Xem mẫu

  1. LUẬN VĂN: Giải phóng phụ nữ: từ quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin đến tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và thực tiễn ở nước ta
  2. mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Quyền con người đã từng là vấn đề xuyên suốt của các cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc trong lịch sử, và cho đến nay nó vẫn là một trong những vấn đề nổi bật của thời đại chúng ta. Quyền con người, dĩ nhiên trước hết là quyền cho mỗi cá nhân, quyền được khẳng định mình là một chủ thể với những quyền lợi, nghĩa vụ như mọi người khác. Thế nhưng loài người đã từng vạch đôi xã hội, một nửa là đàn ông, nửa kia là đàn bà, trong đó đàn bà đ ã từng bị hạn chế hoặc bị loại trừ khỏi những quyền con người cơ bản. Chính vì lẽ đó, vấn đề giải phóng con người, đặc biệt là giải phóng phụ nữ luôn được các nhà tử tửụỷng xã hội chủ nghĩa quan tâm và ngày nay nó là vấn đề chung của toàn nhân loại, bởi lẽ quan tâm đến phụ nữ cũng có nghĩa là quan tâm đến nguồn lực có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Lịch sử xã hội đã chứng minh rằng sự tiến bộ của xã hội sẽ chậm lại nếu trong xã hội có một bộ phận đông đảo ngư ời bị áp bức bóc lột, bị hạn chế hoặc bị loại trừ. Vì vậy vấn đề giải phóng phụ nữ đ ã được đặt ra từ rất lâu. Từ giữa thế kỷ thứ XIX chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời đã góp phần rất quan trọng trong việc giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ ( mà ngày nay theo cách gọi của các nhà khoa học hiện đại ở Việt Nam là bình đẳng giới) như là một trong những nội dung của cách mạng xã hội chủ nghĩa nhằm giải phóng xã hội, giải phóng con người. Đây cũng là một trong những đóng góp vĩ đại của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với sự phát triển của khoa học giới trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, phụ nữ luôn giữ vị trí quan trọng và có những cống hiến to lớn, góp phần xây dựng truyền thống vẻ vang của dân tộc, đồng thời cũng tạo nên truyền thống của chính giới mình. Nhận thức rõ vai trò quan trọng của phụ nữ, ngay sau khi giành được độc lập năm 1945, Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm và đặt nền móng cho sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Điều 9 trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946 đã khẳng định quyền bình đẳng nam nữ. Trải qua nhiều lần sửa đổi
  3. Hiến pháp, song tư tưởng về bình đẳng giới luôn được bổ sung và hoàn thiện. Tất cả các Hiến pháp từ 1946, 1959, 1980, 1992 đều khẳng định: phụ nữ có quyền bình đẳng với nam giới về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Ngoài ra còn có hàng loạt các văn bản, chỉ thị, nghị quyết khác khẳng định quyền bình đẳng nam nữ như Nghị quyết 04 của Bộ Chính trị, Chỉ thị 37 CT/TW, Chỉ thị 44/CT... Gần đây nhất, sau khi thực hiện thành công Chiến l ược và Kế hoạch hành động quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ đến năm 2000, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định phê duyệt Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010 và Kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2005. Nhìn chung, trong những năm qua việc thực hiện các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng và Nhà nước về bình đẳng giới đã đạt được những thành tựu bước đầu rất đáng ghi nhận. Địa vị của người phụ nữ Việt Nam ngày càng được khẳng định và đề cao bởi những đóng góp to lớn của họ trong thành tựu chung của cả n ước và sự quan tâm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, do chưa nhận thức đầy đủ sự khác biệt về giới, chưa vận dụng tiếp thu những thành tựu lý luận quan trọng mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã để lại cho khoa học giới nên sự nghiệp bình đẳng giới vẫn còn một số hạn chế nhất định. Tư tưởng "trọng nam khinh nữ", nạn ngược đãi đối với phụ nữ, tác phong gia tr ưởng, chuyên quyền, độc đoán của không ít đàn ông, sự thiếu bình đẳng trong việc ra các quyết định lớn như đầu tư sản xuất, định hướng hôn nhân, nghề nghiệp cho co n cái vẫn đang tồn tại ở không ít nơi trong nhiều gia đình. Maởt khaực xã hội và gia đình chưa thực sự nhìn nhận, đánh giá hết những cống hiến của phụ nữ cũng nh ư những khó khăn của họ, về mặt nào đó còn nặng về huy động, khai thác sự đóng góp của phụ nữ mà chưa coi trọng đúng mức việc bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt, tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển, đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của cuộc sống. Chính những điều này đã làm chậm quá trình thực hiện mục tiêu công bằng xã hội và bình đẳng giới ở nước ta hiện nay. Tình hình trên đã đặt ra yêu cầu cấp thiết phải đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu lý luận về giải phóng phụ nữ một cách thấu đáo từ quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin đến thực tiễn Việt Nam, góp phần khẳng định và tìm ra những điều kiện cơ bản, giải pháp
  4. chủ yếu nhằm thực hiện công cuộc giải phóng phụ nữ, phát huy vai trò phụ nữ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó là nhiệm vụ vừa cơ bản, lâu dài, vừa có ý nghĩa thời sự cấp bách, đòi hỏi sự nỗ lực của toàn đảng, toàn dân, trước hết là các ngành, các cấp, các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu vấn đề này. Chính thực tế trên đã thôi thúc tôi chọn đề tài: "Giải phóng phụ nữ: từ quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin đến tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và thực tiễn ở nước ta" làm luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Vấn đề giải phóng phụ nữ từ lâu đã được nhiều nhà tư tưởng và các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin quan tâm nghiên cứu và được đề cập rất sớm trong nhiều tác phẩm, điển hình như: "Mác - Ăngghen - Lênin về giải phóng phụ nữ"; "Ba cuộc cách mạng với vấn đề giải phóng phụ nữ" (1976); "Bác Hồ với sự nghiệp giải phóng phụ nữ" (1990). Ngoài ra còn có những tác phẩm lý luận quan trọng của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin như: "Tình cảnh của giai cấp lao động ở Anh"; "Gia đình thần thánh"; "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản"; "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước"; "Chủ nghĩa tư bản và lao động nữ"… Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay từ những ngày đầu của cách mạng cũng giành sự quan tâm thích đáng trong việc đề ra chủ trương, đường lối, chính sách nhằm giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ. Với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự tài trợ của các tổ chức quốc tế, sự tâm huyết của các nhà khoa học, một số vấn đề lý luận và thực tiễn nghiên cứu phụ nữ đã được đặt ra, xem xét và có hướng giải quyết đúng đắn. Nhiều cuộc Hội thảo khoa học ở các Trung tâm nghiên cứu đã đi vào các khía cạnh khác nhau về vai trò của phụ nữ nh ư những công trình: "Thực trạng gia đình Việt Nam và vai trò của phụ nữ trong đình" (1990); "Gia đình, người phụ nữ và giáo dục gia đình" (1993); "Gia đình Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới đất nước và vấn đề xây dựng con người" (1995); "Đánh giá sự tiến bộ của phụ nữ từ 1985-1995" (1995). Những công trình trên đã chỉ ra thực trạng vai trò của phụ nữ trong gia đình, ngoài xã hội ở nước ta, nêu lên những kiến nghị nhằm thay đổi và bổ sung những chính sách xã hội đối với phụ nữ để họ có điều kiện phát huy hết vai trò của mình trong sự n ghiệp đổi mới. Giáo sư Lê Thị Nhâm Tuyết với
  5. quyển "Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại" đã làm nổi bật vai trò phụ nữ Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, từ buổi đầu dựng nước đến những năm 1968. Nhiều công trình nghiên cứu khoa học cấp nhà n ước về vai trò của phụ nữ trong gia đình như: " Vai trò của gia đình trong sự hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam" do Giáo sư Lê Thi làm chủ nhiệm; "Phụ nữ giới và phát triển" (1996) của tác giả Trần Thị Vân Anh và Lê Ngọc Hùng; " Phụ nữ và bình đẳng giới trong đổi mới ở Việt Nam" (1998) của Giáo sư Lê Thi; "Luận cứ về khoa học cho việc đổi mới chính sách xã hội đối với phụ nữ và gia đình" do Phó giáo sư Trần Thị Vân Anh làm chủ nhiệm. Tất cả những công trình trên đều phản ánh những thay đổi về vai trò của phụ nữ trong gia đình và bước đầu đã có một số kiến nghị nhằm phát huy vai trò của phụ nữ trong gia đình và trong công cuộc đổi mới. Ngoài ra còn có các luận văn, luận án như "Bình đẳng giới trong gia đình ở nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay" (2002) của tác giả Chu Thị Thoa; "Gia đình Việt Nam và vai trò của người phụ nữ trong gia đình hiện nay" của tác giả Dương Thị Minh; "Học thuyết Mác - Lênin về phụ nữ và liên hệ với thực tiễn hiện nay ở nước ta" (2002) của tác giả Lê Ngọc Hùng... Đó là những tác phẩm, luận văn, luận án bước đầu đặt cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu phụ nữ và gia đình theo phương pháp tiếp cận giới - một phương pháp nghiên cứu mới mẻ nhưng lại rất hiệu quả. Các công trình nghiên cứu kể trên là những tư liệu tham khảo hết sức quan trọng giúp tôi hoàn thành đề tài luận văn. Tuy nhiên, hiện nay ở nước ta, những nghiên cứu chuyên sâu các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về phụ nữ còn rất ít. Trong th ư mục các công trình nghiên cứu và bài viết đã công bố, xuất bản của cán bộ Trung tâm nghiên cứu khoa học về gia đình và phụ nữ có rất ít ấn phẩm chuyên bàn về vấn đề giải phóng phụ nữ. Trước tình hình đó, tác giả chọn đề tài: "Giải phóng phụ nữ: từ quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin đến tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và thực tiễn ở nước ta" với mong muốn được góp một phần công sức nhỏ bé vào sự nỗ lực chung của toàn xã hội đối với vấn đề giải phóng phụ nữ cả về ph ương diện lý luận lẫn thực tiễn. 3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích
  6. Trên cơ sở làm rõ những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về giải phóng phụ nữ, tác giả luận chứng những điều kiện cơ bản và những giải pháp chủ yếu nhằm giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 3.2. Nhiệm vụ Để đạt được mục đích đề ra, tác giả luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau đây: - Hệ thống hóa, khái quát hóa những quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề giải phóng phụ nữ và làm rõ sự vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề giải phóng phụ nữ của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam. - Làm rõ thực trạng vấn đề giải phóng phụ nữ ở nước ta hiện nay. - Phân tích những điều kiện cơ bản và những giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện sự nghiệp giải phóng phụ nữ, tiến tới bình đẳng giới trong tình hình hiện nay. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu tiến trình giải phóng phụ nữ của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta trong lịch sử cũng như hiện nay ở Việt Nam, cả về lý luận và thực tiễn. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên c ứu - Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới. - Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu: lôgíc và lịch sử; phân tích và tổng hợp tư liệu thực tế để giải quyết nhiệm vụ đặt ra. Tác giả luận văn cũng đã kế thừa các công cụ phân tích giới để tìm hiểu, phân tích, lý giải thực trạng bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay. 5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn - Lần đầu tiên vấn đề giải phóng phụ nữ trong lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta được nghiên cứu một cách cơ bản và có hệ thống. Tác giả luận văn bước đầu đã kết hợp chặt chẽ quan điểm của chủ nghĩa Mác -
  7. Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam với ph ương pháp tiếp cận giới trong xem xét và lý giải vấn đề bình đẳng giới, đây được coi là bước phát triển lôgíc của quá trình nhận thức, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác - Lênin về giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới. - Luận văn chỉ ra những điều kiện cơ bản và những giải pháp chủ yếu thực hiện công cuộc giải phóng phụ nữ, tiến tới bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay. 6. ý nghĩa thực tiễn của luận văn Với những đóng góp mới về mặt khoa học trên đây, luận văn góp phần vào việc nghiên cứu những vấn đề lý luận đối với công cuộc giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới đồng thời cung cấp thêm các cơ sở khoa học, các căn cứ cho việc hoạch định chiến lược tổng thể và chính sách cụ thể vì sự tiến bộ của phụ nữ, thực hiện sự nghiệp giải phóng phụ nữ nhằm phát huy mọi khả n ăng sáng tạo của họ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học, giảng dạy về gia đình, về giới trong hệ thống các trường Đảng, các trường đào tạo cán bộ nữ và các trường trung cấp lý luận chính trị ở nước ta. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu làm 3 chương, 7 tiết.
