Xem mẫu
-
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc lựa chọn đề tài
Đất nước ta sau 15 năm đổi mới đã thu được những thành tựu to lớn và
rất quan trọng, đang tiến bước vào thời kỳ Công nghiệp hoá Hiện đại hoá đất
nước Cùng với xu thế hội nhập của nền kinh tế thế giới hiện nay, nước ta đã và
đang tích cực chủ động tham gia hiệu quả vào các tổ chức khu vực và thế giới
như: ASEAN, AFTA, APEC và đặc biệt là thành viên chính thức của Tổ chức
thương mại thế giới (WTO). Ngày 7/11/2006 là bước ngoặt đánh dấu bước phát
triển mới của Việt Nam, có ý nghĩa quan trọng trong việc thiết lập môi trường
buôn bán, quan hệ hợp tác kinh tế với toàn thế giới.
Xăng dầu là mặt hàng chiến lược có vai trò chi phối với tất cả các ngành trong
nền kinh tế và đời sống xã hội dân cư và là mặt hàng nhập khẩu gần như hoàn
toàn nên phụ thuộc rất lớn về cung và giá cả vào thị trường thế giới. Từ đầu năm
2004 đến nay, giá xăng dầu trên thị trường thế giới liên tục biến động tăng và ở
mức cao ảnh hưởng rất lớn đến giá cả trong nước cũng như chính sách kiềm chế
và ổn định lạm phát của Chính phủ. Công ty xăng dầu Quân đội là một trong
mười một đơn vị được phép nhập khẩu xăng dầu của cả nước, trải qua các năm
hoạt động Công ty cũng đã không ngừng cố gắng trong việc tìm hướng khai khác,
tìm hiểu thị trường nâng cao hiệu quả nhập khẩu và quy mô kinh doanh để hoàn
thành nhiệm vụ nhập khẩu xăng dầu do Bộ Thương mại cấp Quota và đáp ứng
nhu cầu xăng dầu phục vụ quốc phòng và kinh tế.
Tuy nhiên do những biến động khách quan của thị trường thế giới cũng như
những nhân tố chủ quan của Công ty như khả năng tích luỹ tài chính còn hạn
chế, đối tác kinh doanh cũng chưa đa dạng và còn chịu sự chi phối của chính sách
nhập khẩu của Nhà nước nên Công ty gặp nhiều khó khăn trong quá trình nhập
khẩu, xây dựng chiến lược kinh doanh để phát triển quy mô kinh doanh.
Nhằm tháo gỡ những khó khăn và nâng cao hơn nữa hoạt động kinh doanh nhập
khẩu của Công ty xăng dầu Quân đôi, đòi hỏi cần phải có những giải pháp thích
-
hợp. Vì lý do đó, đề tài luận văn: “Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
kinh doanh nhập khẩu xăng dầu của Công ty xăng dầu Quân đội” đã được
lựa chọn và nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích và đánh giá thực trạng công tác nhập khẩu của Công ty
xăng dầu Quân đội, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động kinh doanh nhập khẩu xăng dầu của Công ty.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu hoạt động kinh doanh nhập khẩu xăng
dầu của Công ty xăng dầu Quân đội.
Phạm vi nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu hoạt động kinh doanh nhập
khẩu xăng dầu của Công ty xăng dầu Quân đội từ giai đoạn 2002 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích và so sánh. Các số liệu phục vụ quá
trình nghiên cứu lấy từ sách báo, tạp chí có liên quan tới chuyên đề.
5. Nội dung nghiên cứu
Ngoài lời mở đầu, kết luận, mục lục luận văn được kết cấu thành 3 chương
Chương1: Lý luận cơ bản về hoạt động kinh doanh nhập khẩu và sự cần thiết
phải nâng cao hiệu quả nhập khẩu xăng dầu của Công ty xăng dầu Quân đội
Chương2: Thực trạng hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty xăng dầu
Quân đội
Chương3: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh
doanh nhập khẩu xăng dầu của Công ty xăng dầu Quân đội
-
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH NHẬP KHẨU VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO
HIỆU QUẢ NHẬP KHẨU XĂNG DẦU CỦA CÔNG TY XĂNG DẦU QUÂN
ĐỘI
1.1 Một số vấn đề cơ bản về hoạt động kinh doanh nhập khẩu và sự cần
thiết phải nâng cao hiệu quả nhập khẩu xăng dầu
1.1.1 Khái niệm, mục tiêu và vai trò của hoạt động nhập khẩu
1.1.1.1 Khái niệm nhập khẩu
Nhập khẩu hàng hoá là một nghiệp vụ quan trọng trong hoạt động kinh doanh
thương mại quốc tế. Đó là việc mua bán hàng hoá từ các tổ chức kinh tế, các
công ty nước ngoài và tiến hành tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu tại thị trường nội
địa hoặc tái xuất khẩu với mục đích thu lợi nhuận, nối liền quá trình sản xuất
với tiêu dùng.
1.1.1.2 Mục tiêu của hoạt động nhập khẩu
Khác với các hoạt động mua bán trong nước, nhập khẩu là hoạt động kinh doanh
buôn bán trên phạm vi quốc tế, được thực hiện giữa các chủ thể kinh tế ở các
quốc gia khác nhau, nó là cả một hệ thống các quan hệ mua bán trong một nền
thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài.
