Xem mẫu

  1. LUẬN VĂN: Cạnh tranh đấu thầu xây dựng của Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị Hà Nội
  2. mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Quá trình đổi mới chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa buộc các doanh nghiệp phải đối mặt với sự cạnh tranh hết sức gay gắt. Sự thay đổi cơ chế này đã làm cho không ít doanh nghiệp gặp khó khăn, lúng túng trong sản xuất và kinh doanh, tuy nhiên, có không ít doanh nghiệp đã tìm được những hướng đi đúng đắn, kịp thời đề ra những giải pháp thích hợp nhằm tháo gỡ khó khăn, tạo lập và phát huy thế mạnh của mình, nhờ đó đã đạt được hiệu quả kinh doanh cao, đứng vững và không ngừng phát triển. Xây dựng cơ bản là một lĩnh vực công nghiệp đặc thù. Khác với các lĩnh vực khác, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp xây dựng diễn ra chủ yếu thông qua hình thức đấu thầu do các chủ đầu tư tổ chức. Trên thế giới hình thức đấu thầu xây dựng đã được áp dụng từ lâu, ở nước ta, từ khi nhà nước ban hành "Qui chế đấu thầu", thì đấu thầu xây dựng mới thực sự trở thành một lĩnh vực cạnh tranh hết sức gay gắt giữa các doanh nghiệp xây dựng. Mặt khác, trong những năm gần đây, đã xuất hiện nhiều dự án xây dựng có qui mô lớn, sử dựng vốn ngân sách hoặc vốn vay của các tổ chức tín dụng nước ngoài đòi hỏi phải tổ chức đấu thầu xây dựng trên cơ sở cạnh tranh. Chính vì vậy, vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng luôn giành được sự quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp xây dựng Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị Hà Nội là một doanh nghiệp nhà nước trên lĩnh vực xây dựng, có qui mô lớn trên địa bàn Hà Nội. Trong những năm vừa qua, Tổng Công ty đã có những nỗ lực trên nhiều mặt nhằm nâng cao sức cạnh tranh, phát triển sản xuất và đã giành được nhiều thành tựu hết sức quan trọng, hoàn thành nhiệm vụ được giao, trở thành một trong những doanh nghiệp xây dựng mạnh trên địa bàn thành phố Hà Nội. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã giành được, Tổng Công ty vẫn còn những tồn tại, hạn chế nhất định, đặc biệt là trong lĩnh vực cạnh tranh đấu thầu xây dựng, đó là, những khó khăn về tài chính, khoa học công nghệ, nhân lực, kinh
  3. nghiệm đấu thầu..., đây là một trở ngại lớn, có ảnh hưởng đến sự phát triển lâu dài và bền vững của Tổng Công ty. Trong bối cảnh hiện nay, trước sự lớn mạnh của các doanh nghiệp xây dựng trong nước, sự xuất hiện của những công ty xây dựng lớn của nước ngoài, sự phát triển của khoa học công nghệ xây dựng... cho thấy rằng cạnh tranh đấu thầu xây dựng giữa các doanh nghiệp xây dựng diễn ra rất gay gắt. Vì vậy, vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh đấu thầu có một vai trò hết sức quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với sự thành công và phát triển của các doanh nghiệp xây dựng nói chung và của Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị Hà Nội nói riêng. Xuất phát từ nhận thức trên, tôi đã chọn vấn đề "Cạnh tranh đấu thầu xây dựng của Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị Hà Nội" làm luận văn tốt nghiệp cao học với hy vọng mở rộng khả năng hiểu biết của mình và mong muốn góp một phần nhỏ bé vào sự phát triển của Tổng Công ty. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Cạnh tranh là một khái niệm được sử dụng trên nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, trong lĩnh vực kinh tế cạnh tranh có thể được hiểu là sự ganh đua giữa những người sản xuất hàng hóa, giữa các thương nhân, các doanh nghiệp nhằm giành các điều kiện sản xuất, khách hàng, thị trường tiêu thụ có lợi nhất. Đây là hiện tượng kinh tế được các nhà kinh tế học nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. ở nước ngoài, có thể kể đến các công trình nghiên cứu của K.Marx (nghiên cứu cạnh tranh dưới chế độ tư bản chủ nghĩa), P.A. Samuelson, D. Begg, S. Fischer, R. Dorbusch, R.S. Pindyck, D.L. Rubinfeld... Những công trình nghiên cứu này đã đề cập đến cạnh tranh dưới những khía cạnh như: điều kiện thực hiện cạnh tranh, môi trường cạnh tranh, cạnh tranh giữa các quốc gia, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp... ở trong nước, từ khi chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường, vấn đề cạnh tranh đã được nhiều cá nhân và tổ chức nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu này được thể hiện dưới dạng các dự án (Dự án VIE /97/016). Các vấn đề pháp lý và thể chế về chính sách và kiểm soát độc quyền kinh doanh), những công trình chuyên khảo nh ư: "Qui chế quản lý
