Xem mẫu

  1. LUẬN VĂN: Đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh Bó Kẹo, Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào
  2. Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Qua hơn mười lăm năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng Nhân dân cách mạng (NDCM) Lào khởi xướng và lãnh đạo, bắt đầu từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (1986) mở đường cho một thời kỳ phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà n ước. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII của Đảng NDCM Lào đã đề ra chương trình cải cách hành chính và đổi mới cơ chế, chính sách quản lý kinh tế của Nhà n ước đối với tất cả các lĩnh vực, các ngành, trong đó có thương mại nhằm thực hiện mục tiêu chiến l ược phát triển kinh tế - xã hội của Cộng hoà Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào đến năm 2020. Trọng tâm của chương trình cải cách và đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế là hoàn thiện cơ chế, chính sách và hệ thống tổ chức bộ máy quản lý kinh tế, nâng cao hiệu lực và hiệu quả của bộ máy quản lý, đảm bảo thực hiện những mục tiêu chiến l ược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước đề ra, phù hợp xu thế của thời đại mới. Vì vậy, đòi hỏi tất cả các ngành kinh tế quốc dân nói chung và ngành th ương mại nói riêng phải đổi mới cơ chế, chính sách, các công cụ và phương pháp quản lý vĩ mô... cho phù hợp với điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, đảm bảo định hướng XHCN. Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng trong những năm qua, quản lý nhà nước về kinh tế nói chung và đối với thương mại nói riêng đã đạt được những thành tựu quan trọng. Tuy vậy, vẫn còn một số hạn chế, vừa ch ưa định hướng quy hoạch chiến lược phát triển, vừa chưa quản lý kiểm soát chặt chẽ hoạt động thương mại của các thành phần kinh tế tham gia. Khi chuyển sang kinh tế thị trường, hoạt động thương mại của thành phần kinh tế nhà nước còn bị động, lúng túng chưa phát huy được vai trò chủ đạo, hoạt động thương mại của thành phần kinh tế ngoài nhà n ước phát triển nhanh nhưng không đồng đều giữa các vùng, miền, thị trường nông thôn miền núi hầu nh ư bị "bỏ trống". Chính vì lẽ đó đòi hỏi phải có sự tác động của quản lý nhà nước nhằm phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là địa bàn nông thôn miền núi.
  3. Bó Kẹo là tỉnh miền núi nhưng có cả đồng bằng và đô thị, hoạt động thương mại có sự đan xen, hỗ trợ lẫn nhau. Ngoài ra, Bó Kẹo còn có vị trí địa lý thuận lợi là cầu nối giữa các tỉnh miền núi phía Tây Đông Bắc, có nhiều tiềm năng để phát triển thương mại. Tuy nhiên, quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại cũng đang đặt ra nhiều vấn đề cần nghiên cứu và giải quyết trong thực tiễn. Là người trực tiếp tham gia quản lý trong lĩnh vực này, tôi chọn đề tài: "Đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh Bó Kẹo, Cộng hoà Dân ch ủ Nhân dân Lào" làm luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Quản lý kinh tế. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Đổi mới cơ chế, chính sách quản lý nhà nước về thương mại trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung - quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng đã được nhiều nhà khoa học, nhà kinh tế và nhà quản lý quan tâm. ở Việt Nam, đã có rất nhiều bài viết, bài nghiên cứu dưới dạng chuyên đề được đăng trên các báo chí, tạp chí và công trình khoa học đã công bố như: luận văn thạc sĩ: "Tiếp tục đổi mới quản lý nhà nước về thương mại trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá" của Nguyễn Xuân Thiện (2000). Đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà n ước "Đổi mới và hoàn thiện quản lý nhà nước về thương mại trên thị trường nội địa nước ta thời kỳ đến năm 2010" (2003) của Bộ Thương mại. - Đổi mới, hoàn thiện chính sách và c ơ chế quản lý thương mại dịch vụ, Giáo sư Hoàng Đạt (Bộ Thương mại). - Thị trường nội địa thống nhất và quản lý nhà n ước về thương nghiệp, Tiến sĩ Hoàng Đức Tảo (Bộ Thương mại). M ột số nghiên cứu sinh Lào tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh c ũng đ ã có các công trình nghiên c ứu trên những lĩnh vực khác nhau nh ư: - Đề tài về Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào - Những giải pháp cơ bản tạo tiền đề, Luận án tiến sĩ kinh tế của Khăm Pheng SA SOM PHENG, Khoa học Kinh tế chính trị XHCN, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2001.
  4. - Đề tài về "Phát triển thị trường nông thôn Cộng hoà dân chủ Nhân dân Lào ", Luận án tiến sĩ kinh tế của Bun Thi Kh ưa My Xay, Khoa học Kinh tế chính trị XHCN, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1998. - Đề tài về: "Đổi mới quản lý nhà nước về thương mại ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào", Luận án tiến sĩ kinh tế của Chăn Seng Phim Ma Vông, Khoa học Kinh tế chính trị XHCN, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2003. Tuy nhiên, ở một địa phương cụ thể cấp tỉnh có nhiều đặc thù riêng như tỉnh Bó Kẹo, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách có hệ thống về lĩnh vực này. Để thực hiện đề tài, tôi có kế thừa các ý t ưởng lý luận của các công trình đã công bố của Việt Nam và Lào, đi sâu phân tích thực trạng và đề xuất giải pháp phù hợp cho hoạt động thương mại của tỉnh Bó Kẹo trong giai đoạn hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích: Làm rõ cơ sở lý luận của quản lý nhà n ước đối với hoạt động về thương mại trong nền kinh tế thị tr ường, đánh giá thực trạng và đề xuất phương hướng, giải pháp nâng cao vai trò, hiệu lực quản lý nhà n ước về thương mại trên địa bàn tỉnh Bó Kẹo trong giai đoạn hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ - Phân tích sự cần thiết khách quan phải tiếp tục đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh Bó Kẹo. - Đánh giá quá trình đổi mới và thực trạng quản lý nhà n ước đối với các thành phần kinh tế tham gia hoạt động thương mại ở tỉnh Bó Kẹo. Từ đó rút ra kết quả, hạn chế và nguyên nhân. - Đề xuất phương hướng và giải pháp đổi mới quản lý nhà nước về thương mại ở tỉnh Bó Kẹo. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của luận văn là sự tác động của quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại ở tỉnh Bó Kẹo.