  8. Chương 1 CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ VẤN ĐỀ GIẢI PHÓNG PHỤ NỮ 1.1. CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN BÀN VỀ ĐỊA VỊ NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG XÃ HỘI TƯ BẢN CHỦ NGHĨA 1.1.1. Địa vị người phụ nữ trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa “Vấn đề giải phóng phụ nữ” từ lâu đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu nhưng cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, nói đến giải phóng phụ nữ là nói đến địa vị người phụ nữ trong xã hội có giai cấp đối kháng. Loại ý kiến khác lại cho rằng, giải phóng phụ nữ là vấn đề có tính lịch sử nên trong xã hội có giai cấp đối kháng giải phóng phụ nữ thực chất là bàn về địa vị người phụ nữ trong xã hội. Còn trong xã hội xã hội chủ nghĩa, giải phóng phụ nữ là đề cập đến vai trò phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội. Nhìn chung, mỗi loại ý kiến đều có tính hợp lý của nó, song một cách hệ thống và khái quát thì các quan niệm trên đều chưa đạt tới, còn loại bỏ tính phong phú, đa dạng của thuật ngữ này. Khi bàn về cách mạng Trung Quốc với việc giải phóng phụ nữ vào năm 1923, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng vấn đề giải phóng phụ nữ là: Quyền bình đẳng về giáo dục, kinh tế, chính trị cho cả đàn ông cũng như cho cả đàn bà thi hành hệ thống trường học thống nhất, tức là thành lập trường học, trong đó con trai và con gái cùng học, trả công như nhau cho sự lao động như nhau. Quyền được nghỉ ngơi và tiền trợ cấp cho trường hợp đau ốm, có mang [38, tr.11]. Các nhà khoa học xã hội Xô viết trước đây quan niệm rằng: Vấn đề giải phóng phụ nữ là vấn đề địa vị người phụ nữ dưới chủ nghĩa tư bản, về những con đường và phương pháp giải phóng lao động phụ nữ về mặt xã hội và thực hiện sự bình đẳng thực sự của họ, về sự tham gia của họ vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản [58, tr.390]. Tổng hợp các ý kiến trên có thể nhận thấy: “Vấn đề giải phóng phụ nữ” về thực chất là bàn về địa vị, vai trò của phụ nữ trong xã hội và những con đường giải phóng phụ nữ, đảm bảo quyền bình đẳng của phụ nữ trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội nhằm phát huy vai trò to lớn của phụ nữ trong gia đình cũng như trong xã hội. “Địa vị người phụ nữ” là phức thể các điều kiện kinh tế - xã hội đặc trưng cho cuộc sống lao động sản xuất và sinh hoạt của phụ nữ trong gia đình và xã hội. Để khắc họa địa vị người phụ nữ trong xã hội, nhất là trong xã hội tư bản chủ nghĩa, các nhà kinh điển đã sử dụng
  9. hàng loạt các khái niệm khác nhau như “địa vị xã hội”; “sự thống trị ”; “sự bất công”; “sự bất bình đẳng xã hội”... Nói đến địa vị người phụ nữ trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa C.Mác và Ph.Ăngghen đã tố cáo kiểu bóc lột tư bản chủ nghĩa đối với lao động nữ. Bọn chủ tư bản đã bỏ tiền ra mua sức lao động của phụ nữ và bắt họ làm việc đến kiệt sức trong điều kiện không đảm bảo vệ sinh dẫn đến bệnh tật, tử vong. Tỷ lệ mắc bệnh của phụ nữ bao giờ cũng cao hơn nam giới. C.Mác chỉ rõ: “trong những nghề nghiệp của phụ nữ như bông, len, lụa và đồ gốm tỷ lệ bình quân chết vì bệnh phổi trong 100 nghìn người đàn bà là 643 người nhiều hơn so với tỷ lệ đàn ông là 610 người” [34, tr.428]. Như vậy, hội chứng “chết vì lao động quá sức” đã xuất hiện từ cuối thế kỷ XIX đặc biệt là đối với người phụ nữ, điều này đã được các nhà nghiên cứu đặt ra câu hỏi lớn: phải chăng với những điều kiện lao động dưới chủ nghĩa tư bản như vậy phụ nữ mới mắc những chứng bệnh hiểm nghèo? Các ông cũng tìm ra câu trả lời rằng: trong xã hội tư bản chủ nghĩa, có thể nói lao động như nô lệ của phụ nữ đã dẫn đến tình trạng trên. Phụ nữ làm việc lẫn lộn với đàn ông, họ làm việc hết sức nặng nhọc trong những điều kiện không phù hợp với sức khỏe và nhân phẩm, C.Mác viết: "Công nhân gồm đàn ông và đàn bà, người lớn và trẻ em thuộc cả hai giới… trong một số ngành thì ban đêm đàn bà và nữ thanh niên làm việc lẫn lộn với đàn ông” [34, tr.377]. Bọn chủ tư bản bóc lột sức lao động của phụ nữ bằng cách kéo dài thời gian lao động của họ trong môi trường thiếu vệ sinh, thiếu không khí. Họ phải làm việc cật lực trung bình ngày 16 giờ và trong mùa may mặc thì có khi làm một mạch 30 giờ không nghỉ. Hậu quả của tình trạng trên dẫn đến sức khỏe suy sụp về tinh thần và thể xác, thậm chí tử vong. Động cơ của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là lợi nhuận, là làm giàu nên họ bất chấp tất cả. C.Mác viết: Tất cả các nữ công nhân may mặc, nữ công nhân may thời trang, nữ công nhân may áo và nữ công nhân may thông thường đều chịu 3 thứ tai họa: lao động quá sức, thiếu không khí và thiếu ăn… Nếu một nữ công nhân may áo tạo ra được một ít khách hàng, thì sự cạnh tranh bắt buộc người đó phải làm việc cho đến chết ở nhà để giữ khách và nhất định phải bắt người giúp việc mình cũng làm quá mức như thế [34, tr.374] Không những vậy họ còn phải chịu những điều kiện khắc khổ của cuộc sống, nơi ở rất chật chội, bẩn thỉu, thiếu ánh sáng, thiếu không khí. C.Mác đã miêu tả họ phải sinh hoạt trong những điều kiện giống thú vật hơn là giống người: “Tình trạng chen chúc chật chội đến cao độ hầu như nhất định phải dẫn đến chỗ bỏ hết mọi thứ lịch sự, chung đụng
  10. một cách bẩn thỉu về thân thể và về những chức năng của cơ thể, trai gái lõa lồ, đến nỗi tất cả đều giống như thú vật hơn là giống người” [34, tr.922]. Vào những năm 1844, 1845 C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát hiện ra một xu hướng chung về việc sử dụng lao động của giới chủ tư bản, đó là việc bọn chủ tư bản tăng cường tuyển dụng lao động phụ nữ và trẻ em gái, tất cả là vì mục đích lợi nhuận, vì lao động của đàn bà và trẻ em rẻ hơn lao động của đàn ông. Đây là sự tính toán tinh vi của giới chủ tư bản nhằm đạt được lợi ích kinh tế cao nhất. Tính tham lam, bỉ ổi của giai cấp tư sản đã tạo nên bao nhiêu là bệnh tật. Phụ nữ không thể sinh đẻ, trẻ con tàn tật, đàn ông yếu đuối xanh xao, chân tay tàn phế, toàn bộ nhiều thế hệ bị hủy hoại, hom hem yếu đuối, tất cả chỉ là để nhét cho đầy túi của giai cấp tư sản - giai cấp vỗ ngực là từ bi và không vụ lợi nhưng thực tế chỉ có mục đích duy nhất là nhét đầy túi với bất cứ giá