học: Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở nghiên cứu một cách tổng quát các vấn đề lý luận liên quan đến: bằng chứng kiểm toán, vai trò c ủa bằng chứng kiểm toán, các kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán trong kiểm toán BCTC… Những vấn đề này sẽ giúp người đọc nắm bắt về bằng chứng kiểm toán và các kỹ thuật để thu thập bằng chứng kiểm toán một cách chung nhất, tổng quát nhất. Đồng thời đây cũng chính là tiền đề giúp người đọc tiếp cận thực tế về việc áp dụng các kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán trong quy trình thực hiện kiểm toán BCTC thực hiện tại đơn vị khách hàng mà công ty TNHH Kiểm toán và Kế toán AAC đã thực hiện. - Về mặt thực tiễn: Đề tài tập trung vào việc áp dụng các kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán của Công ty TNHH Kiểm toán và Kế toán AAC tại một đơn vị khách hàng. Trong quá trình đọc và tiếp cận thực tế người đọc có thể nhận thấy một số điểm khác biệt giữa các vấn đề lý luận và các vấn đề thực tế, điều này được làm rõ trong các giải pháp mà đề tài đưa ra, nhằm hoàn thiện hơn các kỹ thuật thu thập bằng chứng kiểm toán tại Công ty TNHH Kiểm toán và Kế toán AAC. Chính vì vậy, đề tài được thực hiện mang tính thực tiễn rất cao, là nền tảng cho những nghiên cứu liên quan được thực hiện tại trường Đại học Kinh tế Huế. 6. Cấu trúc đề tài Ngoài các phần Mở đầu và Kết luận, Luận văn gồm có 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về kỹ thuật thu thập bằng chứng trong kiểm toán BCTC. luanvan84@gmail.com 3 SVTH: Nguyễn Trường An
  4. Khóa luận tốt nghiệp 2011 Khoa Kế toán - Tài chính Chương 2: Thực tế vận dụng kỹ thuật thu thập bằng chứng trong quá trình kiểm toán Báo cáo tài chính do công ty Kiểm toán và kế toán AAC thực hiện Chương 3: Đánh giá và một số đề xuất nhằm góp phần hoàn thiện kĩ thuật kỹ thuật thu thập bằng chứng trong quá trình kiểm toán Báo cáo tài chính do công ty Kiểm toán và kế toán AAC thực hiện. Phần II: Nội dung và kết quả nghiên cứu Chương I: Cơ sở lý luận về kỹ thuật thu thập bằng chứng trong kiểm toán BCTC 1.1 Tổng quan về kiểm toán BCTC 1.1.1 Khái niệm kiểm toán BCTC “Kiểm toán là quá trình thu thập và đánh giá bằng chứng về những thông tin được kiểm tra nhằm xác định và báo cáo về mức độ phù hợp giữa những thông tin đó với các chuẩn mực đã được thiết lập. Quá trình kiểm toán phải được thực hiện bởi các KTV đủ năng lực và độc lập” [1]. Căn cứ theo mục đích kiểm toán thì kiểm toán được chia thành: Kiểm toán hoạt động, Kiểm toán tuân thủ và Kiểm toán BCTC. Trong đó, kiểm toán báo cáo tài chính là một hoạt động đặc trưng của kiểm toán, với mục tiêu cụ thể là“đưa ra ý kiến xác nhận rằng Báo cáo tài chính có được lập trên cơ sở chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận), có tuân thủ pháp luật liên quan, có phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu hay không” [4]. Đối tượng trực tiếp của kiểm toán Báo cáo tài chính là các Bảng khai tài chính, Báo cáo tài chính được định nghĩa trong Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam 200/4 như sau: “Báo cáo tài chính là hệ thống các báo cáo được lập theo chuẩn mực và chế đ ộ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận) phản ánh các thông tinh kinh tế, tài chính chủ yếu của đơn vị.” 1.1.2 Mục tiêu Kiểm toán BCTC nhằm hướng đến hai mục tiêu:  Làm cơ sở giúp KTV đưa ra ý kiến xác nhận rằng BCTC có được l ập trên cơ sở chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành, tuân thủ pháp luật liên quan và có phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu hay không? luanvan84@gmail.com 4 SVTH: Nguyễn Trường An
  5. Khóa luận tốt nghiệp 2011 Khoa Kế toán - Tài chính  Làm cơ sở giúp cho đơn vị được kiểm toán thấy rõ những tồn tại, sai sót để khắc phục nhằm nâng cao chất lượng thông tin tài chính của đơn vị [4]. 1.1.3 Vai trò  Đối với đơn vị được kiểm toán, kiểm toán BCTC góp phần nâng cao độ tin cậy BCTC của đơn vị và nâng cao chất lượng thông tin tài chính của đơn vị. BCTC là hệ thống báo cáo đ ược l ập theo chu ẩn m ực và ch ế đ ộ k ế toán hiện hành hoặc được chấp nhận nhằm trình bày b ức tranh thông tin v ề k ế toán tài chính chủ yếu của đơn vị. Việc l ập BCTC là trách nhi ệm c ủa đ ơn v ị. Ki ểm toán BCTC được thực hiện bởi các KTV đ ủ năng l ực và đ ộc l ập nh ằm đ ưa ra ý ki ến về BCTC. Do đó, báo cáo ki ểm toán ch ấp nh ận toàn ph ần s ẽ góp ph ần nâng cao độ tin cậy của thông tin trên BCTC. Trong quá trình kiểm toán, KTV cũng s ẽ phát hi ện nh ững thi ếu sót, nh ững điểm tồn tại của bộ máy kế toán tài chính c ủa đ ơn v ị. T ừ đó, ki ểm toán viên s ẽ góp ý nhằm hoàn thiện bộ máy này nhằm nâng cao chất l ượng thông tin k ế toán tài chính của đơn vị.  Đối với người sử dụng thông tin , kiểm toán BCTC là căn cứ quan trọng để những người sử dụng thông tin BCTC có thể đưa ra các quyết định kinh tế chính xác. Dựa vào BCTC đơn vị, các đối tượng sử dụng thông tin tài chính của đơn vị như chủ nợ, ngân hàng, nhà đầu tư, cơ quan chức năng... đưa ra các quyết định kinh tế quan trọng như tiếp tục cho vay vốn, mua cổ phiếu, thu thuế...  