Mục tiêu của hoạt động nhập khẩu là việc sử dụng có hiệu quả khối lượng
ngoại tệ tiết kiệm được để nhập khẩu các nguồn vật tư, hàng hoá phục vụ cho
quá trình tái sản xuất mở rộng và nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, đồng thời đảm
bảo cho sự phát triển đồng bộ, nâng cao năng suất lao động, bảo vệ các ngành
sản xuất trong nước, giải quyết sự khan hiếm của thị trường nội địa. Bên cạnh
đó, thông qua công tác nhập khẩu để đảm bảo cho sự phát triển ổn định của các
ngành kinh tế mũi nhọn mà khả năng trong nước chưa cung cấp đủ nguyên liệu
cho chúng, tạo ra những nguồn lực mới cho sản xuất, khai thác triệt để lợi thế so
-
sánh của quốc gia mình nhằm kết hợp hài hoà giữa nhập khẩu và cán cân thanh
toán.
1.1.1.3 Vai trò của hoạt động nhập khẩu đối với nền kinh tế quốc dân
Nhập khẩu là một bộ phận không thể tách rời của thương mại quốc tế, nó tác
động trực tiếp đến sản xuất và đời sống của mỗi quốc gia. Nhập khẩu thể hiện
mối quan hệ kinh tế, mức độ phụ thuộc gắn bó lẫn nhau giữa nền kinh tế nước
ta với nền kinh tế các nước trên thế giới. Nó tác động tích cực đến sự phát triển
cân đối và khai thác tiềm năng, thế mạnh của nền kinh tế mỗi quốc gia về sức
lao động, vốn, tài nguyên, khoa học kỹ thuật…
Với xu thế của nền kinh tế thế giới hiện nay, Việt Nam cũng như các quốc gia
khác đang không ngừng mở rộng quan hệ buôn bán quốc tế, sự phụ thuộc lẫn
nhau trong quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng lớn mạnh cùng với việc hình thành
trung tâm thương mại, khối mậu dịch tự do đã chứng tỏ việc lưu chuyển hàng
hoá giữa các quốc gia không ngừng được cải thiện và nâng cao. Khi đó vai trò
của hoạt động nhập khẩu có ý nghĩa rất lớn đối với việc ổn định và phát triển
kinh tế quốc gia nói riêng và phát triển nền kinh tế thế giới nói chung.
Thứ nhất, nhập khẩu là cơ sở để bổ sung hàng hoá trong nước không sản xuất
được hoặc sản xuất được nhưng không đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong
nước, ngoài ra nhập khẩu còn làm đa dạng hoá hàng hoá như chủng loại, chất
lượng cho phép thoả mãn nhu cầu trong nước. Nhập khẩu tăng cường sự chuyển
giao công nghệ, tạo sự cạnh tranh vượt bậc của nền sản xuất xã hội, tiết kiệm
được chi phí và thời gian hạ giá thành sản phẩm; đồng thời nhập khẩu tạo ra sự
cạnh tranh giữa hàng nội và hàng nhập ngoại, tức là tạo ra động lực buộc các nhà
sản xuất trong nước không ngừng cải tiến và thúc đẩy sản xuất trong nước phát
triển, hạ
Thứ hai, nhập khẩu tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất,
chuyển dịch cơ cấu theo từng bước Công nghiệp hoá Hiện đại hoá đất nước.
Thông qua hoạt động nhập khẩu mà các doanh nghiệp hay cơ sở sản xuất có thể
học hỏi kinh nghiệm sản xuất từ phía đối tác để từ đó đầu tư mua sắm trang
thiết bị dây chuyền công nghệ nhằm sản xuất các mặt hàng nhập khẩu ngay tại
-
trong nước. Việc đầu tư này giúp doanh nghiệp giảm giá thành sản phẩm hơn so
với hàng nhập. Người tiêu dùng thì có lợi vì mua sản phẩm được với giá rẻ hơn
mà chất lượng thì tương đương hàng ngoại, còn nhà sản xuất thì giảm được chi
phí, có thể dung phần vốn đó để tái sản xuất hay đầu tư vào lĩnh vực khác mà
cũng mang lại lợi nhuận.
Thứ ba, nhập khẩu góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân.
Nhập khẩu vừa thoả mãn nhu cầu trực tiếp của nhân dân về mặt hàng tiêu dùng,
vừa đảm bảo đầu vào cho sản xuất, tạo việc làm ổn định cho người lao động.
Hoạt động nhập khẩu giúp người dân có thể tiếp cận với những nền kinh tế cao
hơn thông qua các sản phẩm mà trong nước chưa sản xuất được. Quá trình nhập
khẩu cũng qua nhiều khâu, vì vậy tạo điều kiện cho nhiều người tham gia và
chuyên môn cũng khác nhau.
Thứ tư, nhập khẩu có vai trò tích cực thúc đẩy sản xuất, thể hiện ở chỗ nhập
khẩu tạo điều kiện phát triển đầu vào cho hàng xuất khẩu, tạo môi trường thuận
lợi cho việc xuất khẩu hàng hoá Việt Nam ra nước ngoài. Ở Việt Nam hiên nay,
hàng xuất khẩu chủ yếu là các mặt hàng có công nghệ thấp như lương thực, giày
da, may mặc…Các mặt hàng này mang lại lợi nhuận không cao, lãi nhiều thì đầu
vào của chúng ta còn thiếu. Chính vì thế thông qua hoạt động nhập khẩu chúng ta
có thể nhập vào những nguyên vật liệu và từ đó sản xuất ra thành phẩm ngay tại
trong nước. Bên cạnh đó, nhờ thực hiện các giao dịch trong quá trình nhập khẩu
mà có thể hình thành các mối quan hệ đa chiều với các đối tác ở nhiều nước trên
thế giới.