nào. Không những thế bọn chủ xưởng tư bản còn dùng những biện pháp hà khắc tàn khốc nhất để bòn rút những khoản tiền phạt giáng vào đầu công nhân, cắt xén từng xu, từng nửa xu của những người vô sản xác xơ để làm tăng thêm lợi nhuận của chúng. “Li- sơ kể lại rằng ông ta nhiều lần thấy nhiều nữ công nhân có mang gần đẻ vì ngồi nghỉ một lát trong thời gian làm việc, mà bị phạt 6 pen-ni” [31, tr.72]. Do không khí ngột ngạt của nơi làm việc và nơi ở, do phải thường xuyên ngồi còng lưng gập ngực, do đồ ăn không tốt, khó tiêu và chủ yếu là do thời gian lao động quá dài, thiếu không khí trong sạch nên sức khỏe họ bị tàn phá ghê gớm Không mấy chốc họ đã thấy mệt mỏi, kiệt sức, suy nhược, ăn mất ngon, đau vai, đau lưng, đau thắt lưng, nhất là đau đầu; sau đó là xương sống bị vẹo, hai vai nhô cao và biến dạng, gầy mòn, mắt sưng, chảy nước mắt và nói chung nhức nhối, cận thị, ho, ngực lép, khó thở và mọi thứ bệnh phụ nữ [31, tr.589]. Với những đức tính gần như thiên bẩm của phụ nữ “dịu dàng, nết na, ngoan ngoãn, hiền thục, dễ bảo” đã bị bọn chủ tư bản lợi dụng. C.Mác đã tố cáo sự lợi dụng, sự bóc lột tinh vi, dã man và tàn bạo của chủ nghĩa tư bản. Phụ nữ phải lao động nặng nhọc trong những điều kiện hết sức khắc khổ, bị đối xử còn kém hơn cả so với súc vật, họ chẳng có chút địa vị, vai trò nào trong xã hội. Chúng ta thấy rõ, ngay ở nước Anh, đất nước của nền đại công nghiệp phát triển rất sớm nhưng phụ nữ còn phải làm những công việc tốn nhiều sức lực như kéo thuyền thay cho ngựa. C.Mác đã miêu tả tình cảnh đó như sau: “để kéo thuyền dọc sông Đào, thỉnh thoảng người ta vẫn còn dùng phụ nữ thay cho ngựa” [34, tr.568]. Như vậy, dưới chế độ tư hữu, phụ nữ phải chịu đựng một nghịch lý: vai trò thì lớn nhưng địa vị thì thấp hèn cả trong gia đình lẫn ngoài xã hội, họ luôn chịu cảnh bất bình đẳng với nam giới, bị bóc lột, bị tha hóa. Trong từng thời kỳ lịch sử khác nhau, các hình
  11. thức bất bình đẳng tuy có thay đổi nhưng bản chất thì không thay đổi. Trong các công xưởng tư bản chủ nghĩa, phụ nữ phải chịu bao nỗi nhục nhã, đắng cay, phải lao động cực nhọc từ lúc mang thai cho đến lúc sinh nở, họ phải cật lực làm việc, thậm chí không được nghỉ cho con bú và khi con ốm. Với đồng lương ít ỏi không đủ nuôi sống gia đình, việc làm bấp bênh, nên nhiều phụ nữ khi sinh con vài ba ngày đã phải đến công xưởng để làm việc trong điều kiện hết sức tồi tệ. Do lao động quá lâu trong một tư thế nên thân hình nhiều phụ nữ trở nên dị dạng. Bác sĩ Hây ở Lít-dờ, người thầy thuốc làm việc 18 năm ở bệnh viện cũng đã chứng minh: Cột sống bị vẹo là thứ tật rất thường gặp ở công nhân công xưởng; trong một số trường hợp, đó chỉ là hậu quả của lao động quá sức; trong một số trường hợp khác thì lại là hậu quả của lao động quá kéo dài đối với một cơ thể bẩm sinh yếu ớt hay vì bồi dưỡng kém mà suy nhược… Ở đây, những dị tật các loại có thể thường thấy hơn tật vẹo cột sống; đầu gối cong lõm vào trong, gân mắc cá thường nhão ra, xương đùi của chân bị vặn cong; đầu to của những xương đùi ấy đặc biệt bị vặn cong và to ra quá độ, những bệnh ấy đều đến từ những công xưởng có ngày lao động quá dài [31, tr.520]. Chính vì lao động quá sức nên không có một người con gái nào vóc người cao dỏng và đều đặn. Họ đều thấp bé, cằn cỗi, ngực hẹp, hình người rất khó coi. Ngoài những bệnh tật và biến hình như miêu tả ở trên, một số công nhân còn bị tàn phế nữa. Trong tác phẩm: “Tình cảnh giai cấp công nhân Anh” Ph. Ăngghen đã chỉ ra rằng: lao động của phụ nữ và trẻ em dưới chủ nghĩa tư bản là thứ lao động rẻ mạt, sử dụng nguồn lao động này nhà tư bản thu được món lợi kếch sù. Các ông chủ tư bản luôn tìm mọi biện pháp để thải hồi nam công nhân và thu hút lao động của phụ nữ và trẻ em để thế chân họ. Vì vậy trong các công xưởng tư bản, phụ nữ và trẻ em có khối việc làm, nhưng lại không có việc cho đàn ông. Chính vì thuê phụ nữ với giá rẻ cùng với những đức tính “thiên bẩm” (chăm chỉ, dễ bảo…) nên bọn chủ tư bản thích sử dụng đàn bà hơn đàn ông Ông E… một chủ xưởng cho biết rằng ông ta chỉ toàn dùng phụ nữ để đứng máy dệt thôi, ông thích sử dụng đàn bà có chồng rồi, nhất là những người có gia đình mà họ phải nuôi; họ chăm chỉ hơn và dễ bảo hơn là những người phụ nữ chưa chồng và hơn nữa họ buộc phải làm việc cật lực để kiếm được những tư liệu sinh hoạt cần thiết [34, tr.578]. Như vậy, trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh cũng như trong giai đoạn độc quyền chủ nghĩa, địa vị người phụ nữ không có gì thay đổi, thậm chí còn tồi tệ hơn. Vì muốn cả nhà được ăn no, mặc ấm, bằng một số tiền hết sức ít ỏi nên chị em hàng
  12. ngày phải tính toán chi li, phải đầu tắt mặt tối với công việc, chỉ có sức lao động của mình là không hề tiếc. Vì vậy họ sẳn sàng nhận số tiền công hết sức rẻ mạt để kiếm thêm cho bản thân hoặc gia đình một mẩu bánh mì. Chính vì những đức tính đặc biệt của phụ nữ đã biến họ thành công cụ, thành nô lệ và làm cho họ ngày càng đau khổ. 1.1.2. Địa vị người phụ nữ trong hôn nhân và gia đình dưới chế độ tư bản chủ nghĩa Lĩnh vực cơ bản và quan trọng nhất của tái sản xuất xã hội là hôn nhân và gia đình. Nòi giống được duy trì và phát triển, sức người và sức lao động được nuôi dưỡng, chăm sóc và bảo vệ như thế nào phụ thuộc rất nhiều vào hôn nhân và gia đình. Gia đình là bức tranh thu nhỏ của xã hội, trong đó bộc lộ đầy đủ và rõ ràng địa vị người phụ nữ trong mối tương quan xã hội với nam giới. Dưới xã hội tư bản chủ nghĩa có hai loại gia đình là gia đình tư sản và gia đình vô sản, giai cấp nắm giữ tư liệu sản xuất là giai cấp thống trị và bóc lột giai cấp không có tư liệu sản xuất, điều này được thể hiện rõ trong gia đình tư sản, nơi mà những người đàn ông nắm giữ vị thế thống trị kinh tế, đồng thời cũng nắm giữ vị thế thống trị những người đàn bà không có tư liệu sản xuất. Với tính cách là đơn vị của tế bào xã hội, gia đình cũng chứa đựng tất cả các mối quan hệ bất công và bất bình đẳng xã hội. Ph. Ăngghen đã viết: “Trong gia đình, người chồng là nhà tư sản, người vợ đại biểu cho giai cấp vô sản” [33, tr.116]. Trước khi học thuyết Mác ra đời, vấn đề giải phóng phụ nữ đã được nhiều nhà tư tưởng quan tâm nghiên cứu, bởi họ không những được tôn vinh là phái đẹp mà với thiên chức