Đối với tổng thể nền kinh tế, kiểm toán BCTC góp phần củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động kế toán tài chính nói riêng và quản lý kinh tế nói chung. Hoạt động kế toán tài chính bao gồm rất nhiều mối quan hệ kinh tế đa dạng và phức tạp, thường xuyên biến đổi và cấu thành bởi hàng loạt nghiệp vụ cụ th ể. Để hướng các nghiệp vụ này theo các chuẩn mực và quy định hiện hành, ngoài việc định hướng và thực hiện tốt các định hướng thì cần phải thường xuyên thực hiện việc soát xét quá trình thực hiện để hướng các nghiệp vụ vào quỹ đạo mong muốn. 1.1.4 Khái quát về một qui trình kiểm toán BCTC Quy trình kiểm toán BCTC có thể phân thành ba giai đoạn chính là chuẩn bị, thực hiện và hoàn thành kiểm toán:  Giai đoạn chuẩn bị kiểm toán bao gồm: luanvan84@gmail.com 5 SVTH: Nguyễn Trường An
  6. Khóa luận tốt nghiệp 2011 Khoa Kế toán - Tài chính -Tiền kế hoạch là quá trình kiểm toán ti ếp c ận v ới khách hàng nh ằm thu thập những thông tin cần thiết nhằm giúp cho họ hi ểu về nhu c ầu c ủa khách hàng, đánh giá khả năng phục vụ... Theo đó, hai bên ký h ợp đ ồng ki ểm toán ho ặc th ư cam kết kiểm toán. -Lập kế hoạch kiểm toán bao gồm thu thập thông tin về đặc điểm hoạt động kinh doanh, tìm hiểu HTKSNB, đánh giá rủi ro, xác lập mức trọng yếu... để lập kế hoạch và chương trình kiểm toán, nhờ đó sẽ nâng cao tính hữu hiệu và hiệu quả của cuộc kiểm toán.  Giai đoạn thực hiện kiểm toán là quá trình thực hiện kế hoạch và chương trình kiểm toán nhằm thu th ập nh ững b ằng ch ứng đ ầy đ ủ và thích h ợp nhằm làm cơ sở cho ý kiến nhận xét c ủa KTV. Trong giai đo ạn này, KTV th ực hiện chủ yếu hai loại thử nghiệm: -Thử nghiệm kiểm soát nhằm thu thập bằng chứng nhằm đánh giá tính hữu hiệu của HTKSNB. -Thử nghiệm cơ bản nhằm thu thập bằng chứng nhằm phát hiện các sai sót trọng yếu trong BCTC. Có hai loại thử nghiệm cơ bản gồm thủ tục phân tích và thử nghiệm chi tiết. -Thủ tục phân tích là việc so sánh các thông tin, nghiên cứu xu hướng nhằm phát hiện biến động bất thường. - Thử nghiệm chi tiết là việc kiểm tra số dư và nghiệp vụ bằng các phương pháp thích hợp. Giai đoạn hoàn thành kiểm toán là quá trình tổng hợp và rà soát lại những bằng chứng thu thập được để KTV hình thành nên ý kiến nhận xét trên báo cáo kiểm toán. Có bốn loại ý kiến nhận xét là: chấp nhận toàn phần, chấp nhận t ừng ph ần, không chấp nhận và từ chối nhận xét [2]. 1.2 Khái quát về bằng chứng kiểm toán trong kiểm toán BCTC 1.2.1 Khái niệm bằng chứng kiểm toán Báo cáo kiểm toán đã đưa ra ý kiến xác nhận về tính trung thực và hợp lý của báo cáo tài chính đơn vị được kiểm toán. Để đánh giá, nhận xét và đ ưa ra ý ki ến về báo cáo tài chính của đơn vị đã được kiểm toán, kiểm toán viên cần thu thập các bằng chứng kiểm toán làm cơ sở cho những kết luận của mình. BCKT quy ết đ ịnh luanvan84@gmail.com 6 SVTH: Nguyễn Trường An
  7. Khóa luận tốt nghiệp 2011 Khoa Kế toán - Tài chính tính đúng đắn, chính xác các nhận xét của KTV, quyết định sự thành công của cuộc kiểm toán. Việc thu thập BCKT là trung tâm của cuộc kiểm toán. Theo Chuẩn mực kiểm toán số 500 ban hành theo quyết định số 219/2000/QĐ/BTC ngày 29/12/2000 của Bộ trưởng tài chính về BCKT ta có khái niệm về BCKT như sau: “Bằng chứng kiểm toán là tất cả những tài liệu, thông tin do kiểm toán viên thu thập được liên quan đến cuộc kiểm toán và dựa trên các thông tin này kiểm toán viên hình thành nên ý kiến của mình”. Như vậy, BCKT bao gồm cả thông tin nhân chứng và thông tin vật chứng mà kiểm toán viên thu thập làm cơ sở cho ý kiến của mình về Báo cáo tài chính đ ược kiểm toán. BCKT có tính đa dạng. Các loại BCKT khác nhau sẽ có ảnh hưởng khác nhau đến việc hình thành ý kiến kết luận kiểm toán. Do đó, kiểm toán viên cần có nhận thức cụ thể về các loại bằng chứng một cách hữu hiệu khi thực hành kiểm toán. BCKT có một vai trò quan trọng, là cơ sở hình thành ý kiến kết luận kiểm toán. Từ đó, sự thành công của toàn bộ cuộc kiểm toán phụ thuộc trước hết vào việc thu thập và sau đó là đánh giá BCKT của kiểm toán viên. Việc kiểm toán gồm có hai chức năng cả hai chặt chẽ đều liên quan đến bằng chứng. Thứ nhất, là chức năng thu thập bằng chứng, thứ hai là đánh giá các bằng chứng. Một khi kiểm toán viên không thu thập đầy đủ và đánh giá đúng các bằng chứng thích hợp thì kiểm toán viên khó có thể đưa ra kết luận xác đáng về đối tượng được kiểm toán. Do vai trò quan trọng của BCKT, Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 500 quy định: “Kiểm toán viên và Công ty kiểm toán phải thu thập đầy đủ các bằng chứng kiểm toán thích hợp để làm cơ sở đưa ra ý kiến của mình về Báo cáo tài chính c ủa đơn vị được kiểm toán”. 1.2.2 Vai trò BCKT Bằng chứng kiểm toán có vai trò quan trọng, là cơ sở hình thành kết luận kiểm toán. Các loại bằng chứng kiểm toán khác nhau sẽ có ảnh hưởng khác nhau đến việc hình thành ý kiến kiểm toán. Sự thành công của toàn bộ cuộc kiểm toán phụ thuộc vào việc thu thập và đánh giá bằng chứng kiểm toán của kiểm toán viên. Nếu kiểm toán viên không thu thập đầy đủ và đánh giá đúng các bằng chứng kiểm toán thích hợp thì kiểm toán viên đó khó có thể đưa ra một nhận xét xác đáng về đối tượng kiểm toán. Đối với các doanh nghiệp kiểm toán độc lập hoặc cơ quan kiểm luanvan84@gmail.com 7 SVTH: Nguyễn Trường An