Thứ năm, thông qua việc phát triển kinh doanh nhập khẩu, chúng ta mới có điều
kiện mở mang dân trí, tiếp thu tiến bộ khoa học kỹ thuật mới để đầu tư vào sản
xuất và phục vụ đời sống. Trên cơ sở phân công lao động quốc tế, hợp tác và liên
kết quốc tế để đẩy mạnh kết hợp giữa công nghiệp với cuộc sống văn minh của
nhân loại, tạo điều kiện khai thác có hiệu quả tiềm năng và thế mạnh của đất
nước.
Nhờ có hoạt động nhập khẩu mà các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham
gia cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Khi tham gia cạnh tranh bắt buộc các
-
doanh nghiệp phải hình thành một chiến lược sản xuất kinh doanh phù hợp với
thị trường, đồng thời hoàn thiện tốt công tác quản lý phù hợp với xu thế chung
nhằm tạo ra nhiều cơ hội mới thông qua quan hệ với các đối tác nước ngoài trên
cơ sở lợi ích của cả hai bên.
Phát huy được vai trò của hoạt động nhập khẩu là một vấn đề không đơn giản,
nó đòi hỏi các doanh nghiệp phải có sự lựa chọn đúng đắn để xác định rõ các
nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu, có như thế mới khai thác được
các lợi thế so sánh và đạt hiệu quả cao nhất.
1.1.2 Các hình thức nhập khẩu
1.1.2.1 Nhập khẩu uỷ thác
Nhập khẩu uỷ thác là việc doanh nghiệp này uỷ thác cho doanh nghiệp khác
đứng ra giao dịch trực tiếp với đối tượng nước ngoài để làm thủ tục nhập khẩu
và nhận được một khoản phí hoa hồng gọi là khoản phí uỷ thác. Hình thức này
được sử dụng khi một bên thì có vốn, còn một bên thì có kinh nghiệm.
Hình thức này có ưu điểm là doanh nghiệp uỷ thác chỉ cần bỏ thêm một khoản
tiền để trả cho người được uỷ thác mà không phải tham gia vào bất kỳ một quá
trình nào của hoạt động nhập khẩu. Đồng thời tránh được các rủi ro do chính
bản thân mình gây ra khi thực hiện hoạt động nhập khẩu này. Những tổn hại do
bên được uỷ thác phải chịu trách nhiệm.
Tuy nhiên nhược điểm của nó là bên uỷ thác sẽ phải mất một số tiền nhất định
mà nếu tự làm thì họ sẽ giảm được chi phí nhập khẩu và việc lựa chọn được
bên nhận uỷ thác thực sự có đủ năng lực thay họ làm công việc nhập khẩu cũng
gặp nhiều khó khăn.
1.1.2.2 Nhập khẩu tự doanh
Đây là hoạt động nhập khẩu trực tiếp của một đơn vị kinh tế được phép nhập
khẩu độc lập. Khi doanh nghiệp tự cảm thấy có thể nhập khẩu độc lập mặt
hàng nào đó thì sẽ sử dụng hình thức này sẽ thu được mọi khoản lợi nhuận
nhưng cũng phải chịu mọi tổn thất do hoạt động này gây nên.
-
Hình thức nhập khẩu này đòi hỏi doanh nghiệp cần xem xét kỹ lưỡng từng bước,
từ nghiên cứu thị trường, đầu vào, đầu ra cho đến ký kết và thực hiện hợp
đồng… để tránh gây tổn thất.
1.1.2.3 Nhập khẩu hàng đổi hàng
Đây là hình thức nhập khẩu được áp dụng đối với các nước có mối quan hệ thân
quen, mang tính hỗ trợ nhau. Nó là hình thức nhập khẩu gắn liền với xuất khẩu,
thanh toán trong trường hợp này không dùng đến tiền mà sử dụng khối lượng
hàng hoá có giá trị tương đương để trao đổi.
Đặc điểm của hình thức nhập khẩu hàng đổi hàng:
Thứ nhất, hoạt động nhập khẩu này mang lại lợi ích lớn hơn cho các bên liên
quan bởi cùng một hợp đồng mà có thể tiến hành cùng một lúc cả hoạt động
xuất và nhập, do đó có thể thu lãi từ cả hai hoạt động này.
Thứ hai, hàng hoá xuất và nhập tương đương nhau về giá trị.
Thứ ba, bạn hàng trong hoạt động xuất khẩu cũng là bạn hàng trong hoạt động
nhập khẩu.
Nhược điểm của hình thức nhập khẩu hàng đổi hàng là nghiệp vụ rất phức tạp
vì xuất khẩu kết hợp với nhập khẩu, người mua đồng thời là người bán nên khó
tách bạch được quyền lợi và nghĩa vụ nếu xảy ra sai sót.
1.1.2.4 Nhập khẩu liên doanh
Đây là hoạt động nhập khẩu hàng hoá dựa trên cơ sở thảo thuận liên kết giữa
các doanh nghiệp nhằm phối hợp cùng nhau tiến hành giao dịch và đưa ra
phương hướng tối ưu để thúc đẩy hoạt động này theo hướng có lợi nhất cho cả
hai bên, do đó cả hai sẽ cùng hưởng lợi nhuận và cùng chịu rủi ro. Nhập khẩu
liên doanh thường được tiến hành khi cả hai bên cùng góp vốn.