làm vợ, làm mẹ họ còn có vai trò to lớn trong gia đình và ngoài xã hội. Tuy nhiên, dưới chế độ tư bản chủ nghĩa cũng như dưới các chế độ áp bức, bóc lột khác, phụ nữ phải luôn chịu cảnh bất bình đẳng với nam giới, họ không có chút địa vị nào trong hôn nhân và gia đình. Nghiên cứu lịch sử xã hội loài người, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng: trong xã hội có giai cấp đối kháng phụ nữ là nạn nhân trực tiếp của sự áp bức giai cấp và của sự bất bình đẳng trong gia đình và ngoài xã hội. Sự ra đời của chế độ tư hữu dẫn đến tình trạng áp bức, nô dịch của giai cấp có của đối với giai cấp không có của, từ đây trong gia đình người phụ nữ trở nên phụ thuộc hoàn toàn về kinh tế, phải phục tùng tuyệt đối quyền lực của người chồng và thậm chí người chồng có thể giết vợ cũng chỉ là để thực hiện quyền lực của mình mà thôi. Theo sự phát triển của lịch sử xã hội loài người, trong các xã hội dựa trên chế độ tư hữu, sự biến đổi của các hình thức hôn nhân và gia đình, sự phụ thuộc của người phụ
  13. nữ vào chồng luôn có sự thay đổi nhưng bản chất không hề thay đổi. Sự thay đổi các hình thức hôn nhân trong xã hội thể hiện sự tiến bộ của nhân loại nhưng đồng thời cũng chứng minh một thực tế là đàn bà ngày càng mất đi quyền tự do tính giao kiểu chế độ quần hôn. Trong chế độ gia trưởng và chế độ tư bản chủ nghĩa, người đàn ông có quyền lấy nhiều vợ, có quyền li dị vợ và có quyền ngoại tình. Luật pháp đã tạo mọi điều kiện cho đàn ông thả sức sử dụng “những xa xỉ phẩm của lịch sử” miễn là người đó không dắt tình nhân về nhà mình. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa quyền này của người đàn ông được sử dụng dưới nhiều hình thức khác nhau, với quan niệm coi vợ “chẳng qua chỉ là một công cụ sản xuất đơn thuần” [32, tr.620], nhưng ngược lại nếu phụ nữ mắc tội danh này họ sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc hơn bất cứ thời đại nào trước kia. Còn các ông chủ tư bản thì thỏa sức dâm đãng với vợ và con gái giai cấp vô sản. Ph.Ăngghen vạch trần: “các ngài tư sản chưa thỏa mãn là sẵn có vợ và con gái của vô sản để dùng, đó là chưa kể chế độ mãi dâm công khai, các ngài ấy còn lấy việc cắm sừng lẫn nhau làm một thú vui đặc biệt” [32, tr.620]. Chính tình trạng này đã làm bại hoại đạo đức xã hội, làm trụy lạc những người phụ nữ nào không may rơi vào hoàn cảnh đó và làm bại hoại nhân cách toàn thế giới đàn ông. Ngay trong gia đình dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, người đàn ông cũng nắm lấy nguồn cai quản, còn nhiều người đàn bà thì bị nô dịch, bị biến thành nô lệ cho đàn ông. PhĂngghen đã chỉ rõ những mâu thuẫn tồn tại trong gia đình dưới chế độ tư hữu, đó là hình thức thu nhỏ của những mặt đối lập, của những mâu thuẫn tồn tại trong xã hội có phân chia giai cấp. Người phụ nữ trong gia đình dưới chế độ tư hữu xét cho cùng chỉ là mẹ của những đứa con kế thừa chính thức tài sản dòng dõi của chồng, là người quản gia chính của nhà chồng và là người cai quản các tì thiếp của chồng. Vì vậy trong xã hội tư bản chủ nghĩa chế độ một vợ một chồng chỉ riêng đối với người đàn bà, chứ không phải đối với đàn ông. Nếu người vợ có muốn vượt ra ngoài khuôn khổ ấy thì lập tức họ sẽ bị lên án và bị trừng phạt nghiêm khắc, họ chỉ là một vật để lo việc gia đình, để đẻ con và chỉ là một người đầy tớ chính trong gia đình. Trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước” khi đề cập đến hôn nhân và gia đình tư sản Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng: trong tất cả các giai cấp trong lịch sử (loại trừ giai cấp tư sản) - giai cấp thống trị, việc quyết định một cuộc hôn nhân là việc có tính toán lợi hại do cha mẹ thu xếp. Kể cả trong môi trường đạo Thiên chúa hay đạo Tin lành thì phụ nữ trong chế độ tư bản đều dựa trên địa vị giai cấp của đôi bên. Vì vậy:
  14. Hôn nhân luôn luôn là hôn nhân có tính toán… Hôn nhân có tính toán đó thường thường biến thành sự mại dâm ty tiện nhất - có khi là của cả đôi bên, nhưng thông thường nhất là về phía người vợ; nếu ở đây, người đàn bà có khác với gái đĩ thường chỉ là vì người đó không bán thể xác mình từng thời gian một như người nữ công nhân làm thuê bán sức lao động của mình mà là bán mãi mãi, như người nữ nô lệ [33, tr.112]. Ngay trong đạo Thiên chúa, cha mẹ vẫn tìm vợ cho con, lựa chọn người vợ xứng đáng và vì thế đã dẫn đến kết quả “làm cho mâu thuẫn chứa đựng trong chế độ một vợ một chồng phát triển đầy đủ nhất: chế độ hê-ta-ia về phía người chồng là chế độ hê-ta-ia bừa bãi, về phía vợ, là ngoại tình lu bù” [33, tr.111]. Hoặc như trong đạo Tin lành, việc người con trai ít nhiều được lựa chọn vợ trong cùng giai cấp thì chế độ hê-ta-ia của người chồng được thực hành ít kiên quyết hơn và nạn ngoại tình của người vợ cũng ít thành lệ hơn. Song kết quả “cũng vẫn chỉ mang lại cho cuộc sống chung một nỗi buồn nặng trĩu mà người ta gọi là hạnh phúc gia đình” [33, tr.112]. Như vậy: hôn nhân và gia đình tư sản chủ yếu dựa trên cơ sở quan hệ kinh tế bất bình đẳng giữa nam và nữ. Gia đình tư sản chứa đựng và bộc lộ rõ mối quan hệ thống trị bóc lột của chồng đối với vợ, của đàn ông với đàn bà, của toàn thể giai cấp đàn ông tư sản đối với giai cấp đàn bà vô sản. C.Mác và Ph.Ăngghen đã vạch trần sự ghê sợ quá ư đạo đức giả của hôn nhân và gia đình tư sản, trong đó người phụ nữ trở thành phương tiện và công cụ sản xuất, thành kẻ nô lệ của đàn ông. Điều này cũng đã được Lênin làm rõ vào nửa đầu thế kỷ XX. Ông tố cáo rằng dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, phụ nữ, tức một nửa nhân loại luôn bị hai tầng áp bức, ngay ở những nước cộng hòa tư sản dân chủ nhất phụ nữ vẫn ở trong tình cảnh “một cổ hai tròng” tức là vẫn bị bất bình đẳng, bị bóc lột và bị nô lệ cùng một lúc trong xã hội và trong chính gia đình họ. Năm 1921, Lênin vạch rõ phụ nữ ở những nước tư bản tiên tiến nhất phải chịu cảnh đọa đày, cảnh bất bình đẳng với nam giới: Một là họ hoàn toàn không có quyền gì cả, vì pháp luật không cho họ có quyền bình đẳng với nam giới, hai là - và đây là điều chủ yếu - họ bị giam hãm trong “chế độ nô lệ gia đình”, họ là những “nô lệ cho gia đình”, bị nghẹt thở dưới cái gánh những công việc bếp núc nhỏ nhặt nhất, lam lũ nhất, khổ cực nhất và làm cho mụ người nhất, và nói chung, dưới cái gánh công việc nội trợ - gia đình cá thể [28, tr.463]. Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã cụ thể hoá các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin trong hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam - một nước thuộc địa nửa phong kiến đứng lên đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân chủ và tiến lên chủ nghĩa xã