  5. - Phạm vi nghiên cứu của luận văn là quản lý nhà nước về thương mại đối với tất cả các thành phần kinh tế tham gia hoạt động thương mại, trọng tâm là doanh nghiệp nhà nước thuộc Sở Thương mại quản lý. - Thời gian nghiên cứu từ năm 1996 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên c ứu - Luận văn dựa trên cơ sở vận dụng những quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước Lào từ Đại hội IV đến nay. Đồng thời tham khảo, tiếp thu một cách có chọn lọc các ý kiến của các nhà kinh tế, các nhà hoạt động thực tiễn qua các bài viết, các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài này. - Luận văn kết hợp nhiều phương pháp, trong đó chủ yếu sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, ph ương pháp điều tra khảo sát, phân tích thống kê, tổng kết thực tiễn. 6. Những đóng góp khoa học của luận văn - Góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận, và thực tiễn về quản lý nhà n ước đối với hoạt động thương mại trong nền kinh tế thị trường ở tỉnh Bó Kẹo, đề xuất giải pháp có tính khả thi nhằm đổi mới quản lý nhà nước về lĩnh vực này trong giai đoạn tới. - Luận văn là một công trình nghiên cứu lý luận với tình hình thực tiễn của tỉnh Bó Kẹo, nên có thể làm tài liệu tham kh ảo đ ể hoạch định những chủ trương, chính sách phát triển thương mại ở tỉnh Bó Kẹo trong những n ăm tới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương, 8 tiết.
  6. Chương 1 Những vấn đề cơ bản về quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại trong nền kinh tế thị trường 1.1. những vấn đề cơ bản về hoạt động thương mại trong nền kinh tế thị trường 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm hoạt động thương mại - Khái niệm: Sản xuất của cải vật chất là hoạt động cơ bản nhất của xã hội loài người, là cơ sở của đời sống xa hội, nhưng của cải vật chất sản xuất ra không đem trao đổi và tiêu dùng thì không phải là hàng hoá. Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, sản xuất ngày càng mở rộng làm cho lực lượng sản xuất phát triển đã dẫn đến sự phân công lao động xã hội. Lúc đầu là phân công tự nhiên (mang tính tự phát), sau đó là phân công có ý thức. Chính nhờ sự phân công lao động xã hội đó mà hình thành các ngành kinh tế độc lập khác nhau. Các Mác đã chỉ ra rằng: "nếu xét riêng bản thân lao động thì người ta có thể gọi sự phân chia nền sản xuất xã hội thành những ngành lớn như: công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp... là sự phân công lao động chung, và sự phân chia những ngành sản xuất ấy thành từng loại và như là sự phân công lao động đặc thù" [24, tr.580]. Quá trình phát triển từ công xã nguyên thuỷ đến chủ nghĩa tư bản đã hình thành khá rõ 3 cuộc phân công lao động xã hội lớn: mới đầu chăn nuôi tách ra khỏi trồng trọt, và hình thành một ngành nghề khác trong nông nghiệp, tiếp đó ngành thủ công tách ra khỏi nghề nông, đã hình thành sự chuyên môn hoá trong nông nghiệp và bắt đầu nhen nhóm ngành công nghiệp. Hoạt động trao đổi trở nên phức tạp hơn; bắt đầu xuất hiện tiền tệ làm vật trung gian để trao đổi, hình thành một nhóm người làm công việc mua đi bán lại, đó là thương nhân. Lúc này thương mại tách ra khỏi sản xuất và trở thành một ngành độc lập trong nền kinh tế quốc dân. Các Mác đã chứng minh rằng, tư bản thương mại đã ra đời trước khi xuất hiện tư bản công nghiệp, hoạt động của tư bản thương mại trong thời kỳ tiền tư bản chủ nghĩa là một tiền đề quan
  7. trọng cho việc ra đời của tư bản công nghiệp, nhờ vào việc tích tụ vốn và tạo ra thị trường tiêu thụ sản phẩm. Các Mác viết: Cho nên, chẳng lấy gì làm khó hiểu, tại sao tư bản thương nhân lại xuất hiện với tư cách là một hình thái lịch sử của tư bản, rất lâu trước khi tư bản khống chế được nền sản xuất. Bản thân sự tồn tại và phát triển tới một mức nào đó của tư bản thương nhân là điều kiện lịch sử của phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa (TBCN). Vì đó là điều kiện tiên quyết của việc tích tụ tài sản bằng tiền và vì phương thức sản xuất TBCN giả định sản xuất nhằm mục đích buôn bán... [19, tr.77]. Khi tư bản công nghiệp đã giữ vị trí thống trị trong xã hội thì tư bản thương mại trở thành kẻ phục vụ cho tư bản công nghiệp và phụ thuộc vào tư bản công nghiệp. Các Mác đã nhấn mạnh: ở giai đoạn đầu của xã hội tư bản thương mại thống trị công nghiệp, trong xã hội hiện đại ngược lại. Thương mại ra đời đánh dấu một sự phân công lao động trong xã hội, khi đó chức năng trao đổi hàng hoá đã trở thành công việc chuyên môn của một bộ phận lao động thoát ly sản xuất và phục vụ sản xuất bằng cách đưa hàng từ người sản xuất đến người tiêu dùng thông qua quan hệ hàng hoá - tiền tệ. Thương mại là cầu nối giữa sản xuất với sản xuất, giữa sản xuất với tiêu dùng, là hình thức trao đổi hàng hoá thông qua việc mua, bán và các dịch vụ thương mại. Thương mại là một ngành kinh tế tương đối độc lập trong nền kinh tế quốc dân, nó không sản xuất ra của cải vật chất nhưng lại phục vụ cho quá trình sản xuất và tái sản xuất mở rộng trong nền kinh tế gắn liền với lĩnh vực lưu thông hàng hoá với sản xuất hàng hoá. Việc hình thành và phát triển thương mại phụ thuộc vào sự phân công lao động xã hội và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở từng giai đoạn lịch sử quyết định. Trình độ của lực lượng sản xuất này ngày càng phát triển, phân công lao động ngày càng sâu sắc thì hoạt động thương mại được mở rộng cả về phạm vi, quy mô, cơ cấu hàng hoá, dịch vụ cũng đa dạng và phong phú hơn. - Đặc điểm:
  8. + Thương mại là một lĩnh vực kinh tế, trong đó các chủ thể kinh tế thực hiện việc mua bán, trao đổi hàng hoá bằng các phương thức khác nhau. Thương mại ra đời cùng với nền kinh tế hàng hoá và ngày càng phát triển. Cho đến nay, thương mại là một ngành kinh tế phát triển ở trình độ cao với quy mô rộng lớn trong nền kinh tế quốc dân của các nước, chiếm tỷ trọng đáng kể trong cấu thành khu vực dịch vụ. + Thương mại tuy không phải là một ngành sản xuất vật chất độc lập, nhưng lại có quan hệ chặt chẽ và tác động qua lại với sản xuất, góp phần thúc đẩy sản xuất và quá trình chuyên môn hoá, giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội của đất nước. + Thương mại trong điều kiện hiện nay chịu ảnh hưởng của xu hướng toàn cầu hoá kinh tế và phát triển nền kinh tế tri thức. Nó không chỉ đóng vai trò cung cấp đầu vào và giải quyết đầu ra cho sản xuất, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về hàng hoá của toàn xã hội mà còn đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc góp phần khai thác tiềm năng và lợi thế so sánh của từng vùng, từng địa phương, từng quốc gia; phân bổ nguồn lực một cách hợp lý và có hiệu quả. Thúc đẩy tiến bộ khoa học và công nghệ để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá; mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Chính vì thế, hoạt động thương mại ngày càng không hạn chế ở việc buôn bán các hàng hoá vật thể truyền thống mà còn mở rộng sang các lĩnh vực mới như cả thương mại dịch vụ, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ...ở nhiều nước phát triển, thương mại thường được hiểu rộng đến mức nhiều khi rất khó phân biệt ranh giới hoạt động thương mại với hoạt động khác. + Trong thời đại ngày nay, thương mại có tầm quan trọng đặc biệt với phát triển kinh tế. Do vậy hầu hết các quốc gia và vùng kinh tế trên thế giới đều rất quan tâm đến phát triển hoạt động thương mại. Trong xu hướng chung đó Đảng và Chính phủ Lào cũng rất quan tâm đến quản lý Nhà nước đối với hoạt động thương mại của quốc gia. Chính phủ đã có nhiều chính sách quan trọng cho sự phát triển chung của nền kinh tế, trong đó có sự chú ý đặc biệt tới sự phát triển của ngành thương mại, là cơ sở quan trọng để thúc đẩy nền kinh tế của Lào tăng trưởng và phát triển. Thể hiện ý chí đó, Đại hội lần IV và V của Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã xác định chủ trương đổi mới trong phát triển kinh tế. Trong đó coi hoạt động thương mại là cầu
  9. nối quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, có nhiệm vụ quan trọng trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển, nhằm phá vỡ kiểu sản xuất tự nhiên, tự cung, tự cấp để chuyển sang phát triển kinh tế. 1.1.2. Vai trò của hoạt động thương mại trong nền kinh tế thị trường Trong nền kinh tế thị trường, thương mại có vai trò quan trọng trong tăng trưởng và phát triển kinh tế. Xác định rõ vai trò của thương mại cho phép tác động đúng hướng và tạo được những điều kiện cho thương mại phát triển. + Trước hết thương mại là một bộ phận của quá trình tái sản xuất. Thương mại là cầu nối giữa sản xuất với sản xuất và sản xuất với tiêu dùng. Sự vận động của sản phẩm hàng hoá qua khâu thương mại để hoạt động tiếp tục cho sản xuất hoặc đi vào tiêu dùng cá nhân. ở vị trí cấu thành của quá trình tái sản xuất, thương mại được coi như hệ thống dẫn lưu của quá trình tái sản xuất. Khâu này bị ách tắc sẽ dẫn tới sự khủng hoảng của sản xuất và tiêu dùng. Vì vậy thương mại là hợp phần của sản xuất hàng hoá. Sản phẩm hàng hoá có mục đích từ trước là để thoả mãn nhu cầu của người khác, sản xuất ra để trao đổi mua bán. Hoạt động thương mại gắn liền với hoạt động sản xuất hàng hoá. ở đây có thể phát triển ý kiến của ăngghen rằng: sản xuất và thương mại là hai mặt của kinh tế, có thể coi như trục hoành và trục tung của đồ thị kinh tế. + Thương mại làm cho sản xuất hàng hoá phát triển chấn hưng các quan hệ hàng hoá tiền tệ. Qua hoạt động mua bán tạo ra động lực kích thích đối với người sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội, tổ chức lại sản xuất, hình thành nên các vùng chuyên môn hoá sản xuất hàng hoá lớn. Phát triển thương mại cũng có nghĩa là phát triển các quan hệ hàng hoá tiền tệ, làm cho con người năng động, dần thích nghi với cách thức của nền sản xuất hàng hoá, đó là con đường ngắn nhất để chuyển từ sản xuất tự nhiên tự cấp, tự túc thành sản xuất hàng hoá. + Thương mại kích thích sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lợi nhuận là mục đích của hoạt động thương mại. Người sản xuất sẽ tìm mọi cách để cải tiến công tác, áp dụng khoa học công nghệ mới, hạ chi phí để thu nhiều lợi nhuận. Đồng thời cạnh tranh trong thương mại bắt buộc người sản xuất phải năng động, phải không ngừng nâng cao tay nghề chuyên môn và tính toán thực chất hoạt động kinh doanh, tiết kiệm các nguồn lực,