Ưu điểm của hình thức nhập khẩu liên doanh là so với nhập khẩu tự doanh, các
doanh nghiệp chịu ít rủi ro hơn bởi mỗi doanh nghiệp tham gia nhập khẩu liên
doanh chỉ phải góp một phần vốn nhất định, quyền hạn và trách nhiệm của mỗi
bên cũng phân bổ theo số vốn góp.
-
Nhược điểm của hình thức nhập khẩu này là lợi nhuận bị chia sẻ, doanh nghiệp
đứng ra nhập khẩu hàng được tính kim ngạch nhập khẩu, nhưng khi đưa hàng về
tiêu thụ chỉ được tính doanh số trên số hàng tính theo tỷ lệ vốn góp và chịu thuế
doanh thu trên doanh số đó.
1.1.2.5 Nhập khẩu tái xuất
Đây là hoạt động nhập khẩu hàng hoá vào trong nước nhưng không tiêu dùng nội
địa mà để xuất khẩu sang nước thứ ba. Loại hàng nhập này không qua chế biến
ở nước tái sản xuất. Chính vì thế mà doanh nghiệp tham gia nhập khẩu theo hình
thức này sẽ không phải mất thuế nhập khẩu, họ sẽ được hoàn thuế sau khi kết
thúc hoạt động.
Nhập khẩu tái xuất có những đặc điểm riêng, khác với các hình thức nhập khẩu
khác đó là:
Thứ nhất, doanh nghiệp nhập khẩu ở nước tái xuất phải tính toán chi phí, ghép
mỗi bạn hàng xuất và bạn hàng nhập, bảo đảm sao cho có thể thu được số tiền
lớn hơn tổng chi phí bỏ ra để tiến hành hoạt động này.
Thứ hai, doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp được tính cả kim ngạch xuất
nhập khẩu, doanh số tính trên giá trị hàng xuất khẩu đó vẫn phải chịu thuế doanh
thu.
Thứ ba, doanh nghiệp nước tái xuất phải lập hai bản hợp đồng, một hợp đồng
xuất khẩu và một hợp đồng nhập khẩu và không phải chịu thuế xuất nhập khẩu
về các hình thức kinh doanh.
Thứ tư, để bảo đảm thanh toán, hợp đồng tái xuất thường dùng thư tín dụng giáp
lưng (Back to Back L/C).
1.1.3 Nội dung của hoạt động nhập khẩu
Giao dịch mua bán hàng hoá, dịch vụ ngoại thương được thực hiện trên phạm vi
quốc tế, do đó nội dung của hoạt động kinh doanh nhập khẩu phức tạp hơn so
với việc mua bán trao đổi hàng hoá, dịch vụ trong nước. Các nghiệp vụ chính của
hoạt động nhập khẩu bao gồm:
-
1.1.3.1 Nghiên cứu thị trường nhập khẩu
Đối với các đơn vị kinh doanh quốc tế, việc nghiên cứu thị trường nước ngoài có
ý nghĩa hết sức quan trọng, giúp cho công tác nhập khẩu có đầy đủ thông tin cần
thiết để từ đó đưa ra những quyết định chính xác về thị trường nhập khẩu.
Những nội dung cần nắm vững về thị trường nước ngoài gồm: Tình hình kinh tế
chính trị, luật pháp và chính sách thương mại quốc tế, tỷ giá hối đoái, điều kiện
vận tải và tình hình giá cước... Đây là những nét khái quát cơ bản để đánh giá
tình hình kinh tế xã hội của nước đối tác. Bên cạnh những điểm này, đơn vị
kinh doanh xuất nhập khẩu phải thực hiện các bước sau:
Nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu
Nghiên cứu dung lượng thị trường và các yếu tố ảnh hưởng
Nghiên cứu giá cả hàng hoá và sự biến động của giá cả trên thị
trường thế giới
Lựa chọn bạn hàng
Lựa chọn mặt hàng nhập khẩu
1.1.3.2. Lựa chọn phương thức giao dịch
a. Giao dịch thông thường
Giao dịch thông thường là một trong những phương thức buôn bán phổ biến nhất,
thường thấy nhất, nó có thể diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc trên cơ sở tự nguyện của
các bên.
Giao dịch thông thường có thể là giao dịch trực tiếp giữa bên mua với bên bán,
cũng có thể là giao dịch thông qua thương nhân trung gian.
a1. Giao dịch thông thường trực tiếp
Bên mua và bên bán trực tiếp giao dịch với nhau, việc mua và việc bán không
ràng buộc nhau. Bên mua có thể chỉ mua mà không bán, bên bán có thể chỉ bán mà
không mua.
Các bước tiến hành giao dịch gồm:
-
Hỏi giá: Đây là việc người mua đề nghị người bán báo cho mình biết giá cả và
các điều kiện để mua hàng. Nội dung của một hỏi giá gồm: tên hàng, quy cách,
phẩm chất, số lượng, thời gian giao hàng, giá cả, loại tiền, thể thức thanh toán,
điều kiện cơ sở giao hàng...