  8. Khóa luận tốt nghiệp 2011 Khoa Kế toán - Tài chính toán Nhà nước, cơ quan pháp lý, bằng chứng kiểm toán còn là cơ sở để giám sát đánh giá chất lượng hoạt động của kiểm toán viên trong quá trình kiểm toán. Báo cáo kiểm toán cần cung cấp những thông tin đáng tin cậy cho người s ử dụng. Kiểm toán viên phải chịu trách nhiệm về tính trung thực và khách quan của báo cáo tài chính đưa ra. Do vậy, kiểm toán viên cần thu thập bằng chứng kiểm toán đảm bảo tính thích hợp và đầy đủ. 1.2.3 Phân loại BCKT Trong thực tế có nhiều loại BCKT khác nhau. Để giúp cho việc nghiên cứu, xét đoán và sử dụng BCKT được tiện lợi và hữu hiệu cần phải tiến hành phân loại BCKT. 1.2.3.1 Phân loại bằng chứng kiểm toán theo nguồn gốc Phân loại BCKT theo nguồn gốc là căn cứ vào nguồn gốc của thông tin, tài liệu có liên quan đến báo cáo tài chính mà kiểm toán viên thu th ập đ ược trong quá trình kiểm toán. Theo cách phân loại này, BCKT được chia thành:  BCKT do kiểm toán viên tự khai thác và phát hiện bằng cách: - Kiểm kê tài sản thực tế : Như biên bản kiểm kê hàng tồn kho của tổ kiểm toán xác nhận tài sản thực tế… - Tính toán lại các biểu tính toán của doanh nghiệp: như các số liệu, tài liệu do kiểm toán viên tính toán lại có sự xác nhận của doanh nghiệp hoặc những người liên quan là hợp lý. - Quan sát hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ: là những thông tin, tài liệu do kiểm toán viên ghi chép lại thông qua việc quan sát hệ thống kiểm soát nội bộ doanh nghiệp, có dẫn chứng theo thời gian khảo sát…  BCKT do doanh nghiệp phát hành và luân chuyển đến các bộ phận nội bộ hoặc bên ngoài đơn vị và các thông tin mà doanh nghiệp cung cấp cho kiểm toán viên. Chứng từ, tài liệu do doanh nghiệp phát hành và chuyển đến các đơn vị khác sau đó quay trở lại đơn vị như: các uỷ nhiệm chi… Chứng từ, tài liệu do doanh nghiệp phát hành và luân chuyển trong nội bộ doanh nghiệp, như các phiếu chi, phiếu xuất vật tư, hoá đơn bán hàng Các sổ kế toán, báo cáo kế toán của doanh nghiệp lập luanvan84@gmail.com 8 SVTH: Nguyễn Trường An
  9. Khóa luận tốt nghiệp 2011 Khoa Kế toán - Tài chính Những thông tin (lời nói, ghi chép..) của cán bộ quản lý, cán bộ nghiệp vụ hoặc những giải trình của những người có liên quan trong đơn vị cho kiểm toán viên…  BCKT do bên thứ 3 cung cấp từ các nguồn khác nhau Các bằng chứng do những người bên ngoài đơn vị cung cấp trực tiếp cho kiểm toán viên, như: các bảng xác nhận nợ phải trả của các chủ nợ ; Bảng xác nhận các khoản phải thu của các khác nợ; hoặc số dư tiền gửi ngân hàng đã đ ược ngân hàng xác nhận…. Các bằng chứng được lập do đối tượng bên ngoài doanh nghiệp có liên quan đến báo cáo tài chính của doanh nghiệp, như hoá đơn bán hàng cho doanh nghiệp, số phụ ngân hàng… Các ghi chép độc lập hoặc các báo cáo thống kê tổng hợp theo chuyên ngành có liên quan đến doanh nghiệp… 1.2.3.2 Phân loại bằng chứng kiểm toán theo loại hình Căn cứ vào loại hình hay còn gọi là dạng BCKT thì BCKT được chia thành các loại sau:  Các bằng chứng vật chất là các bằng chứng mà kiểm toán viên thu thập được trong quá trình thanh tra hoặc quá trình kiểm kê các tài sản hữu hình như: hàng tồn kho, tài sản cố định hữu hình, tiền mặt, các loại chứng khoán… Thuộc loại này gồm có các biên bản kiểm kê hàng tồn kho, biên bản kiểm kê quỹ tiền mặt, các chứng khoán, biên bản kiểm kê TSCĐ hữu hình…. Các bằng chứng vật chất có độ tin cậy cao nhất, bởi vì bằng chứng vật chất được đưa ra từ việc kiểm tra trực tiếp để xác minh tài sản có thực hay không  Các bằng chứng tài liệu: là các bằng chứng mà kiểm toán viên thu thập được qua việc cung cấp tài liệu, thông tin của các bên liên quan theo yêu c ầu c ủa kiểm toán viên. Thuộc loại này gồm:  Các ghi chép kế toán và ghi chép nghiệp vụ của doanh nghiệp, các báo cáo kế toán, các bản giải trình của các nhà quản lý doanh nghiệp…  Các chứng từ, tài liệu do các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp cung cấp như: các văn bản các giấy xác nhận, các báo cáo của bên thứ 3 có liên quan đ ến báo cáo tài chính của doanh nghiệp được kiểm toán như cơ quan thuế, hải quan, bên bán, luanvan84@gmail.com 9 SVTH: Nguyễn Trường An