  15. hội. Là dân một nước thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc cảm nhận rất sâu sắc nổi khổ nhục của người dân mất nước, đặc biệt là phụ nữ, với xứ thuộc địa thì mọi thứ tự do, bình đẳng, bác ái, chân lý, nhân quyền chẳng bao giờ có cả. Giai cấp tư sản thường giương cao ngọn cờ tự do, bình đẳng, bác ái, nhưng trong thực tế chúng là những kẻ chà đạp lên tự do, bình đẳng, bác ái. Vì vậy khi đến thăm tượng thần tự do ở Mỹ, Người đã nhận xét: trong khi người ta tượng trưng tự do và công lý bằng tượng một người đàn bà thì trong thực tế, họ lại hành hạ những người đàn bà bằng xương, bằng thịt. Bản “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” của cách mạng Pháp năm 1789 tuyên bố: “Người ta sinh ra được tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do bằng bình đẳng và quyền lợi”. Thế nhưng nước Pháp lại đem quân đi xâm lược, tước đi quyền tự do của dân tộc Việt Nam. Để tố cáo chế độ thực dân Pháp Nguyễn Ái Quốc đã viết tác phẩm: “Bản án chế độ thực dân Pháp” Người khẳng định chế độ thực dân, tự bản thân nó, đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi. Bạo lực đó, đem ra đối xử với trẻ con và phụ nữ, lại càng bỉ ổi hơn nữa. Dưới chế độ thực dân phong kiến, nhân dân bị áp bức bóc lột thì phụ nữ ta bị áp bức bóc lột càng nặng nề hơn. Phụ nữ không được hưởng những thành quả lao động do bàn tay, khối óc của mình làm ra. Công lao của họ rất lớn nhưng họ không có vị trí xứng đáng ở trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Mỗi khi dân tộc mất độc lập, nhân dân mất tự do thì phụ nữ chịu nhiều đau khổ hơn ai cả. Chủ nghĩa thực dân không từ một hành động bạo ngược nào để đi áp bức, bóc lột phụ nữ và trẻ em. Nguyễn Ái Quốc miêu tả: những người phụ nữ bản xứ được coi như súc vật, họ bị đánh đập, bị hành hạ, bị bóc lột một cách thê thảm. Công việc làm như nhau nhưng tiền lương của phụ nữ bao giờ cũng thấp hơn nam giới. Sinh đẻ là chức năng của phụ nữ, nhưng chị em sinh đẻ lại không được nghỉ, thậm chí còn có nguy cơ mất việc làm. Phụ nữ còn phải nộp sưu cao, thuế nặng, phải mua rượu và thuốc phiện, nếu không có tiền mua thì phải đi tù. Dưới chế độ thực dân phụ nữ luôn bị hành hạ, bị làm nhục và bị giết hại. Bọn thực dân luôn cho mình có quyền được chửi mắng, đánh đập phụ nữ Việt Nam ở bất cứ chỗ nào họ muốn: “Không một chỗ nào người phụ nữ thoát khỏi những hành động bạo ngược của bọn người xâm lược... Ngay giữa chợ Sài Gòn - mà người ta bảo là một thành phố Pháp - những người gác chợ cũng không ngần ngại dùng roi gân bò, dùi cui đánh người đàn bà bản xứ để bắt họ tránh cho khỏi nghẽn lối!” [17, tr.5]. Hơn thế nữa, bọn thực dân đã dùng mọi thủ đoạn dã man nhất để gọi là “trừng phạt” mỗi khi phụ nữ “phạm tội” như: phải mang nặng gông xiềng đi quét đường vì tội không nộp nổi thuế; bị bắt giam vì tội “vi phạm luật thương chính” (không mua rượu và thuốc phiện). Có nơi bọn quan cai trị còn dùng những hình phạt đau đớn nhất đối với phụ nữ như bắt đội đá trên đầu đứng nắng cả ngày, bắt làm “vật thế chấp”, thậm chí “đổ cả
  16. nhựa cao su nóng bỏng vào bộ phận sinh dục nữ”. Là phụ nữ bản xứ, kể cả những cụ già 80 tuổi, em bé 12,13 tuổi, phụ nữ có thai hay đang cho con bú… đều bị xúc phạm một cách dã man và tàn bạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phải thốt lên: “Chưa có bao giờ, ở một nước nào, một thời đại nào, người ta lại vi phạm mọi quyền làm người một cách dã man độc ác đến thế” [17, tr.13]. Dưới chế độ thực dân phụ nữ còn bị giết hại một cách man rợ. Bọn chúng gồm toàn những tên lưu manh, những bọn người lười biếng, những tên giết người, đó là những “tinh hoa của những cặn bã, lượm lặt tất cả ở các nước châu Âu” để đưa đến các nước thuộc địa. Bọn họ thả những tên sát nhân này vào trong đám dân thường tội nghiệp để hoành hành theo thú tính tàn bạo của bọn chúng. Chúng thiêu sống người già, giết chết trẻ em, hãm hiếp phụ nữ, gây ra bao cảnh tang tóc đau thương. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát một cách chính xác, đầy đủ về chủ nghĩa thực dân: “Người ta nói: chế độ thực dân là chế độ ăn cướp. Chúng tôi xin nói thêm: Chế độ hãm hiếp đàn bà và giết người” [17, tr.6]. Như vậy: Chủ nghĩa thực dân đã gây ra bao cảnh tang tóc đau thương cho phụ nữ: bị áp bức bóc lột, bị xúc phạm nhân phẩm, bị hãm hiếp, bị giết hại, bị tù đày bắt bớ, bị mất quyền tự do, dân chủ và quyền làm người. Chính sách “Ngu dân” của bọn thực dân đã kìm hãm phụ nữ trong sự dốt nát và lạc hậu triền miên. Tất cả những tội ác này toàn bộ chế độ thực dân phải chịu trách nhiệm trước lịch sử - đây cũng là dự báo thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh. 1.2. HỌC THUYẾT MÁC - LÊNIN VỀ GIẢI PHÓNG PHỤ NỮ 1.2.1. Nguồn gốc của sự bất bình đẳng nam nữ - Nguồn gốc kinh tế Vào thế kỷ XVII - XVIII, nhiều nhà tư tưởng cho rằng phụ nữ phải bị lệ thuộc vào đàn ông và là nô lệ của đàn ông, đó là điều tự nhiên vì phụ nữ có giá trị thấp hơn đàn ông. Điều này đã bị các nhà triết học thời kỳ khai sáng như Điđơrô, J.Rutxô và đặc biệt là Phuriê phê phán. Theo các nhà tư tưởng này thì chính sự độc đoán của giai cấp phong kiến cùng với những tệ nạn là nguyên nhân đẩy người phụ nữ rơi vào hoàn cảnh phải phụ thuộc nam giới, có vị trí thấp hèn trong gia đình và cả ngoài xã hội. Để bác bỏ quan niệm cho rằng từ khi có xã hội loài người, đàn bà đã là nô lệ của đàn ông, sự tồn tại và phát triển của các hình thức gia đình, sự bất bình đẳng về mặt xã hội giữa nam và nữ hoặc hoàn toàn là do những yếu tố tự nhiên, sinh học, hoặc hoàn toàn là do yếu tố tôn giáo chi phối… Chủ nghĩa Mác đã khái quát sự biến đổi địa vị của người phụ nữ qua hai thời kỳ lịch sử đó là thời kỳ chế độ mẫu quyền và chế độ phụ quyền, đồng thời đưa ra sự lý giải có căn cứ khoa học và phù hợp với thực tiễn lịch sử về nguồn gốc của sự bất bình đẳng nam nữ.