Chào hàng: Là đề nghị của một bên về các điều kiện của hợp đồng. Có 2 loại
chào hàng: chào hàng cố định (là việc chào bán một lô hàng nhất định cho một
người mua, có nêu rõ thời gian mà người chào hàng bị ràng buộc trách nhiệm vào
lời đề nghị của mình); chào hàng cố định (là loại chào hàng không ràng buộc
trách nhiệm người phát ra nó).
Đặt hàng: Là lời đề nghị ký kết hợp đồng xuất phát từ phía người mua được
đưa ra dưới hình thức đặt hàng.
Hoàn giá: Là mặc cả về giá cả hoặc về các điều kiện giao dịch.
Chấp nhận: Là sự đồng ý hoàn toàn tất cả mọi điều kiện của chào hàng (hoặc
đặt hàng) mà phía bên kia đưa ra. Khi đó hợp đồng được giao kết.
Xác nhận: Hai bên mua và bán, sau khi đã thống nhất thoả thuận với nhau về
điều kiện giao dịch, xác nhận lại các điều kiện giao dịch gửi cho bên đối tác.
a2. Giao dịch qua trung gian
Giao dịch qua trung gian là việc người mua hoặc người bán quy định những điều
kiện trong giao dịch mua bán về hàng hoá, giá cả, điều kiện giao dịch, phương
thức thanh toán…phải qua một người thứ ba để đàm phán và đi đến ký kết hợp
đồng người trung gian buôn bán.
Người trung gian buôn bán phổ biến trên thị trường là đại lý và môi giới.
b. Buôn bán đối lưu:
Buôn bán đối lưu là phương thức giao dịch trao đổi hàng hoá, trong đó xuất khẩu
kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng
giao đi có giá trị tương xứng với lượng hàng nhận về.
Có 7 hình thức buôn bán đối lưu cơ bản:
-
Hàng đổi hàng: Là hình thức mua bán đối lưu mà các bên trao đổi hàng hoá với
nhau, hàng hoá giao đi và hàng hoá nhận về có số lượng và giá trị tương đương,
hoạt động trao đổi diễn ra đồng thời và không sử dụng tiền tệ làm phương tiện
thanh toán.
Mua bán bù trừ: Là phương thức mua bán đối lưu mà các bên trao đổi hàng hoá
với nhau, một bên giao hàng với giá trị hàng hoá và nhận về tương đương với
lượng hàng giao xong, có sử dụng tiền tệ làm phương tiện thanh toán bù trừ.
Mua đối lưu: Là phương thức mua bán đối lưu mà một bên giao hàng đi với cam
kết sẽ mua lại một mặt hàng nào đó đã xác định trong tương lai.
Mua bồi hoàn: Là phương thức mua bán đối lưu mà một bên giao hàng đi với
cam kết mua một loại hàng nào đó không xác định trong tương lai nhằm bồi hoàn
toàn bộ giá trị ngoại tệ cho bên kia.
Chuyển nợ: Là hình thức mua bán đối lưu mà một bên chuyển cho bên thứ ba
cam kết thực hiện nhiệm vụ và trách nhiệm của mình đối với bên kia trong quan
hệ trao đổi hàng với hàng.
Mua bán bình hành: Là một phương thức mua bán đối lưu mà người tham gia
lựa chọn một trung gian đại diện cho mình theo dõi và quyết toán sau những kỳ
kinh doanh nhất định để thanh toán theo hình thức bình hành.
Hình thức mua bán: Là hình thức mua bán đối lưu mà một bên giao cho
bên kia dây chuyền máy móc thiết bị nhằm nhận về thành phẩm được sản xuất
ra từ chính dây chuyền, thiết bị đó bù trừ cho giá trị dây chuyền sản xuất thiết bị.
c.Đấu giá quốc tế
Đấu giá quốc tế là một phương thức giao dịch kinh doanh được tổ chức ở một
nơi công khai nhất định mà những người mua được tự do xem hàng trước, cạnh
tranh trả giá và hàng hoá được trao cho người trả giá cao nhất.
Đấu giá quốc tế có thể chia thành hai loại chính:
Loại hình trả giá lên: Là hình thức bán đấu giá theo đó người trả giá cao nhất so
với giá khởi điểm là người có quyền mua hàng.
-
Loại hình đặt giá xuống: Là hình thức đấu giá theo đó người đầu tiên chấp
nhận ngay mức giá khởi điểm hoặc mức giá được hạ thấp.
d. Đấu thầu hàng hoá quốc tế
Đây là một phương thức hoạt động thương mại, theo đó một bên mua hàng hoá
thông qua mời thầu (gọi là bên mời thầu) nhằm lựa chọn trong số các thương
nhân tham gia đấu thầu (gọi là bên dự thầu) thương nhân đáp ứng tốt nhất các
yêu cầu do bên mời thầu đặt ra và được lựa chọn để ký kết và thực hiên hợp
đồng.
Đấu thầu hàng hoá gồm hai loại chính:
Đấu thầu rộng rãi là hình thức đấu thầu mà bên mời thầu không hạn
chế số lượng các bên dự thầu.
Đấu thầu hạn chế là hình thức đấu thầu mà bên mời thầu chỉ mưòi
một số nhà thầu nhất định tham dự thầu.
e. Giao dịch tại hội chợ, triển lãm
Giao dịch tại hội chợ là một phương thức giao dịch kinh doanh tại những nơi, địa
điểm và thời gian nhất định được tổ chức định kỳ nhằm mục đích mua bán hàng
hoá.