  10. Khóa luận tốt nghiệp 2011 Khoa Kế toán - Tài chính bên mua…  Các tài liệu tính toán lại của kiểm toán viên: thông qua việc xác minh, phân tích số liệu, tài liệu, kiểm toán viên tính toán lại số liệu của doanh nghiệp đ ược kiểm toán để đưa ra những bằng chứng cho những ý kiến có lý của mình như: tính toán lại giá các hoá đơn, việc tính trích khấu hao TSCĐ, tính giá thành, phân bổ chi phí, khoá sổ kế toán, quá trình lấy số liệu để lập báo cáo kế toán.. Các bằng chứng tài liệu này củng cố tính thuyết phục, nhưng độ tin cậy không cao bằng những bằng chứng vật chất. 1.2.3.3 Các bằng chứng kiểm toán đặc biệt Ngoài các kiểu bằng chứng kiểm toán cơ bản được thu thập đã nói ở trên, trong một số trường hợp đặc biệt kiểm toán viên cần thu thập thêm một số bằng chứng kiểm toán khác. Các bằng chứng này thường là các: ý kiến của chuyên gia, giải thích của ban giám đốc và nhân viên kế toán đơn vị, sử dụng tài liệu của kiểm toán viên nội bộ hay của kiểm toán viên khác, hoặc là bằng chứng về các bên liên quan.... a, Ý kiến của chuyên gia: Do kiểm toán viên không thể am tường tất cả mọi lĩnh vực của xã hội, vì vậy các chuẩn mực kiểm toán cho phép họ được sử dụng ý kiến của những chuyên gia có năng lực, kiến thức và kinh nghiệm cụ thể trong một lĩnh vực chuyên môn nào đó, ngoại trừ lĩnh vực kế toán và kiểm toán. Ví dụ như đánh giá giá trị của tài sản quý hiếm, công trình nghệ thuật... b, Giải trình của ban giám đốc: kiểm toán viên cần phải thu thập bằng chứng về việc giám đốc đơn vị được kiểm toán thừa nhận trách nhiệm của mình trong việc lập và trình bày trung thực và hợp lý báo cáo tài chính phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành và đã phê duyệt báo cáo tài chính. Vì thế, “kiểm toán viên phải thu thập được các giải trình của giám đốc (hoặc người đứng đầu) đơn vị được kiểm toán ”[6] c ,Tư liệu của kiểm toán viên nội bộ: Bộ phận kiểm toán nội bộ được tổ chức là để phục vụ cho các nhu cầu và lợi ích của đơn vị, tuy nhiên kết quả kiểm toán của bộ phận này có thể vẫn hữu ích cho kiểm toán viên độc lập cần quan tâm đến kết quả kiểm toán nội bộ khi chúng có liên quan đến công việc của mình d, Tư liệu của các kiểm toán viên khác: Vấn đề này phát sinh khi kiểm toán báo cáo tài chính của một đơn vị có nhiều bộ phận (chi nhánh, công ty con, công ty liên doanh hay công ty thành viên của tập đoàn…) đã được kiểm toán bởi các kiểm luanvan84@gmail.com 10 SVTH: Nguyễn Trường An
  11. Khóa luận tốt nghiệp 2011 Khoa Kế toán - Tài chính toán viên khác. Trong trường hợp này, kiểm toán viên kiểm toán cho đơn vị đó (gọi là kiểm toán viên chính) phải chịu trách nhiệm về ý kiến của mình đối với báo cáo tài chính của toàn đơn vị. Thay vì phải thực hiện lại công việc kiểm toán tại các bộ phận, kiểm toán viên chính có thể sử dụng công việc của các kiểm toán viên khác. Để sử dụng tư liệu của kiểm toán viên khác, kiểm toán viên chính phải xác định ảnh hưởng của công việc do kiểm toán viên khác thực thi đến cuộc kiểm toán của mình. e, Tư liệu của các bên hữu quan: Bên liên quan và những mối quan hệ với các bên liên quan có ảnh hưởng lớn đến nhận định của người sử dụng báo cáo tài chính. Thông tin về các bên này cần phải được công bố những vấn đ ề cần thiết đ ể giúp người sử dụng hiểu được về bản chất của các mối liên hệ và những nhiệm vụ phát sinh giữa các bên liên quan. 1.2.4 Yêu cầu của BCKT Bằng chứng kiểm toán phải đạt được những yêu cầu nhất định về mặt chất lượng và số lượng, hai khái niệm thích hợp và đầy đủ được sử dụng đ ể chỉ về hai yêu cầu này. 1.2.4.1 Thích hợp Sự thích hợp của bằng chứng kiểm toán trước hết liên quan đến độ tin cậy của bằng chứng. Để xem xét vấn đề này, kiểm toán viên cần chú ý đ ến các nhân t ố sau đây: Nguồn gốc của bằng chứng kiểm toán. Bằng chứng có nguồn gốc càng độc lập với đối tượng kiểm toán thì càng có hiệu lực (độ tin cậy cao). Ví dụ, bằng chứng thu được từ các nguồn độc l ập bên ngoài (như bảng sao kê ngân hàng, giấy báo số dư khách hàng do ngân hàng gửi đến, xác nhận của ngân hàng về số dư tiền gửi và các khoản công nơ, hoá đ ơn bán hàng…) có độ tin cậy cao hơn BCKT có được nhờ khách hàng cung cấp (ví dụ như tài liệu kế toán, tài liệu thống kê ban đầu liên quan đến hoạt động được kiểm toán) Dạng bằng chứng kiểm toán. Độ tin cậy còn phụ thuộc vào dạng của bằng chứng kiểm toán, các bằng chứng vật chất (kiểm kê, hoặc chứng kiến kê) và hiểu biết trực tiếp của kiểm toán viên về đối tượng kiểm toán có độ tin cậy cao hơn bằng chứng tài liệu và bằng chứng thu thập qua phỏng vấn. Hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị luanvan84@gmail.com 11 SVTH: Nguyễn Trường An