  10. nâng cao năng suất lao động. Đó là những nhân tố tác động làm cho lực lượng sản xuất phát triển. + Thương mại kích thích nhu cầu và luôn tạo ra nhu cầu mới. Người tiêu dùng bán không xuất phát từ tình cảm mà bằng lý trí, lợi ích của sản phẩm hay mức độ thoả mãn nhu cầu của sản phẩm sẽ tạo ra khả năng tái tạo nhu cầu. Thương mại một mặt làm cho nhu cầu trên thị trường gần với nhu cầu thực tế, mặt khác nó làm bộc lộ tính đa dạng, phong phú của nhu cầu. Thương mại đáp ứng nhu cầu tốt hơn chế độ trao đổi hiện vật. Thương mại luôn buộc các nhà sản xuất phải đa dạng kiểu dáng, mẫu mã, chất lượng sản phẩm, điều này tác động ngược lại người tiêu dùng làm khơi dậy những nhu cầu tiềm tàng. Tóm lại thương mại làm tăng nhu cầu và đó là gốc rễ cho sự phát triển sản xuất kinh doanh. Trong xu h ướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, thương mại đã góp phần quan trọng trong việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, làm cho quan hệ thương mại giữa các nước không ngừng phát triển. Điều đó giúp cho chúng ta tận dụng được ưu thế của thời đại, phát huy lợi thế so sánh, từng bước đưa thị trường trong nước hội nhập với thị trường thế giới, đó cũng là con đường để phát triển kinh tế. + Thương mại giúp xã hội sử dụng hợp lý và tiết kiệm lao động: Do có thương mại, các nhà sản xuất có thể tiến hành sản xuất liên tục, không phải dùng sản xuất để tiêu thụ sản phẩm, nên có thể tăng hiệu suất sử dụng máy móc, thiết bị tăng năng suất lao động giảm chi phí sản xuất. Do có thương mại nên chi phí lưu thông, bao gồm chi phí bảo quản, đóng gói, chuyên chở, v.v... có thể giảm nhiều so với chi phí lưu thông mà các nhà sản xuất tư làm. + Thương mại thúc đẩy và tạo điều kiện phân công lao động xã hội: Phân công lao động xã hội là một trong nhiều biện pháp tăng năng suất lao động xã hội. Mà việc không ngừng tăng năng suất lao động quan trọng như thế nào thì chúng ta đã biết. Nhờ có thương mại, nhà sản xuất có thể yên tâm sản xuất, nhờ thương mại nhà sản xuất có thể nắm được cầu một cách rộng khắp, nhanh chóng, từ đó sớm có sự lựa chọn chuẩn xác phương án cung của mình sao cho tối ưu.
  11. + Thương mại giúp xã hội mở rộng quan hệ hàng hoá trên phạm vi ngày càng rộng lớn, nhờ đó mà nâng cao mức sống vật chất, văn hoá của con người: Nhờ có ngành thương mại, trong đó có ngoại thương, nhân loại toàn cầu có thể thụ hưởng thành quả lao động của nhau. Thông qua hàng hoá, con người có thể giao lưu văn hoá, thúc đẩy trí tuệ phát triển làm cho xã hội sinh động hơn. Chính trên ý nghĩa đó, danh nhân Việt Nam Lê Quý Đôn đã nói: "phi thương bất hoạt". 1.1.3. Mối quan hệ và tác động của hoạt động thương mại 1.1.3.1. Mối quan hệ của hoạt động thương mại * Mối quan hệ giữa thương mại với sản xuất và tiêu dùng trong tái sản xuất xã hội: - Thương mại giữ vị trí trung gian giữa sản xuất và tiêu dùng trong quá trình tái sản xuất xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, chính thương mại kết nối và thực hiện sự cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng thông qua hoạt động mua bán bằng tiền. Thương mại là điều kiện không thể thiếu của tái sản xuất xã hội. - Thương mại một mặt chịu sự tác động quyết định của sản xuất và tiêu dùng (quy mô, cơ cấu, tốc độ phát triển của thương mại do quy mô, cơ cấu và sự phát triển của sản xuất và tiêu dùng quy định). Ngược lại sự phát triển của thương mại có tác động trở lại làm biến đổi quy mô, cơ cấu và sự phát triển của cả sản xuất lẫn tiêu dùng. * Thương mại phản ánh tổng hợp nhiều mối quan hệ giữa các chủ thể của nền kinh tế thông qua hoạt động mua bán trên thị trường: - Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ kinh tế của các chủ thể kinh tế được phản ánh chủ yếu trên thị trường thông qua mua bán gắn liền với hoạt động thương mại. - Những mối quan hệ thương mại này có liên quan tới nhiều chủ thể khác nhau (chính phủ, các doanh nghiệp, các hộ gia đình và các cá nhân người tiêu dùng cũng như có liên quan tới mọi thành phần kinh tế khác nhau trong nền kinh tế). - Thương mại chịu ảnh hưởng tác động của các quan hệ quốc tế giữa các chủ thể kinh tế nói trên. Mặt khác, thương mại cũng tác động trở lại góp phần xây dựng và củng cố mối quan hệ, xác lập địa vị của họ về kinh tế thông qua các mối quan hệ mua bán.