Giao dịch tại triển lãm cũng là một phương thức giao dịch kinh doanh diễn ra tại
những nơi, địa điểm và thời gian nhất định với mục đích giới thiệu về thành tựu
của một nền kinh tế hay các lĩnh vực.
Ngoài ra còn có giao dịch tại sở giao dịch, thương mại điện tử. Tuỳ thuộc vào
tình hình, điều kiện cụ thể mà doanh nghiệp quyết định lựa chọn phương thức
giao dịch mua bán cho thích hợp.
1.1.3.3 Đàm phán, ký kết hợp đồng
Đàm phán trong kinh doanh xuất nhập khẩu là việc hai bên mua và bán tiến hành
trao đổi, thoả thuận với nhau về các điều kiện giao dịch (điều kiện mua bán,
điều kiện hợp tác kinh doanh…) mà mỗi bên có thể chấp nhận được. Đàm phán
-
có vai trò quan trọng trong kinh doanh xuất nhập khẩu, nó là cơ sở để ký kết hợp
đồng và nó ảnh hưởng đến lợi ích của các bên tham gia.
a. Các hình thức đàm phán
Đàm phán qua thư tín: Hai bên tiến hành giao dịch qua thư từ, điện tín.
Đàm phán qua điện thoại: Là phương thức đàm phán nhanh nhất giúp
hai bên nhanh chóng nắm bắt thời cơ cần thiết nhưng phí tổn điện thoại giữa các
nước rất cao, bị hạn chế về mặt thời gian và trao đổi qua điện thoại là trao đổi
bằng miệng không có gì là bằng chứng cho cuộc thoả thuận.
Đàm phán gặp mặt trực tiếp: Là hình thức đàm phán tối ưu giúp đẩy
nhanh quá trình giải quyết mọi quan hệ trong giao dịch. Hai bên tiến hành gặp gỡ
trực tiếp, trao đổi, bàn bạc, thống nhất và ký kết hợp đồng.
b. Trình tự đàm phán
Trình tự đàm phán bao gồm các bước: hỏi giá, phát giá, đặt hàng, hoàn giá,
chấp nhận, xác nhận.
c. Ký kết hợp đồng
Hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu là sự thoả thuận bằng văn bản, tài liệu
giao dịch giữa hai bên có quốc tịch khác nhau, theo đó một bên được gọi là người
bán (người xuất khẩu) có nghĩa vụ phải chuyển vào quyền sở hữu của bên kia
(người nhập khẩu) một lượng tài sản nhất định được gọi là hàng hoá. Còn bên
kia được gọi là người mua có nghĩa vụ nhận hàng và thanh toán tiền hàng đầy đủ
cho bên bán.
Nội dung của hợp đồng nhập khẩu:
Số hợp đồng, ký hiệu (nếu có)
Ngày, tháng, năm, nơi ký hợp đồng
Những căn cứ để ký kết
Những thông tin liên quan đến các bên: tên, địa chỉ, số điện thoại, số tài khoản,
người đại diện (nếu có) của các bên
-
Những điều khoản của hợp đồng: điều kiện tên hàng, phẩm chất, điều khoản
về số lượng hay trọng lượng, điều khoản về giá cả, điều khoản giao hàng, điều
khoản thanh toán.
Ngoài ra còn có các điều khoản khác như: điều kiện vận tải, bảo hiểm, bất khả
kháng, khiếu nại, trọng tài.
Phần kết thúc nêu rõ số bản hợp đồng, ngôn ngữ sử dụng để ký kết hợp đồng,
giá trị pháp lý của bản hợp đồng, thời hạn có hiệu lực của hợp đồng.
Chữ ký và dấu của các bên tham gia hợp đồng.
d. Tổ chức thực hiện hợp đồng
Để thực hiện một hợp đồng nhập khẩu đơn vị kinh doanh phải thực hiện các
công việc sau:
Xin giấy phép nhập khẩu.
Thực hiện những công việc bước đầu của khâu thanh toán.
+ Nếu hợp đồng quy định thanh toán bằng L/C thì cần thực hiện các công việc
sau: làm đơn xin mở L/C, thực thi ký quỹ và mở L/C.
+ Nếu thanh toán bằng CAD thì nhà nhập khẩu cần tới Ngân hàng yêu cầu mở tài
khoản ký thác để thanh toán tiền cho nhà xuất khẩu.
+ Nếu thanh toán bằng TT trả trước thì nhà nhập khẩu cần
làm thủ tục chuyển tiền theo đúng quy định của hợp đồng.
+ Nếu thanh toán bằng nhờ thu hoặc chuyển tiền trả sau thì
nhà nhập khẩu chờ người bán giao hàng rồi mới tiến hành công việc của khâu
thanh toán.
Thuê phương tiện vận tải: Nếu trong hợp đồng mua bán quy định hàng được
giao ở nước người xuất khẩu, phương tiện vận tải do người mua lo (điều kiện
giao hàng EXW, FAS, FCA, CFR, FOB) thì người mua sẽ thuê phương tiện vận
tải.
-
Mua bảo hiểm: Khi mua hàng theo các điều kiện EXW, FCA,FAS, CFR, CPT
nhà nhập khẩu cần phải mua bảo hiểm cho hàng hoá. Nhà nhập khẩu cần làm
những công việc sau:
+ Chọn điều kiện thích hợp để mua bảo hiểm: Nhà nhập
khẩu cần căn cứ vào đặc tính của hàng hoá, cách đóng gói, phương tiện vận
chuyển…để chọn điều kiện bảo hiểm thích hợp, đảm bảo an toàn cho hàng hoá
và đạt hiệu quả kinh tế cao.