  12. Khóa luận tốt nghiệp 2011 Khoa Kế toán - Tài chính Bộ phận nào có kiểm soát nội bộ hữu hiệu thì các bằng chứng kiểm toán có liên quan đến các tài liệu kế toán, quy chế kiểm soát... của bộ phận đó sẽ có đ ộ tin cậy cao hơn. Sự kết hợp giữa các loại bằng chứng Một nhóm bằng chứng kiểm toán thu thập từ những nguồn khác nhau, ở các dạng khác nhau nhưng cùng xác nhận như nhau về một vấn đề sẽ có độ tin cậy l ớn hơn so với từng bằng chứng riêng lẻ. Ngược lại, khi bằng chứng từ các nguồn khác nhau lại cho kết quả trái ngược nhau, lúc này kiểm toán viên phải xem xét vấn đ ề một cách thận trọng, và có thể phải thực thi các thủ tục kiểm toán bổ sung để xác minh. Các nhân tố khác Trong từng trường hợp cụ thể, độ tin cậy còn chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố khác. Thí dụ trong thủ tục phỏng vấn, sự hiểu biết của người được phỏng vấn về vấn đề đang tìm hiểu sẽ ảnh hưởng đến độ tin cậy của các bằng chứng đạt được. Bên cạnh độ tin cậy, sự thích hợp của bằng chứng kiểm toán trong các thử nghiệm cơ bản còn đòi hỏi sự phù hợp giữa bằng chứng với cơ sở dẫn liệu mà kiểm toán viên muốn xác minh. Bởi lẽ, một bằng chứng kiểm toán có thể có độ tin cậy cao nhưng vẫn không thích hợp với cơ sở dẫn liệu cần xem xét. Thí dụ, th ư xác nhận của khách hàng tuy là một bằng chứng có độ tin cậy cao do được cung cấp trực tiếp cho kiểm toán viên, nhưng nó chỉ chứng minh rằng khoản phải thu đó có thật (cơ sở dẫn liệu hiện hữu và quyền) nhưng lại không thể chứng minh cho khả năng thu hồi khoản phải thu (cơ sở dẫn liệu đánh giá). 1.2.4.2 Đầy đủ Yêu cầu này liên quan đến số lượng bằng chứng kiểm toán cần thiết, chủ yếu là cỡ mẫu và thời gian thực hiện các thủ tục kiểm toán. Một bằng chứng tuy đạt yêu cầu thích hợp nhưng sẽ không thể sử dụng làm cơ sở ý kiến cho kiểm toán viên nếu không đáp ứng yêu cầu đầy đủ. Thí dụ, để kết luận rằng nợ phải thu hiện hữu trong thực tế, thư xác nhận là bằng chứng thích hợp nhưng kiểm toán viên chỉ có thể đưa ra kết luận khi đạt được một cỡ mẫu cần thiết và thủ tục đ ược thực thi ở một thời điểm phù hợp. Sự đầy đủ của bằng chứng kiểm toán là vấn đề thuộc về sự xét đoán nghề nghiệp của kiểm toán viên. Sau đây là một số nhân tố có ảnh hưởng đ ến sự xét đoán của kiểm toán viên về yêu cầu đầy đủ: luanvan84@gmail.com 12 SVTH: Nguyễn Trường An
  13. Khóa luận tốt nghiệp 2011 Khoa Kế toán - Tài chính -Tính trọng yếu: Bộ phận nào càng trọng yếu thì càng đòi hỏi phải được quan tâm nhiều hơn và phải thu thập nhiều bằng chứng kiểm toán hơn. Nếu xét dưới góc độ mức trọng yếu, nghĩa là số tiền sai lệch tối đa chấp nhận đ ược, khi kiểm toán viên thiết lập mức trọng yếu càng thấp thì số lượng bằng chứng kiểm toán cần thiết càng phải tăng thêm. -Mức rủi ro tiềm tàng và mức rủi ro kiểm soát: Số lượng bằng chứng cần phải tăng lên ở những bộ phận, hay các trường hợp có mức rủi ro tiềm tàng hoặc rủi ro kiểm soát cao. Nói cách khác, khi kiểm toán viên xác nhận mức r ủi ro phát hi ện chấp nhận được là thấp thì số lượng bằng chứng cần thiết sẽ tăng thêm. Điều cần lưu ý là do hạn chế tiềm tàng của cuộc kiểm toán, kiểm toán viên chỉ có thể thu thập bằng chứng kiểm toán ở mức độ thuyết phục chứ không phải nhằm chứng minh tuyệt đối. Chính vì thế, đoạn 73 , Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 330, “Thủ tục kiểm toán trên cơ sở đánh giá rủi ro” nêu rõ: “Mức độ đầy đủ và thích hợp của bằng chứng kiểm toán nhằm giúp kiểm toán viên đưa ra các kết luận về cuộc kiểm toán tùy thuộc vào xét đoán chuyên môn của kiểm toán viên. Xét đoán chuyên môn của kiểm toán viên về tính đầy đủ và thích hợp của bằng chứng kiểm toán chịu ảnh hưởng của các yếu tố sau: a, Mức độ quan trọng của sai sót tiềm tàng trong cơ sở dẫn liệu và khả năng xảy ra ảnh hưởng trọng yếu, riêng rẽ hoặc tổng hợp với các sai sót tiềm tàng khác đối với báo cáo tài chính; b, Mức độ hiệu quả của việc phản hồi và hoạt động kiểm soát của Ban lãnh đạo đơn vị đối với các rủi ro này; c, Kinh nghiệm tích lũy được từ các cuộc kiểm toán trước đây liên quan đ ến các sai sót tiềm tàng tương tự; d, Kết quả thực hiện các thủ tục kiểm toán, kể cả việc liệu các thủ tục kiểm toán đó có phát hiên được các trường hợp gian lận hoặc sai sót hay không; e, Nguồn gốc và độ tin cậy của thông tin hiện có; f, Tính thuyết phục của bằng chứng kiểm toán; g, Hiểu biết của kiểm toán viên về đơn vị, môi trường kinh doanh của đơn vị, kể cả hệ thống kiểm soát nội bộ.” 1.3 Các phương pháp thu thập BCKT luanvan84@gmail.com 13 SVTH: Nguyễn Trường An
  14. Khóa luận tốt nghiệp 2011 Khoa Kế toán - Tài chính “Kiểm toán viên thu thập bằng chứng kiểm toán bằng các phương pháp sau: kiểm tra, quan sát, điều tra, xác nhận, tính toán và quy trình phân tích. Việc thực hiện các phương pháp này một phần tùy thuộc vào thời gian thu thập được bằng chứng kiểm toán.” [5] Mỗi phương pháp thu thập các bằng chứng kiểm toán sẽ cung cấp những loại bằng chứng khác nhau với độ tin cậy khác nhau và từng phương pháp có ưu điểm và hạn chế riêng của mình. Do đó, trong nhiều trường hợp, kiểm toán viên cần phối hợp sử dụng nhiều phương pháp để đạt được các mục tiêu kiểm toán. Nói cách khác, trong từng trường hợp cụ thể, tùy theo sự xét đoán nghề nghiệp của minh, kiểm toán viên sẽ chọn lựa các phương pháp để thu thập bằng chứng kiểm toán. 1.3.1 Kiểm tra Là sự xem xét các tài liệu ghi chép và những tài sản hữu hình bằng cách rà soát, đối chiếu giữa chúng với nhau, giữa sổ sách và thực tế, giữa quy định và thực hiện... thường bao gồm hai loại: 1.3.1.1 Kiểm tra vật chất Bao gồm việc kiểm kê hoặc tham gia kiểm kê tài sản thực tế về hàng