  12. * Thương mại là một hệ thống mở với môi trường bên ngoài (kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, luật pháp và môi trường tự nhiên) - Thương mại là một hệ thống tập hợp các yếu tốt có mối liên hệ qua lại thực hiện việc trao đổi mua bán hàng hoá và các dịch vụ bằng tiền với mục tiêu kinh doanh hoặc phi kinh doanh như chúng ta đã nói ở trên. - Hệ thống thương mại được hình thành bởi hai hệ thống con, đó là cung và cầu. + Cung được hình thành bởi sản xuất, người bán đại diện cho sức cung trên thị trường. + Cầu được hình thành bởi tiêu dùng dựa trên cơ sở khả năng thanh toán của xã hội. Người mua đại diện cho sức cầu của thị trường. - Hai hệ thống con của hoạt động thương mại được liên hệ với nhau bởi các hoạt động và mối quan hệ qua lại giữa người mua và người bán trên thị trường như: hoạt động Marketing, hệ thống kênh phân phối của thị trường... - Thương mại là một hệ thống mở trong sự tương tác qua lại với môi trường bên ngoài. - Thương mại chịu ảnh hướng tác động của các yếu tố môi trường kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, pháp luật, tự nhiên. Những yếu tố môi trường này có thể tác động thúc đẩy hoặc cản trở sự phát triển của thương mại. - Thương mại cũng tác động trở lại đến tất cả các yếu tố môi trường bên ngoài. Những tác động này khá đa dạng và có liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau của tái sản xuất. Phạm vi tác động của thương mại rất rộng, nó liên quan đến mọi người, mọi tổ chức, mọi thành viên kinh tế. Những tác động này không chỉ giới hạn trong lĩnh vực kinh tế mà còn mở rộng ra cả phương diện chính trị, xã hội, luật pháp, văn hoá và môi trường tự nhiên. - Những tác động của thương mại rất phức tạp và đa chiều. Chúng có thể những tác động tích cực (thúc đẩy hoặc đưa lại những lợi ích), cũng có thể là các tác động tiêu cực (cản trở hoặc dẫn đến những tổn thất). Kết quả của những tác động này có thể lượng hoá được (đo lường được) nhưng nhiều trường hợp chúng rất khó định lượng. Tác động của thương mại có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp, phạm vi ảnh hưởng của chúng rất khác nhau. Có nhiều hoạt động thương mại mà ảnh hưởng của chúng chỉ trong một phạm vi hẹp và
  13. trong một thời gian ngắn, ngược lại có những tác động mà ảnh hưởng của chúng rất rộng rãi và lâu dài. Trong một số trường hợp, hậu quả của những tác động thương mại là có thể sửa chữa được nhưng một số trường hợp hậu quả lại có thể là vĩnh viễn hoặc nếu sửa chữa được thì phải tốn kém nhiều tiền của và thời gian. - Nghiên cứu những tác động của thương mại rất quan trọng, nó không chỉ giúp cho việc thúc đẩy hoạt động thương mại ở phạm vi doanh nghiệp nhằm đạt được những mục tiêu kinh doanh mà còn giúp cho việc quản lý các hoạt động thương mại ở phạm vi vĩ mô một cách có kết quả và hiệu quả, góp phần đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội của thương mại cũng như sự phát triển kinh tế bền vững. 1.1.3.2. Những tác động của thương mại * Tác động tích cực của thương mại: Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, thương mại có những tác động tích cực sau: - Về kinh tế: + Góp phần tạo ra thu nhập quốc dân là nguồn thu ngoại tệ quan trọng (ngoài thương), góp phần cải thiện cán cân thanh toán của quốc gia, ổn định kinh tế vĩ mô. + Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, ổn định và bền vững. + Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đẩy mạnh xuất khẩu. + Thúc đẩy đầu tư hợp tác kinh tế giữa các vùng, các quốc gia và các khu vực kinh tế thế giới. + Thúc đẩy cạnh tranh và hội nhập kinh tế thế giới. - Về xã hội (văn hoá, xã hội, chính trị, pháp luật): + Góp phần tạo công ăn việc làm, giải quyết những vấn đề dư thừa lao động và nạn thất nghiệp. + Giúp phát triển các vùng lạc hậu, vung sâu, vùng xa. + Xoá bỏ sự chênh lệch phát triển giữa các quốc gia, các khu vực kinh tế trong nền kinh tế thế giới. + Củng cố các mối quan hệ kinh tế giữa các thành phần kinh tế, giữa thành thị và nông thôn, giữa nông nghiệp và công nghiệp.