  17. Xã hội mẫu hệ được hình thành ngay từ buổi bình minh của xã hội loài người khi con người đang cố gắng tách ra khỏi các động vật khác. Giai đoạn này được C.Mác và Ph.Ăngghen gọi là chế độ cộng sản nguyên thủy, với phương thức sản xuất chủ yếu là hái lượm và trồng trọt. Người đàn bà giữ vị trí quan trọng trong gia đình, con cái sinh ra chỉ biết có mẹ, mang huyết thống mẹ và kế thừa tài sản của mẹ. Do tính chất công việc nên phụ nữ tỏ rõ sự ưu trội và có vai trò nổi bật hơn so với nam giới. Ph.Ăngghen đã viết: “kinh tế gia đình cộng sản… là cơ sở hiện thực của quyền thống trị của người đàn bà, cái quyền thống trị phổ biến khắp mọi nơi trong thời nguyên thủy” [33, tr.83]. Chế độ mẫu quyền đã tồn tại hàng vạn năm trong lịch sử nhân loại từ suốt thời đại mông muội đến giai đoạn thấp của thời đại dã man. Theo năm tháng, con người dần dần có kinh nghiệm và có kiến thức hơn trong công việc tổ chức cuộc sống của mình. Những người thông minh đã bắt đầu biết cách tích trữ của cải, những người có quyền điều hành đã dựa vào quyền lực của mình để chiếm đoạt của công thành của riêng. Đây là quá trình xuất hiện và xác lập chế độ tư hữu. Sự phát triển lực lượng sản xuất đã làm cho xã hội chuyển từ hái lượm, trồng trọt sang kinh tế sản xuất với nghề chăn nuôi, săn bắn, năng suất lao động cao hơn trước. Trong nền sản xuất mới, đàn ông tỏ rõ ưu thế hơn đàn bà bởi vì tài sản chủ yếu của gia đình lúc này là do họ làm ra. Đây cũng là thời kỳ mà chế độ phụ quyền bắt đầu đặt những viên gạch đầu tiên cho sự thống trị của mình. Khi nói về quá trình chuyển đổi này, Ph.Ăngghen nhận xét: “Sự thay thế mẫu quyền bằng phụ quyền là một trong những cuộc cách mạng triệt để nhất mà loài người đã trải qua, cuộc cách mạng này đã đánh dấu sự thất bại có tính chất toàn thế giới của giới nữ” [34, tr.93]. Đàn ông từ địa vị thấp kém, phụ thuộc trở thành người có địa vị cao và nắm quyền cai quản. Còn đàn bà thì bị hạ cấp, bị nô dịch, biến thành nô lệ cho sự dâm đãng của đàn ông, thành một công cụ sinh đẻ đơn thuần. Ở đây, Ph.Ăngghen đã dùng thuật ngữ “cuộc cách mạng” mang tính chất ẩn dụ sâu sắc nói lên sự thống trị của đàn ông đối với đàn bà. Cuộc cách mạng này thật “nhẹ nhàng” và rất “dễ dàng” bởi vì hầu như nó không gặp phải một sự phản kháng mãnh liệt nào từ phía đối thủ, người phụ nữ đã bị đẩy xuống hàng “nô lệ” một cách rất tự nhiên. Sự kiện này đã khoác cho sự áp bức về giới một tấm áo hào nhoáng song vô cùng chắc chắn. Như vậy: sự tan rã của chế độ công hữu nguyên thủy và thay thế nó bởi chế độ tư hữu cũng kéo theo sự thay đổi của các hình thức gia đình vì chế độ gia đình hoàn toàn bị quan hệ sở hữu chi phối. Quyền chuyên chế của người đàn ông một khi được xác lập thì kết quả đầu tiên thể hiện ra trong hình thức gia đình gia trưởng, trong đó quyền lực hầu như tập trung tuyệt đối vào người đàn ông, địa vị người phụ nữ ngày càng thấp kém.
  18. Sang thế kỷ XX, tình trạng bất bình đẳng nam nữ vẫn tiếp tục diễn ra như đã từng xảy ra trong lịch sử, thậm chí còn có phần sâu sắc và tinh vi hơn. Bọn chủ tư bản ngày càng sử dụng nhiều thủ đoạn gian xảo để che đậy bản chất thống trị và bóc lột của nó. Năm 1920, nhân kỷ niệm ngày phụ nữ lao động quốc tế Lênin đã vạch trần: “sự bất bình đẳng nam nữ về mặt kinh tế - xã hội là một trong những điểm cơ bản của chủ nghĩa tư bản”. Từ việc xác định đúng nguồn gốc nảy sinh và phát triển của sự bất bình đẳng trong quan hệ nam nữ, chủ nghĩa Mác đã chỉ ra chính xác nguyên nhân của sự bất bình đẳng đó là sự áp bức của đàn ông đối với đàn bà về mặt kinh tế. Ph.Ăngghen đã viết: “tình trạng không bình quyền giữa đôi bên, do những quan hệ trước kia để lại cho chúng ta, tuyệt nhiên không phải là nguyên nhân, mà là kết quả của việc áp bức đàn bà về mặt kinh tế” [33, tr.115], và hơn thế nữa “sự thống trị của đàn ông trong hôn nhân chỉ đơn thuần là kết quả của sự thống trị của họ về mặt kinh tế, và sẽ tiêu vong cùng với sự thống trị về kinh tế” [33, tr.127]. Như vậy kết luận của chủ nghĩa Mác trong vấn đề này là khi cơ sở kinh tế của xã hội biến đổi thì tính chất của mối quan hệ nam nữ về mặt xã hội cũng biến đổi theo. Về nguyên nhân kinh tế - xã hội của sự bất bình đẳng nam nữ, Từ điển chủ nghĩa cộng sản khoa học 1986 có viết: Nguyên nhân kinh tế - xã hội là cơ sở của sự bất bình đẳng của người phụ nữ, rằng sự xuất hiện chế độ tư hữu dẫn đến sự phụ thuộc về mặt kinh tế của người phụ nữ vào người chồng, vào người cha, còn trong các giai cấp bị bóc lột thì nó đồng thời dẫn đến sự nô dịch người phụ nữ về mặt giai cấp. Người phụ nữ bị tước mất những quyền về kinh tế và chính trị, bị nô dịch về tinh thần thì cũng bị cô lập với xã hội, phạm vi hoạt động của họ bị giới hạn trong công việc nội trợ trong gia đình [58, tr.391]. Như vậy: cơ sở kinh tế như thế nào thì đặc điểm và tính chất của mối quan hệ nam nữ cũng như thế ấy. Trong nền kinh tế cộng sản nguyên thủy do đàn bà nắm giữ kinh tế nên đồng thời cũng nắm quyền cai quản xã hội và gia đình. Nhưng khi sự thống trị kinh tế của đàn bà bị mất và đàn ông nắm lấy quyền thống trị thì sự thống trị đó trở nên phổ biến không chỉ trong nền sản xuất vật chất của xã hội mà cả trong nền tái sản xuất của xã hội, tức trong hôn nhân và cả gia đình. - Nguồn gốc nhận thức, văn hóa - xã hội Không chỉ dừng lại ở nguyên nhân kinh tế - mặc dù đó là nguyên nhân quyết định nhất, chủ nghĩa Mác còn chỉ ra các nguyên nhân khác thuộc về nhận thức chính trị, văn hóa (đặc biệt là phong tục tập quán), tôn giáo đối với gia đình và sự bất bình đẳng giữa nam và nữ. Việc nhấn mạnh vai trò quyết định của cơ sở kinh tế không có nghĩa là xem