hóa, vật tư tồn kho, máy móc thiết bị, nhà xưởng, tiền mặt tồn quỹ... Thủ tục này cung cấp bằng chứng vật chất là loại bằng chứng có độ tin cậy r ất cao, tuy nhiên, lo ại bằng chứng này có những hạn chế nhất định: -Đối với một số tài sản cố định như nhà xưởng, đất đai, phương tiện vận tải... việc kiểm kê chỉ cho biết sự hiện hữu của tài sản đó, chứ không cho biết về quyền sở hữu của đơn vị đối với chúng, bởi lẽ tuy chúng hiện hữu nhưng có thể lại là tài sản đi thuê, hoặc đã bị đơn vị thế chấp... -Đối với hàng tồn kho, việc kiểm kê chỉ cho biết sự hiện hữu của các loại hàng này về mặt số lượng, nhưng không cho biết chúng có được đánh giá đúng hay không, hoặc chất lượng và tình trạng của chúng như thế nào... Các vấn đề trên sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến số dư hàng tồn kho trên báo cáo tài chính. Tóm lại, kiểm tra vật chất tuy cho biết về sự hiện hữu của một số tài sản nhưng cần phải đi kèm với một số bằng chứng khác để chứng minh về quy ền sở hữu hoặc giá trị của chúng. 1.3.1.2 Kiểm tra tài liệu luanvan84@gmail.com 14 SVTH: Nguyễn Trường An
  15. Khóa luận tốt nghiệp 2011 Khoa Kế toán - Tài chính Bao gồm việc xem xét đối chiếu các tài liệu, sổ sách, chứng từ có liên quan. Loại kiểm tra này thường được tiến hành theo hai cách: -Từ một kết luận có trước, kiểm toán viên thu thập tài liệu để làm cơ sở cho kết luận này. Thí dụ kiểm toán viên kiểm tra các tài liệu, hồ sơ pháp lý về quyền sở hữu của tài sản. -Kiểm tra các tài liệu của một nghiệp vụ. Quy trình này có thể được tiến hành theo hai hướng: (i) Từ chứng từ gốc: kiểm tra việc ghi chép chúng trên sổ sách hoặc (ii) Từ sổ sách: kiểm tra ngược lại các chứng từ gốc có liên quan. Cần chú ý rằng hai hướng kiểm tra trên sẽ cung cấp hai loại bằng chứng đ ể thỏa mãn các mục tiêu khác nhau. Việc kiểm tra chứng từ gốc (từ khi nghiệp vụ phát sinh) cho đến sổ sách sẽ cho thấy các nghiệp vụ phát sinh đều đã được ghi vào sổ sách. Ngược lại, việc kiểm tra các nghiệp vụ khởi đầu từ sổ sách quay về chứng từ gốc sẽ cho biết có phải các nghiệp vụ khởi đầu từ sổ sách quay về chứng từ gốc sẽ cho biết có phải các nghiệp vụ ghi trên sổ sách đều thực sự xảy ra hay không. Như vậy, tùy theo từng mục tiêu kiểm toán, kiểm toán viên sẽ chọn một trong hai hướng, hoặc chọn cả hai. Trong kiểm tra tài liệu, bằng chứng thu thập được thường là bằng chứng tài liệu, do đó, kiểm toán viên cần chú ý đến các vấn đề sau: -Độ tin cậy của bằng chứng tài liệu phụ thuộc vào nguồn gốc của nó, hay cụ thể là mực độ độc lập của tài liệu đối với đơn vị được kiểm toán. -Cần đề phòng các trường hợp đơn vị cạo sửa, giả mạo chứng từ, tài liệu... 1.3.2 Quan sát Là sự xem xét tận mắt về các công việc, những tiến trình thực hiện công việc do người khác làm. Thí dụ: Xem xét việc thực hiện các thủ tục kiểm soát nội bộ. Phương pháp này có thể áp dụng cho rất nhiều bộ phận được kiểm toán nhưng tự nó khó thể cung cấp đầy đủ bằng chứng, mà phải đi kèm với các thủ tục khác. Khi quan sát, kiểm toán viên cần chú ý rằng nó chỉ cho bằng chứng về cách thức thực thi công việc ngay vào thời điểm quan sát, chứ không chắc chắn cũng sẽ được thực hiện ở các thời điểm khác. 1.3.3 Xác nhận Xác nhận là quá trình thu thập và đánh giá bằng chứng kiểm toán thông qua việc liên hệ trực tiếp với bên thứ ba để nhận được phúc đáp của họ về các thông tin luanvan84@gmail.com 15 SVTH: Nguyễn Trường An
  16. Khóa luận tốt nghiệp 2011 Khoa Kế toán - Tài chính cụ thể ảnh hưởng đến cơ sở dẫn liệu được Ban Giám đốc lập và trình bày trong báo cáo tài chính của đơn vị được kiểm toán (Đoạn 06 VSA 505-thông tin xác nhận từ bên ngoài). Thí dụ, kiểm toán viên có thể xin xác nhận thông tin từ bên ngoài về các điều khoản hợp đồng hay giao dịch của đơn vị được kiểm toán với bên thứ ba trong các trường hợp như: -Số dư tài khoản tiền gửi, tiền vay và những thông tin khác từ ngân hàng, kho bạc, tổ chức tài chính tương tự; -Số dư các khoản phải thu, phải trả; -Những văn bản, giấy tờ chứng nhận về quyền sở hữu tài sản do luật sư giữ, hoặc đang giữ trong két sắt của ngân hàng; -Hàng gia công, hàng gửi bán, hàng nhờ giữ hộ; -Cổ phiếu gửi bên thứ ba; những khoản đầu tư nhờ các nhà môi giới mua nhưng chưa được giao trước thời điểm lập báo cáo tài chính... Độ tin cậy của bằng chứng xác nhận từ bên ngoài phụ thuộc vào các thủ tục và thể thức kiểm toán viên áp dụng khi yêu cầu xác nhận từ bên ngoài và đánh giá kết quả của thủ tục này. Những nhân tố ảnh hưởng đến độ tin cậy của bằng chứng này bao gồm: Tiến trình kiểm soát của kiểm toán viên đối với thủ tục xác nhận và thư phúc đáp, tính chất và các hạn chế của việc phúc đáp. Ngoài ra, theo VSA 505, kiểm toán viên có thể áp dụng thủ tục này theo một trong hai cách sau đây: -Thư xác nhận mở (dạng khẳng định): đề nghị người được yêu cầu trả lời, ký nhận trong mọi trường hợp hoặc phúc đáp lại cho kiểm toán viên là đồng ý hoặc không đồng ý với thông tin cần xác nhận bằng cách yêu cầu điền vào thông tin. -Thư xác nhận đóng (dạng phủ định) chỉ đòi hỏi sự phản hồi khi không đồng ý với thông tin yêu cầu xác nhận. Khi đồng ý với thông tin xác nhận thì không nhất thiết phải phản hồi. Thư xác nhận đóng (phủ định) thường cung cấp bằng chứng ít tin cậy hơn so với việc sử dụng thư xác nhận mở (khẳng định), vì thế kiểm toán viên cần xem xét thực hiện các thử nghiệm cơ bản bổ sung. Tuy có độ tin cậy thấp hơn thư xác nhận mở, nhưng chuẩn mực kiểm toán cho phép sử dụng thư xác nhận đóng trong trường hợp rủi ro tiềm tàng và r ủi ro kiểm soát được đánh giá là thấp, các khoản phải xác nhận gồm rất nhiều cấc khoản luanvan84@gmail.com 16 SVTH: Nguyễn Trường An