  14. + ổn định và nâng cao mức sống, chất lượng cuộc sống của dân cư. + Trên cơ sở xây dựng và củng cố các mối quan hệ kinh tế, thương mại góp phần thúc đẩy sự hợp tác quốc tế, mở rộng giao lưu văn hoá, củng cố hoà bình, xây dựng tình hữu nghị giữa các dân tộc và các quốc gia trên thế giới. + Thúc đẩy sự phát triển cơ sở hạ tầng chung. + Tái đầu tư để bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường đảm bảo sự phát triển bền vững. * Tác động tiêu cực của thương mại: Sự phát triển của thương mại một cách tự phát, không có sự quản lý và định hướng đúng đắn của Nhà nước cũng có thể dẫn tới những tác động tiêu cực. - Về kinh tế: + Sự phát triển thương mại một cách tự phát có thể dẫn đến khủng hoảng, gây nên sự lãng phí các nguồn lực trên phạm vi toàn xã hội. + Chạy theo lợi nhuận và cái lợi ích cục bộ một cách mù quáng đi lên những hoạt động thương mại bất hợp pháp, cạnh tranh không lành mạnh, buôn gian bán lận... phá hoại nền kinh tế. + Gia tăng cạnh tranh cũng như sự lệ thuộc của nền kinh tế mỗi quốc gia và bên ngoài... - Về xã hội: + Phân hoá giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội làm sâu sắc thêm những mâu thuẫn xã hội. + Nguy cơ xâm nhập các lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền du nhập lối sống và văn hoá ngoại lai xa lạ với lối sống và bản sắc văn hoá dân tộc. + Gia tăng sự chênh lệch giàu nghèo giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển dẫn đến sự bất bình đẳng, làm sâu sắc những mâu thuẫn giữa các quốc gia. + Cạnh tranh để chiếm lĩnh thị trường, chiếm lĩnh các nguồn tài nguyên nhiều khi đã là nguyên nhân trực tiếp của các xung đột giữa các dân tộc và giữa các quốc gia. - Về môi trường tự nhiên: + Khai thác cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
  15. + Phá huỷ môi trường tự nhiên và gây ô nhiễm môi trường sống. Để khai thác những mặt tích cực của thương mại và hạn chế những mặt tiêu cực của nó, hoạt động thương mại phải vận động theo cơ chế thị trường và phải chịu sự quản lý, điều tiết vĩ mô của Nhà nước. 1.2. nội dung, yêu cầu quản lý Nhà nước đối với hoạt động thương mại trong nền kinh tế thị trường 1.2.1. Nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại - Hoạch định chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển thương mại: Chiến lược phát triển thương mại được xây dựng nhằm đề ra những mục tiêu phương hướng và hệ thống giải pháp lớn để huy động tối ưu các nguồn lực cho phát triển thương mại của quốc gia bao gồm: chiến lược thương mại trong nước và chiến lược thương mại quốc tế trong một thời gain khá dài (khoảng 10 năm, 20 năm) góp phần thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia trong từng thời kỳ lịch sử. Hệ thống chiến l ược thương mại trong nền kinh tế quốc dân thuộc nội dung quản lý Nhà nước về thương mại bao gồm: 1. Chiến lược thương mại quốc gia (thường do Bộ Thương mại xây dựng và được Chính phủ thông qua) thể hiện những quan điểm chủ đạo chung của Nhà nước đối với thương mại, mục tiêu tổng quát của ngành thương mại của các giải pháp vĩ mô; 2. Chiến lược thương mại vùng lãnh thổ là bộ phận của chiến lược phát triển kinh tế vùng lãnh thổ do Bộ Thương mại xây dựng; 3. Chiến lược thương mại của tỉnh, thành phố là bộ phận của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, thành phố. Quy hoạch phát triển thương mại là một cấp độ thực hiện chiến lược thương mại nhằm thể hiện rõ ý tưởng của Nhà nước về bố trí lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong lĩnh vực thương mại của quốc gia, gồm các nội dung chủ yếu như: xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng chung cho hoạt động thương mại, bố trí nguồn nhân lực và các loại hình chủ thể tham gia hoạt động thương mại. Hệ thống quy hoạch phát triển thương mại trong nền kinh tế quốc dân bao gồm: 1. Quy hoạch tổng thể phát triển th ương mại trong nền kinh tế quốc dân; 2. Quy hoạch phát triển thương mại theo vùng lãnh thổ; 3. Quy hoạch phát triển thương mại của các tỉnh, thành phố; 4. Quy hoạch phát triển thương mại của các ngành hàng chủ yếu.
  16. Kế hoạch phát triển thương mại mang tính định hướng trong nền kinh tế quốc dân là việc Nhà nước xác định phương hướng, mục tiêu, cơ cấu phát triển thương mại và thị trường trong từng giai đoạn (thường là 5 năm gọi là kế hoạch dài hạn, 2 - 3 năm gọi là kế hoạch trung hạn, 1 năm gọi là kế hoạch ngắn hạn), cũng nh ư xác định cá biện pháp để đạt mục tiêu đó, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế trong từng thời đoạn cụ thể. Kế hoạch hoá thương mại vừa là phương pháp vừa là công cụ quan trọng để Nhà nước thực hiện vai trò hướng dẫn, định hướng phát triển thương mại và thị trường trong nước và quốc tế. Mục tiêu của kế hoạch hoá định hướng phát triển thương mại là nhằm giữ một sự cân đối lớn của thị trường và thương mại, ổn định thị trường, phát triển lưu thông hàng hoá, phát triển xuất nhập khẩu (XNK) và lợi nhuận. Đối tượng của kế hoạch phát triển th ương mại bao quát toàn bộ các quá trình kinh tế trong ngành th ương mại, cá hoạt động thương mại trong nước và với nước ngoài, trọng tâm là các quan hệ tổng cung - tổng cầu, quan hệ tiền hàng, quan hệ cung -cầu từng mặt hàng thiết yếu, các cơ cấu thương mại chủ yếu. Kế hoạch phát triển thương mại trong nền kinh tế quốc dân gồm kế hoạch phát triển thương mại quốc gia, kế