+ Làm giấy yêu cầu bảo hiểm.
+ Đóng phí bảo hiểm và lấy chứng thư bảo hiểm.
Làm thủ tục hải quan.
+ Khai báo và nộp tờ khai hải quan, nộp hoặc xuất trình giấy phép và các giấy
tờ cần thiết khác theo quy định của pháp luật.
+ Đưa đối tượng kiểm tra hải quan đến điểm quy định để kiểm tra.
+ Làm nghĩa vụ nộp thuế xuất khẩu, nhập khẩu và các nghĩa vụ khác theo quy
định của pháp luật và nộp lệ phí hải quan.
Kiểm tra hàng hoá
Sau khi nhận hàng bên nhập khẩu sẽ làm thủ tục kiểm tra hàng hoá.
Theo Nghị định 200/CP và thông tư liên bộ Giao thông vận tảingoại thương số
52/TTLB ngày 25/01/199, hàng nhập khẩu cần được kiểm tra kỹ càng, mỗi cơ
quan tuỳ theo chức năng của mình tiến hành công việc kiểm tra đó. Cơ quan giao
thông, đơn vị kinh doanh nhập khẩu, các cơ quan kiểm dịch nếu hàng nhập là
động vật, thực vật.
Khiếu nại.
Thanh toán.
Thanh lý hợp đồng.
1.1.4 Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh nhập khẩu
1.1.4.1 Nhóm chỉ tiêu tổng hợp
-
* Nhóm chỉ tiêu phản ánh số lượng
Lợi nhuận: Lợi nhuận (P) vừa được coi là một nhân tố để tính toán hiệu quả
kinh doanh, vừa được coi là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh kết quả hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời gian nhất định. Đây là chỉ tiêu
cơ bản nhất đánh giá hiệu quả kinh doanh. Chỉ tiêu này được tính theo công thức:
P = D – (Z + Th + TT)
Trong đó:
P: Lợi nhuận của doanh nghiệp trong kỳ kinh doanh.
D: Doanh thu tiêu thụ trong 1 kỳ kinh doanh.
Z: Giá thành sản phẩm trong 1 kỳ kinh doanh.
Th: Các loại thuế phải nộp sau mỗi kỳ.
TT: Các tổn thất sau mỗi kỳ kinh doanh.
Công thức cho thấy, nếu ta so sánh giữa tổng doanh thu mà doanh nghiệp đạt
được và tổng chi phí (Z + Th + TT) mà doanh nghiệp phải bỏ ra thì sẽ biết được
lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được là lãi hay lỗ.
* Chỉ tiêu phản ánh chất lượng
Hiệu quả tương đối: Là phạm trù phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố sản xuất
của doanh nghiệp. Nó được tính bằng công thức:
KQ
H1 =
CF
Trong đó:
KQ: Kết quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
CF: Chi phí của hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
Công thức cho biết lượng hiệu quả mà doanh nghiệp đạt được từ một phương
án kinh doanh, từng thời kỳ kinh doanh.
-
CF
H2 =
KQ
Công thức cho biết một đơn vị chi phí thì tạo ra bao nhiêu đơn vị kết quả hoặc
một đơn vị kết quả thì tạo ra từ bao nhiêu đơn vị chi phí.
Tỷ suất lợi nhuận: Chỉ tiêu này được tính theo hai công thức:
P
P1 =
DT
Trong đó:
P: Tổng lợi nhuận từ hoạt động nhập khẩu.
DT: Tổng doanh thu từ hoạt động nhập khẩu.
Chỉ tiêu cho biết một đồng doanh thu tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận.
P
P2 =
VSX
Trong đó:
P: Tổng lợi nhuận từ hoạt động nhập khẩu
VSX: Tổng vốn sản xuất của hoạt động nhập khẩu
Chỉ tiêu cho biết một đồng chi phí tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận.
1.1.4.2 Nhóm chỉ tiêu hệ quả bộ phận
Thời hạn thu hồi vốn đầu tư: Chỉ tiêu này được tính toán căn cứ vào mức lợi
nhuận thu được sau mỗi kỳ kinh doanh và do đó, nó cho biết rõ hiệu quả của
việc sử dụng vốn đầu tư sau khi đã được vật hoá. Thời hạn thu hồi vốn đầu tư
-
phản ánh khoảng thời gian mà vốn đầu tư dần dần được thu hồi lại sau mỗi kỳ
kinh doanh và được xác định theo công thức:
VDT
TV =
P
Trong đó:
TV: Thời hạn thu hồi vốn đầu tư
P: Lợi nhuận thu được sau mỗi kỳ kinh doanh
VDT: Tổng số vốn đầu tư chu kỳ kinh doanh đó
Chỉ tiêu này cho thấy thời hạn thu hồi vốn đầu tư mà càng ngắn thì hiệu quả sử
dụng vốn đầu tư sẽ càng cao và ngược lại
Chỉ tiêu hệ số hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (E)
P
E =
V DT
Chỉ tiêu này cho biết khả năng sinh lời của một đồng vốn đầu tư.
1.1.5 Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh nhập khẩu
Nhập khẩu là một hoạt động liên quan đến nhiều yếu tố trong nước và quốc tế.