  17. Khóa luận tốt nghiệp 2011 Khoa Kế toán - Tài chính có số tiền nhỏ, khả năng xảy ra sai sót được đánh giá là thấp và kiểm toán viên tin rằng người phản hồi sẽ quan tâm đến việc trả lời. 1.3.4 Điều tra Điều tra: Là việc tìm kiếm thông tin từ những người có hiểu biết ở bên trong hoặc bên ngoài đơn vị. Điều tra được thực hiện bằng việc chính thức gửi văn bản, phỏng vấn hoặc trao đổi kết quả điều tra, sẽ cung cấp cho kiểm toán viên những thông tin chưa có, hoặc những thông tin bổ sung để củng cố các bằng chứng đã có. (Đoạn 23 VSA 500). Như vậy, đây là việc thu thập thông tin thông qua sự trao đổi với những người có liên quan đến các vấn đề cần tìm hiểu. Thí dụ như yêu cầu người quản lý giải thích những quy định về kiểm soát nội bộ, hoặc hỏi các nhân viên về ciệc thực hiện quy chế này... Thủ tục này quan trọng vì giúp cho kiểm toán viên thu thập đ ược những bằng chứng chưa có, hoặc củng cố các luận cứ của mình. Riêng đối với phỏng vấn, để đạt kết quả tốt, kiểm toán viên cần nghiên cứu trước về các nội dung cần trao đổi, lựa chọn các câu hỏi, có thái độ hòa nhã... Bởi lẽ phỏng vấn còn là một nghệ thuật. Cần chú ý là độ tin cậy của bằng chứng thu th ập bằng thủ tục phỏng vấn không cao, và nó thường chỉ dùng để củng cố cho các bằng chứng khác, hoặc để thu thập các thông tin phản hồi. Khi sử dụng, kiểm toán viên cần chú ý đến tính khách quan và sự hiểu biết của người đ ược phỏng vấn. Các kết quả thu thập được, nếu quan trọng thì cần được ghi lại và lưu trữ trong hồ sơ kiểm toán. 1.3.5 Tính toán Là việc kiểm tra tính chính xác về mặt số học của số liệu trên chứng từ, sổ kế toán, bào cáo tài chính và các tài liệu liên quan khác hay việc thực hiện những tính toán độc lập của kiểm toán viên. Thí dụ như kiểm tra việc tính toán trên các hóa đơn, kiểm tra lại những số tổng cộng trên sổ cái... Kiểm toán viên còn thu thập bằng chứng kiểm toán bằng các tính toán độc lập của mình đối với khấu hao, dự phòng nợ khó đòi... Nếu xét riêng về mặt số học, kỹ thuật tính toán cung cấp bằng chứng có độ tin cậy cao. 1.3.6 Phân tích luanvan84@gmail.com 17 SVTH: Nguyễn Trường An
  18. Khóa luận tốt nghiệp 2011 Khoa Kế toán - Tài chính Là sự xem xét các số liệu, thông tin của đơn vị thông qua việc so sánh và nghiên cứu mối quan hệ giữa các thông tin tài chính với nhau, và giữa các thông tin tài chính với các thông tin phi tài chính. Khi phân tích, ta có thể so sánh những thông tin như: -So sánh giữa các thông tin tài chính trong kỳ này với thông tin tương ứng của kỳ trước: Kiểm toán viên có thể so sánh số dư, hoặc số phát sinh tài khoản giữa các kỳ để phát hiện các tài khoản có biến động bất thường. Thí dụ: Một sự gia tăng bất thường của khoản phải thu khách hàng cuối kỳ có thể là sự xuất phát từ sự thay đ ổi chính sách bán chịu, tình trạng nợ khó đòi, gia tăng hoặc đang có lệch trọng yếu trong số dư cuối kỳ. Kiểm toán viên cũng có thể so sánh tỷ số giữa các kỳ để phát hiện những tài khoản có thể bị sai lệch. Thí dụ: số vòng quay của hàng tồn kho giảm đột ngột có thể phản ánh những sai lệch trong số dư hàng tồn kho, hoặc hàng hóa ứ đọng hay mất phẩm chất. Việc so sánh cũng có thể được tiến hành trên các đối tượng chi tiết của tài khoản, hoặc sự biến động chi tiết giữa các kỳ trong tháng, quý, năm. -So sánh giữa số liệu thực tế và số liệu kế hoạch, dự toán: Việc điều tra các sai biệt lớn giữa số liệu thực tế và kế hoạch có thể cho thấy những sai lệch trong báo cáo tài chính, hoặc các biến động lớn trong tình hình sản xuất kinh doanh c ủa đơn vị. -So sánh giữa các chỉ tiêu của đơn vị với những chỉ tiêu bình quân ngành : Về nguyên tắc, giữa một số chỉ tiêu của đơn vị và chỉ tiêu bình quân của ngành có mối quan hệ tương đồng trong một phạm vi nhất định. Thí dụ: Tỷ lệ lãi gộp trên doanh thu, tỷ trọng chi phí nguyên vật liệu chính trong giá thành sản phẩm... Việc nghiên cứu những khác biệt lớn giữa chỉ tiêu của đơn vị và chỉ tiêu bình quân ngành có thể sẽ cho biết các sai lệch, hoặc giúp kiểm toán viên hiểu biết sâu sắc hơn về hoạt động của đơn vị. Tuy nhiên, khi áp dụng phương pháp này cần chú ý sự khác biệt về quy mô, về việc áp dụng chính sách kế toán giữa các đơn vị. -Nghiên cứu mối quan hệ giữa các thông tin tài chính trong kỳ: Với phương pháp này, kiểm toán viên có thể dựa trên mối quan hệ bản chất giữa các số dư, hay số phát sinh của tài khoản qua mối quan hệ giữa chúng với các tài khoản khác. Thí dụ: có thể ước tính chi phí lãi vay bằng cách nhân lãi suất bình quân tháng với số dư cuối tháng của tài khoản nợ vay. Sau đó, mọi sự khác biệt trọng yếu giữa số liệu luanvan84@gmail.com 18 SVTH: Nguyễn Trường An