hoạch phát triển thương mại của vùng lãnh thổ, kế hoạch phát triển thương mại của các tỉnh, thành phố. Chính sách thương mại thuộc hệ thống chính sách kinh tế của Nhà nước, là hệ thống các quan điểm, nguyên tắc, công cụ và biện pháp thích hợp, mà Nhà nước áp dụng để điều chỉnh các hoạt động thương mại trong nước và hoạt động thương mại quốc tế trong một thời kỳ nhất định nhằm đạt được các mục tiêu xác định trong chiến lược phát triển thương mại quốc gia nói riêng, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia nói chung trong thời kỳ lịch sử. Chính sách thương mại được phân thành nhiều chính sách bộ phận, gồm: chính sách lưu thông hàng hoá, chính sách ngoại thương, chính sách thương nhân, chính sách phát triển thị trường, chính sách thương mại đối với các vùng đặc thù (miền núi, vùng sâu, vùng xa...), chính sách thuế quan, chính sách bảo vệ người tiêu dùng, chính sách hội nhập khu vực và thế giới... Trong mỗi chính sách, bộ phận nói trên lại được phân nhỏ thành các chính sách riêng biệt khác nhau. Ví dụ chính sách ngoại thương được phân thành 3 chính sách bộ phận: chính sách phát triển quan hệ thương mại giữa quốc gia với các nước, các đối tác
  17. thương mại chủ yếu; chính sách xuất khẩu, chính sách nhập khẩu. Trong chính sách xuất khẩu lại được phân nhánh thành các chính sách bộ phận nh ư: chính sách thị trường xuất khẩu, chính sách mặt hàng xuất khẩu, chính sách thương nhân tham gia hoạt động xuất khẩu (quyền kinh doanh xuất khẩu), chính sách hỗ trợ xuất khẩu. - Ban hành các quy định pháp luật và văn bản pháp quy về thương mại: Nhà nước phải xây dựng và ban hành hệ thống luật pháp đồng bộ, tạo môi trường và hành lang pháp lý cho hoạt động thương mại theo yêu cầu của cơ chế thị trường. Hệ thống luật pháp này bao gồm luật và các văn bản dưới luật của Chính phủ, Bộ Thương mại các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác. Bảo đảm tính hệ thống, nhất quán và tương đối ổn định của pháp luật là khâu trọng yếu đầu tiên của quản lý Nhà nước. Hệ thống pháp luật là tổng thể các quy định do Nhà nước ban hành tạo thành một hệ thống thống nhất, bao gồm những văn bản luật và những văn bản quản lý Nhà nước (dưới luật). Các văn bản luật, pháp quy đều chứa đựng các quy phạm pháp luật có tính chất bắt buộc chung với toàn xã hội hoặc một nhóm xã hội và được thực hiện lâu dài. Hệ thống các văn bản pháp luật của một đất nước, thông thường bao gồm: hiến pháp, cá đạo luật, bộ luật, nghị quyết của Quốc hội (hoặc nghị viện), pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; lệnh, quyết định của Chủ tịch nước (hoặc tổng thống); nghị quyết, nghị định của Chính phủ; quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; quyết định, chỉ thị, thông tư của các Bộ, cơ quan ngang Bộ; quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân các cấp. Các văn bản pháp luật về thương mại gồm: 1. Luật thương mại; 2. Các luật về tổ chức doanh nghiệp (như luật doanh nghiệp, luật phá sản doanh nghiệp...) các nghị định và quyết định của Chính phủ về tổ chức doanh nghiệp, các thông t ư, công văn, chỉ thị, quyết định của Bộ Thương mại (hoặc cơ quan tương tự) và các Bộ ngành hữu quan liên quan đến tổ chức doanh nghiệp; 3. Các văn bản hiện hành về quản lý kinh doanh trong nước; 4. Các văn bản về xuất nhập khẩu, các văn bản về quản lý thị trường; 5. Các văn bản về đầu tư liên quan đến thương mại; 6. Các văn bản về tiêu chuẩn chất lượng về quản lý đo lường chất lượng hàng hoá; 7. Các văn bản về thuế trong nước và về thuế quan; 8. Các văn bản về văn phòng đại diện thương mại; 9. Các văn bản về hải quan; 10. Các văn bản về hợp đồng kinh tế và trọng tài th ương mại.
  18. - Tổ chức hệ thống quản lý hoạt động thương mại các cấp: Tổ chức hệ thống các cơ quan quản lý Nhà nước về thương mại ở mỗi nước có những đặc thù riêng theo quy định của Hiến pháp và luật pháp của từng nước, đồng thời, tuỳ thuộc vào thiết chế và thể chế chính trị và hành chính của Chính phủ từng quốc gia. Tuy nhiên điểm chung giữa các nước là đều có Chính phủ, đứng đầu là Thủ tướng (hoặc Tổng thống ở một số nước). Với tư cách là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất nắm quyền hành pháp. Chính phủ ở hầu hết các nước đều có chức năng cơ bản là thống nhất việc quản lý thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước; lập quy để thực hiện các luật do quyền lập pháp định ra; quản lý công việc hàng ngày của Nhà nước; quản lý bộ máy hành chính Nhà nước và quản lý nhân sự của bộ máy đó; tham gia quá trình lập pháp. Cơ cấu tổng thể Nhà nước ở các nước đều do Hiến pháp các nước đó quy định và chủ thể quản lý vĩ mô nền kinh tế cũng thuộc cơ cấu tổ chức và cơ chế phân bổ quyền lực do hiến pháp quy định. ở các nước theo chế độ tư bản chủ nghĩa đều theo nguyên tắc tam quyền phân lập: quyền lập hiến - lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Ba quyền này phân lập theo chức năng của các cơ quan trong cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà nước. Do đó việc xác định chủ thể quản lý Nhà nước về kinh tế nói chung, về thương mại nói riêng không quá phức tạp - đó là Chính phủ. Cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt động thương mại là cơ cấu của Chính phủ, người đứng đầu cơ quan, Bộ trưởng là thành viên trong Chính phủ. ở một số nước còn phân định cụ thể hơn nữa về chủ thể quản lý vĩ mô nền kinh tế, ví dụ: Bộ Thương mại là cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt động thương mại trong phạm vi cả nước (Hoa Kỳ, Thái Lan, Việt Nam, Trung Quốc...). Nhưng cũng có một số nước, chức năng quản lý Nhà nước về thương mại lại được giao cho các Bộ như: Bộ Kinh tế (Pháp), Bộ Công thương (Nhật Bản và Philippin), Bộ Ngoại giao và Thương mại (Austraylia)... Vấn đề phân cấp theo ngành, theo lãnh thổ và vùng là vấn đề phức tạp và luôn luôn là vấn đề thời sự của các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi. Cơ quan nào của Nhà nước có vai trò trọng tâm của quản lý Nhà nước về kinh tế ở các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường là vấn đề phức tạp, xong có ý nghĩa quan trọng. Vì đây