  19. nhẹ các yếu tố phi kinh tế mà chúng có sự tác động qua lại lẫn nhau làm tiền đề cho sự phát triển. Ph.Ăngghen đã nêu rõ quan điểm này như sau: Chúng tôi coi những điều kiện kinh tế là cái cuối cùng quyết định sự phát triển lịch sử - nhưng chủng tộc cũng là một nhân tố kinh tế… Sự phát triển về mặt chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn hóa, nghệ thuật là dựa trên sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả những sự phát triển đó đều tác động lẫn nhau và cũng tác động đến cơ sở kinh tế. Hoàn toàn không phải điều kiện kinh tế là nguyên nhân duy nhất chủ động, còn mọi thứ khác có tác dụng thụ động. Trái lại, có sự tác động qua lại trên cơ sở tính tất yếu kinh tế, là một tính tất yếu, xét đến cùng, bao giờ cũng tự vạch ra con đường đi của nó [32, tr.788]. Trình độ nhận thức, thói quen suy nghĩ và các phong tục tập quán phản ánh sự bất bình đẳng kinh tế giữa phụ nữ và nam giới đã ăn sâu bám chắc trong đầu óc con người thành tư tưởng “trọng nam khinh nữ”. Những phong tục tập quán lạc hậu, cổ hủ, đạo đức phong kiến “tam tòng, tứ đức” được khuyến khích duy trì để trói buộc, đày đọa người phụ nữ, chà đạp lên tình cảm và nhân phẩm của chị em… dần dần thành thói ứng xử thô bạo của người đàn ông đối với đàn bà. Đó cũng chính là nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc văn hóa xã hội của sự bất bình đẳng nam nữ. Tư tưởng này dần dần trở thành quy tắc, thành thông lệ, không cần có luật pháp bảo vệ, nó vẫn có tác động cưỡng chế, điều chỉnh hành vi ứng xử của người đàn ông đối với đàn bà. Ngay khi cơ sở kinh tế của sự bất bình đẳng nam nữ đã bị phá bỏ Ph.Ăngghen viết: Tính ràng buộc vĩnh viễn của hôn nhân, thì một phần là kết quả của các điều kiện kinh tế, trong đó chế độ một vợ một chồng phát sinh, và phần nữa là một truyền thống của thời kỳ trong đó mối liên hệ giữa những điều kiện kinh tế ấy với chế độ một vợ một chồng còn chưa được người ta hiểu một cách đúng đắn và đã bị tôn giáo thổi phòng lên [33, tr.127]. Không chỉ bị “tôn giáo thổi phòng lên” mà cả tư tưởng và luật pháp của giai cấp tư sản cũng ra sức bảo vệ cho sự bất bình đẳng nam nữ. Học thuyết Mác - Lênin chỉ rõ: cùng với nguồn gốc kinh tế, sự thống trị của người đàn ông đối với đàn bà còn bắt nguồn từ trong nhận thức, niềm tin và thói quen, phong tục tập quán đã được hình thành từ rất lâu trong lịch sử xã hội loài người. Sự quan tâm, lo lắng về đời sống của bản thân người phụ nữ cũng là yếu tố bắt buộc họ phải chấp nhận và cam chịu sự thống trị của người đàn ông, một khi đời sống kinh tế của họ còn chưa được điều chỉnh thì tất yếu còn bất bình đẳng. Như vậy theo nhận thức chung của mọi người, nguồn gốc của bất bình đẳng không chỉ là kết quả của các tác nhân kinh tế mà còn là sản phẩm của các tác nhân xã hội khác như phong tục tập quán, truyền thống, thói quen cùng với tư tưởng trọng nam khinh nữ và
  20. tàn dư của xã hội cũ để lại. Điều này được thể hiện rõ thông qua địa vị của phụ nữ thời kỳ chế độ phong kiến - thời kỳ để lại những dấu ấn đậm nét của hệ tư tưởng Nho giáo. Nho giáo ra đời ở Trung Quốc vào thế kỷ VI - V trước Công Nguyên và được truyền bá vào Việt Nam những năm đầu Công Nguyên. Nho giáo có những ưu điểm nhất định, góp phần quan trọng vào việc tổ chức cuộc sống xã hội có nề nếp, kỷ cương. Trong giáo dục con người, Nho giáo hướng vào lòng yêu thương đồng loại, khuyến khích sự say mê trong học tập, tinh thần phấn đấu vươn lên... Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, Nho giáo cũng bộc lộ những hạn chế tiêu cực, ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống xã hội ở Việt Nam. Một trong những hạn chế cơ bản của Nho giáo là tư tưởng trọng nam khinh nữ, đề cao phụ quyền, đề cao gia trưởng, đề cao người đàn ông trong gia đình và ngoài xã hội. Giai cấp phong kiến Việt Nam đã sử dụng các phương tiện khác để biến hệ tư tưởng Nho giáo thành ý thức và hành vi của mọi người, để duy trì quyền lực đối với phụ nữ. Trong phạm vi quan hệ giới, tinh thần Nho giáo thể hiện tập trung ở niềm tin là phụ nữ thấp kém hơn so với nam giới, thể hiện ở yêu cầu đối với phụ nữ là "tam tòng, tứ đức". Tinh thần này được thể hiện điển hình trong gia đình gia trưởng, phụ nữ không có vị trí chính thống nào trong xã hội, làng xóm và họ hàng, họ cũng không có tiếng nói trong gia đình mặc dù là người lao động chính. Vì thế, hầu hết các tác giả Việt Nam và nước ngoài đều đề cập đến vai trò của Nho giáo một khi họ bàn đến chủ đề địa vị của phụ nữ Việt Nam, bởi vì sự thực hành Nho giáo được coi như là cốt lõi của sự áp bức phụ nữ ở Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng. Dưới chế độ phong kiến, quyền hành quốc gia tập trung vào tay vua. Trong gia đình thì tập trung vào người đàn ông gia trưởng. Người phụ nữ được coi là tài sản của chồng, vì vậy luật nhà Trần cho phép: đàn ông nếu có vợ ngoại tình được coi vợ như nô tỳ và được phép cầm bán. Phép nhà Hồ quy định, nếu binh sĩ ra trận mà nhút nhát thì vợ, con, điền sản phải xung công. Triều đình phong kiến nhà Lý còn có tục bắt cung nữ chết theo vua hoặc hoàng hậu bằng cách đưa họ lên hỏa thiêu... Hôn nhân dưới chế độ phong kiến không dựa trên tình yêu mà dựa trên quyền lợi của dòng họ, tất cả vì mục đích chính trị. Người phụ nữ trở thành vật đánh đổi, hy sinh cho những mưu đồ của thế lực cầm quyền. Theo bà Lê Thị Nhâm Tuyết thì các thứ bậc cao trong xã hội đều giành cho hoàng gia, hoàng tộc, quân đội của triều đình và một tầng lớp trí thức gồm toàn đàn ông, những người chỉ có nhiệm vụ học hành để ra làm quan. Giai cấp thống trị đã sử dụng các phương tiện khác nhau để biến hệ tư tưởng Nho giáo thành công cụ duy trì quyền lực đối với phụ nữ. Một mạng lưới tinh vi và phức tạp của các lý thuyết Nho giáo đã trói buộc nhiều thế hệ phụ nữ Việt Nam. Với quan niệm "đàn bà là giống khó dạy" nên cần phải được giáo huấn, tuyên truyền để nhồi sọ những lý lẽ, tín điều của chế độ tôn pháp và lễ giáo
nguon tai.lieu . vn