Nó luôn luôn thay đổi do tác động tổng hợp của các nhân tố này trong những giai
đoạn nhất định. Bản thân hoạt động này không thể tiến hành tự động được mà
phải do một chủ thể nhất định tiến hành, nên nó cũng chịu ảnh hưởng bởi các
nhân tố của chủ thể.
1.1.5.1 Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
a. Môi trường chính trị, luật pháp trong nước và quốc tế
Môi trường chính trị trong nước và quốc tế có ảnh hưởng lớn đến hoạt động
nhập khẩu của nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng. Chính trị ổn
-
định khuyến khích môi trường kinh doanh và tăng cường hợp tác quốc tế trong
nhiều lĩnh vực và cơ sở hạ tầng. Đổi lại, môi trường ổn định yêu cầu hệ thống
pháp luật hùng mạnh, mọi tranh chấp được giải quyết nhanh chóng và công
bằng. Nói chung, quan hệ chính trị thuận lợi làm tăng cơ hội trao đổi quốc tế và
giảm rủi ro.
b. Chính sách thương mại quốc tế
Chính sách thương mại quốc tế là một hệ thống các chính sách, công cụ và biện
pháp thích hợp mà nhà nước áp dụng để điều chỉnh hoạt động thương mại quốc
tế của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định nhằm đạt được các mục đích đã
định trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia đó.
Trong thực tế, chính sách thương mại quốc tế khác nhau giữa các quốc gia và
thay đổi qua các thời kỳ lịch sử, được biểu hiện dưới hai dạng điển hình là chính
sách mậu dịch tự do và chính sách bảo hộ mậu dịch.
Chính sách mậu dịch tự do là chính sách thương mại quốc tế trong đó Chính phủ
nước chủ nhà không phân biệt hàng hoá nội địa trên thị trường nước mình, do đó
không thực hiện các biện pháp cản trở hàng hoá nước ngoài xâm nhập thị trường
nước mình, mở rộng thị trường nội địa, cho hàng hoá nước ngoài tự do xâm nhập
thông qua việc xoá bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan.
Chính sách bảo hộ mậu dịch là chính sách thương mại quốc tế trong đó Chính
phủ của một quốc gia áp dụng các biện pháp để cản trở và điều chỉnh dòng vận
động của hàng hoá nước ngoài xâm nhập vào thị trường nước mình. Chính sách
này có đặc điểm hạn chế nhập khẩu hàng hoá nước ngoài thông qua các hàng rào
thuế quan và phi thuế quan tương đối dày đặc.
c. Sự biến động của tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái có tác động mạnh mẽ tới hoạt động nhập khẩu. Mọi việc tính
giá và thanh toán trong kinh doanh nhập khẩu đều sử dụng ngoại tệ. Đối với các
doanh nghiệp tham gia vào hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, tỷ giá hối đoái
tác động trực tiếp tới chi phí và kết quả kinh doanh. Tỷ giá hối đoái quyết định
-
mặt hàng, bạn hàng, phương án kinh doanh của các doanh nghiệp xuất nhập
khẩu.
Sự biến động của tỷ giá hối đoái gây nên sự biến động lớn trong tỷ trọng xuất
khẩu và nhập khẩu của một quốc gia. Khi tỷ giá hối đoái tăng, đồng nội tệ mất
giá so với đồng ngoại tệ thì hoạt động nhập khẩu bị hạn chế, kích thích xuất
khẩu và ngược lại. Đó là xu hướng tác động của tỷ giá hối đoái khi có sự biến
động đến hoạt động xuất nhập khẩu trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế với
những quốc gia, những khu vực chịu ảnh hưởng của sự biến động đó.
d. Sự biến động của thị trường trong nước và quốc tế.
Hoạt động kinh doanh nhập khẩu có thể coi là chiếc cầu nối thông suốt thị
trường trong nước và thị trường quốc tế, tạo ra sự phù hợp gắn bó cũng như
phản ánh tác động qua lại giữa các thị trường. Khi có sự thay đổi về giá cả, ảnh
hưởng đến nhu cầu của thị trường này đồng thời ảnh hưởng đến sự ứng xử ở thị
trường kia.
Cũng như vậy, thị trường ngoài nước quyết định tới sự thoả mãn nhu cầu trong
nước, sự biến động của nó về lượng cung, về sản phẩm mới, về sự đa dạng của
hàng hoá, dịch vụ cũng sẽ tác động tới hoạt động nhập khẩu ở thị trường trong
nước.
e. Sự phát triển của hệ thống tài chính ngân hàng
Ngày nay, với sự lớn mạnh của mình, hệ thống tài chính ngân hàng can thiệp vào
tất cả các doanh nghiệp lớn hay nhỏ thuộc mọi thành phần kinh tế. Hệ thống tài
chính ngân hàng có vai trò to lớn trong việc quản lý, cung cấp vốn, đảm trách
việc thanh toán một cách thuận tiện, nhanh chóng và kịp thời cho các doanh
nghiệp. Hoạt động kinh doanh nhập khẩu sẽ không thuận lợi nếu không có sự
hỗ trợ của hệ thống ngân hàng.
Dựa trên các quan hệ uy tín, nghiệp vụ thanh toán liên ngân hàng rất thuận lợi.
Các doanh nghiệp tham gia các hoạt động nhập khẩu sẽ được đảm bảo về lợi
nguon tai.lieu . vn