  19. không phải là vấn đề đơn lẻ mà nó là kết quả của chuyển đổi đồng bộ các chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế. Bộ Thương mại có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn quản lý Nhà nước về thương mại hàng hoá và dịch vụ thương mại. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ các cơ quan thuộc Chính phủ khác cũng có nhiệm vụ, quyền hạn quản lý Nhà nước về thương mại đối với một số lĩnh vực được phân công phụ trách và có trách nhiệm phối hợp với Bộ Thương mại để thực hiện việc quản lý Nhà nước về thương mại theo quy định của Chính phủ. Để giúp cho công tác nghiên cứu, trường đại học trung tâm đào tạo, tập huấn về nghiệp vụ thương mại; các cơ quan tham tấn kinh tế thương mại, đại diện thương mại ở nước ngoài làm nhiệm vụ môi giới, xúc tiến thương mại và tìm kiếm thị trường. Đối với bộ máy quản lý Nhà nước về thương mại ở các địa phương (tỉnh, thành phố, vùng lãnh thổ) ở mỗi nước có những đặc thù riêng, chính quyền các cấp quản lý thương mại trong phạm vi địa phương theo sự phân cấp của Chính phủ. Sở Thương mại là cơ quan tham mưu, trực tiếp giúp chính quyền tỉnh, thành phố thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà nước về thương mại ở địa phương. Đơn vị cuối cùng trong hệ thống tổ chức quản lý Nhà n ước về thương mại. ở cấp cơ sở là phòng Thương mại quận, huyện và tổ quản lý thị trường cấp xã, phường làm nhiệm vụ thi hành luật pháp và các chỉ thị, quy định của Nhà nước về hoạt động kinh doanh thương mại trên địa bàn được giao. - Kiểm tra, kiểm soát hoạt động thương mại: Bao gồm những nội dung cụ thể như thanh tra, kiểm tra sự phù hợp của chất lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường với: tiêu chuẩn Lào bắt buộc áp dụng, đăng ký chất lượng hàng hoá, các quy định về an toàn vệ sinh môi trường. Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện những quy định về ghi nhãn sản phẩm của hàng hoá lưu thông trên thị trường. Thanh tra, kiểm tra tính hợp pháp của các dụng cụ đo lường có liên quan đến việc kinh doanh hàng hoá trên thị trường và hàng hoá gói sẵn trên định lượng. Thanh tra, kiểm tra các vụ việc về sản xuất hoặc buôn bán hàng giả, buôn lậu, buôn bán không có hoá đơn trên thị trường. Thanh tra, kiểm soát phòng và chống gian lận thương mại trên phạm vi cả nước, phạm vi từng địa bàn lãnh thổ,...
  20. 1.2.2. Yêu cầu đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại ở Lào Trong những năm qua CHDCND Lào đã giữ vững và thực hiện đường lối đổi mới quản lý Nhà nước đối với hoạt động thương mại của Lào - Một là: phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế vào hoạt động thương mại, trong đó thương mại Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Thực hiện chính sách tự do hoá thương mại, khuyến khích mọi thành viên kinh tế tham gia, khai thác vốn liếng, tái sản xuất, kinh nghiệm nhằm phát triển thương mại, làm cho thị trường sôi động, hàng hoá đa dạng, phong phú, đáp ứng nhu cầu phụ vụ sản xuất và đời sống nhân dân. Nhà nước cần đầu tư hỗ trợ cho doanh nghiệp thương mại Nhà nước có đủ tiềm lực kinh tế thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước nói chung và thương mại nói riêng là "làm đòn bẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết vấn đề xã hội, mở đường hướng dẫn hỗ trợ các thành phần khác cùng phát triển; làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô; tạo nền tàng cho sản xuất xã hội mới" [26, tr. 93]. - Hai là: xác định đúng chức năng quản lý Nhà nước đối với hoạt động thương mại phù hợp với cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) là vấn đề rất mới mẻ Lào chưa trải qua, chưa có kinh nghiệm... mặt khác hoạt động thương mại với tư cách là đối tượng quản lý lại đang quá trình đổi mới hình thành, phát triển và hoàn thiện. Trong thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học, các nhà kinh tế và quản lý đã và đang góp phần xác định một cách đúng đắn, có cơ sở khoa học về chức năng và nội dung quản lý Nhà nước đối với hoạt động thương mại, trong bước chuyển sang cơ chế thị trường. Điều rất quan trọng là trong thời gian gần đây, Bộ Thương mại đã và đang tổ chức việc nghiên cứu kinh tế thương mại, các công trình nghiên cứu để hoàn thiện chức năng quản lý Nhà nước về thương mại ở Trung ương đến địa phương. Nhờ đó việc xác định đúng đắn và hoàn thiện chức năng quản lý Nhà nước về hoạt động thương mại, sẽ có cơ sở khoa học và thực tiễn hơn. Mặt khác luật thương mại đã được Quốc hội khoá V kỳ họp thứ 8 đã thẩm tra ngày 7/10/2005 nhưng chưa thông qua.
nguon tai.lieu . vn