  19. Khóa luận tốt nghiệp 2011 Khoa Kế toán - Tài chính ước tính và số liệu sổ sách cần được điều tra để xác định nguyên nhân. Tài khoản chi phí lãi vay có khớp được với tài khoản vốn vay. Ngoài ra, một vài tài khoản có thể liên hệ theo cách khác. Giả sử chi phí hoa hồng có thể là một tỷ lệ phần trăm cụ thể của doanh thu và các khoản nợ khó đòi không thể vượt quá doanh thu bán hàng tr ả chậm. Bằng cách kiểm tra mối quan hệ qua lại giữa các tài khoản, kiểm toán viên có thể phát hiện các sai sót thuộc về xử lý kế toán. Một phương pháp khác cũng có thể được áp dụng để xác định những khoản mục có khả năng sai lệch, đó là chọn ra các đối tượng chi tiết, các nghiệp vụ b ất thường, chẳng hạn như số tiền vượt trội hằn, hoặc có nội dung không rõ ràng đ ể kiểm tra. Để phát hiện chúng, kiểm toán viên có thể đọc lướt trên sổ sách, tài khoản và xác định các khoản bất thường. -Nghiên cứu mối quan hệ giữa thông tin tài chính và các thông tin phi tài chính: Các thông tin phi tài chính là những dữ liệu kinh tê, kỹ thuật do các hệ thống hạch toán nghiệp vụ, thống kê... cung cấp. Giữa các thông tin này và thông tin tài chính có những quan hệ nhất định, nên kiểm toán viên có thể phát hiện được những sai sót nhờ dựa trên mối quan hệ hợp lý giữa chúng với nhau. Thí dụ: đối chiếu giữa chi phí tiền lương và số lượng công nhân viên để xem mức lương bình quân có hợp lý không; so sánh giữa lượng tồn kho của một số loại vật từ với khả năng chứa đựng rủi ro của kho hàng... Khi sử dụng những thông tin phi tài chính, kiểm toán viên cũng cần chú ý kiểm tra độ chính xác của chúng. Trong quá trình so sánh, nếu phát hiện được các biến động bất thường, chẳng hạn như khi có những sai biệt lớn, các tỷ lệ ngoài dự kiến, những thông tin tài chính không nhất quán với các bằng chứng kiểm toán đã thu thập được..., kiểm toán viên cần tiến hành điều tra phỏng vấn bằng cách: -Phỏng vấn người quản lý đơn vị, hoặc xác minh lại các giải trình của đơn vị. -Cân nhắc và sử dụng các thủ tục kiểm toán khác để có được kết luận hợp lý. Thủ tục phân tích được sử dụng trong tất cả các giai đoạn của quy trình kiểm toán: -Trong giai đoạn chuẩn bị kiểm toán, phân tích giúp xác định nội dung, thời gian và phạm vi của các thủ tục kiểm toán; đồng thời hướng dẫn sự chú ý của kiểm toán viên đến những bộ phận cần phải điều tra đặc biệt. luanvan84@gmail.com 19 SVTH: Nguyễn Trường An
  20. Khóa luận tốt nghiệp 2011 Khoa Kế toán - Tài chính -Trong giai đoạn thực hiện kiểm toán, phân tích là một loại thử nghiệm cơ bản, nó cung cấp bằng chứng về sự hợp lý của những khoản mục trên báo cáo tài chính, hoặc các thông tin tài chính riêng biệt. -Trong giai đoạn hoàn thành kiểm toán, phân tích được sử dụng để xem xét lại tổng quát lần cuối về toàn bộ số liệu đã được kiểm toán nhằm củng cố thêm cho kết luận đã được đề ra, hoặc giúp nhận thấy những vấn đề cần phải tiến hành thêm các thủ tục kiểm toán thì mới có thể kết luận. Phân tích được đánh giá là một thủ tục kiểm toán có hiệu quả vì thời gian ít, chi phí thấp, mà lại có thể cung cấp những bằng chứng về sự đồng bộ, hợp lý chung về các số liệu kế toán; đồng thời giúp đánh giá được những nét tổng thể và không bị sa vào các nghiệp vụ cụ thể. Tuy nhiên khi áp dụng thủ tục phân tích cần phải chú ý về những vấn đề sau: -Mối quan hệ bản chất của các chỉ tiêu được so sánh: Vì nếu giữa chúng không có liên hệ, hoặc quan hệ một cách hời hợt thì việc phân tích sẽ vô nghĩa. Trong nhiều trường hợp, để có thể so sánh được cần phải loại trừ các nhân tố gây nhiễu bằng những phương pháp thích hợp. -Mức độ trọng yếu của khoản mục trong mối quan hệ tổng thể giữa các thông tin tài chính với nhau: Đối với những khoản mục trọng yếu không thể chỉ chỉ đơn thuần áp dụng kỹ thuật phân tích, mà còn phải kiểm tra chi tiết. -Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát: Với mức rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát cao, nhất là khi hệ thống kiểm soát nội bộ yếu kém, việc áp dụng đơn thuần thủ tục phân tích để đi đến kết luận sẽ có rủi ro rất cao. Ngoài ra, đoạn 57, chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 330 còn lưu ý: Khi xây dựng quy trình phân tích, kiểm toán viên cần xem xét đến các vấn đề sau: a, Mức độ phù hợp khi sử dụng quy trình phân tích dối với cơ sở dẫn liệu; b, Mức độ tin cậy của những dữ liệu được sử dụng để xác định giá trị ghi sổ ước tính hoặc tỷ lệ bất kể dữ liệu đó được tạo ra từ nội bộ hay thu nhập đ ược t ừ bên ngoài; c, Liệu các ước tính có chính xác để xác định sai sót trọng y ếu ở mức đ ảm bảo mong muốn; luanvan84@gmail.com 20 SVTH: Nguyễn Trường An
nguon tai.lieu . vn