  4. đầu tư xây dựng" và đấu thầu (Lê Thị Kim Quế và Nguyễn Thị Đức Hạnh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998); "Cẩm nang về công tác đấu thầu" (Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Trung tâm Thông tin, Nxb Chính trị quốc gia, 1997); "Hướng dẫn đấu thầu tuyển dụng tư vấn cho các dự án sử dụng vốn của WB, ADB & OECF" (Nxb Thống kê, Hà Nội, 1999), hoặc dưới dạng các đề tài nghiên cứu khoa học, các luận văn, luận án như: đề tài "Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế" (do GS.TS. Chu Văn Cấp làm chủ nhiệm); đề tài "Sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước ở nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế" (do TS. Lê Hữu Thành làm chủ nhiệm) v.v... Các công trình nghiên này đã đề cập đến những vấn đề chung, qui chế pháp lý trong cạnh tranh, xây dựng qui trình, tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và của doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta. Hoạt động xây dựng nói chung và cạnh tranh đấu thầu xây dựng nói riêng là những hoạt động mang tính đặc thù của nền kinh tế. Các công trình nghiên cứu về cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng phải được nghiên cứu một cách thường xuyên nhằm tạo ra cơ sở khoa học, qua đó để tiếp tục hoàn thiện cơ chế và chính sách, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn cuộc sống. Mặt khác, các công trình nghiên cứu nêu trên mới chỉ đề cập đến những vấn đề chung nhất trên bình diện quản lý mà chưa đề cập đến việc nghiên cứu cơ chế và đề ra những giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp, do đó, tiếp tục nghiên cứu vấn đề cạnh tranh đấu thầu là một việc làm cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Đề tài "Nâng cao sức cạnh tranh đấu thầu xây dựng của Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị Hà Nội" không trùng với đề tài và luận văn nào đã được nghiên cứu trước đây. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích - Trình bày một cách có hệ thống, qua đó làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản của cạnh tranh đấu thầu trong lĩnh vực xây dựng; - Đánh giá thực trạng, khả năng cạnh tranh đấu thầu xây dựng, qua đó tìm ra
  5. những ưu thế, thành tựu và những tồn tại trong công tác đấu thầu xây dựng của Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị Hà Nội; - Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao sức cạnh tranh đấu thầu xây dựng của Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị Hà Nội trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ - Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến đề tài, qua đó làm rõ cơ sở lý luận chung của hoạt động cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng; nghiên cứu những đặc điểm và xu hướng cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng; - Khảo sát các yếu tố khách quan và chủ quan tác động tới hoạt động cạnh tranh đấu thầu của Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị Hà Nội, qua đó chỉ ra những ưu điểm, tồn tại và hạn chế của Tổng Công ty trong những năm vừa qua; - Đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong đấu thầu, của Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị Hà Nội trong giai đoạn hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng Luận văn nghiên cứu cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng, các nhân tố ảnh hưởng và chi phối, thực trạng, giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh đấu thầu của doanh nghiệp, trực tiếp là Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị Hà Nội. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn ở những vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh đối với Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị Hà Nội trong việc đấu thầu xây dựng. Về mặt thời gian, luận văn khảo sát hoạt động kinh doanh và đánh giá tình hình cạnh tranh của Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị Hà Nội trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến nay và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh
  6. tranh của Tổng Công ty trong thời gian tới. 5. Phương pháp nghiên cứu Để hoàn thành mục tiêu nghiên cứu, luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin (duy vật biện chứng và duy vật lịch sử), phương pháp phân tích thực chứng trên cơ sở bám sát quan điểm của Đảng, Nhà nước để tiếp cận và giải quyết vấn đề. Bên cạnh đó luận văn sẽ sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học khác như: Lấy ý kiến chuyên gia, khảo sát thực tế, phương pháp so sánh, phương pháp xã hội học, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích kết hợp với tổng hợp... 6. Đóng góp của luận văn - Trên cơ sở nhận thức về tính cần thiết của cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng, luận văn phân tích thực trạng cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng của Tổng Công ty Đầu tư Phát triển Hạ tầng Đô thị Hà Nội, chỉ ra những ưu điểm, lợi thế, những tồn tại, hạn chế và những vấn đề đang đặt ra hiện nay đối với Tổng Công ty qua việc tạo lập, phát huy lợi thế, nâng cao năng lực cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng; - Đề xuất một số phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm nâng cao sức cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng, qua đó, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị Hà Nội. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, kết cấu của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
  7. Chương 1 Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về cạnh tranh trong đấu thầu của các doanh nghiệp xây dựng 1.1. Đấu thầu xây dựng và cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng 1.1.1. Đặc điểm của đấu thầu xây dựng Theo qui định tại mục 2, Điều 4, Chương 1, Luật Đấu thầu được Quốc hội nước Cộng hoà xó hội chủ nghĩa Việt Nam, thụng qua ngày 29 thỏng 11 năm 2005, thì: "Đấu thầu là quá trỡnh lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của bên mời thầu để thực hiện gói thầu thuộc các dự án quy định tại Điều 1 của Luật này trên cơ sở bảo đảm tính cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế" [17, tr. 2]. Xét trên phương diện chủ thể tham gia thì đấu thầu được chia làm hai loại đấu thầu trong nước và đấu thầu quốc tế. "Đấu thầu trong nước là quỏ trỡnh lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của bên mời thầu với sự tham gia của các nhà thầu trong nước" [17, tr. 2]. "Đấu thầu quốc tế là quá trỡnh lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của bên mời thầu với sự tham gia của các nhà thầu nước ngoài và nhà thầu trong nước" [17, tr. 2]. Như vậy, đấu thầu xây dựng là quá trình lựa chọn các nhà thầu có năng lực thực hiện những công việc có liên quan tới quá trình tư vấn, xây dựng, mua sắm thiết bị và lắp đặt các công trình, hạng mục công trình xây dựng... nhằm đảm bảo tính hiệu quả kinh tế, các yêu cầu kỹ thuật của dự án. Đấu thầu xây dựng là phương thức đấu thầu được áp dụng rộng rãi đối với hầu hết các dự án đầu tư xây dựng cơ bản. Đấu thầu xây dựng có các đặc điểm sau: Thứ nhất, về chủ thể tham gia đấu thầu xây dựng. Đấu thầu xây dựng là một trong những phương thức cạnh tranh nhằm lựa chọn các nhà thầu thực hiện những công việc như: tư vấn, khảo sát thiết kế, thi công xây lắp, mua sắm trang thiết bị... cho các công trình, hạng mục công trình xây dựng. Xét về thực chất, đây là một hoạt động mua
  8. bán mang tính đặc thù, tính đặc thù ở đây được thể hiện qua quá trình thực hiện của chủ thể tham gia. Thực chất đây là hoạt động cạnh tranh xuất phát từ mối quan hệ cung - cầu, diễn ra giữa hai chủ thể: cạnh tranh giữa bên mời thầu (chủ đầu tư) với các nhà thầu và cạnh tranh giữa các nhà thầu với nhau. Trong quá trình tham gia đấu thầu có nhiều chủ thể khác nhau như: chủ đầu tư (bên mời thầu) và các doanh nghiệp xây dựng có khả năng đáp ứng yêu cầu của chủ đầu tư. Các bên tham gia đấu thầu phải đảm bảo tuân thủ qui định của pháp luật về điều kiện tham gia đấu thầu. Đối với chủ đầu tư, phải là đơn vị có đủ năng lực về tài chính, có khả năng tổ chức thực hiện và quản lý dự án. Về phía các nhà thầu, đối với nhà thầu trong nước thì phải đáp ứng đủ các điều kiện: có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép kinh doanh và thực hiện đúng theo đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép kinh doanh do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp; hoặc có quyết định thành lập (đối với các đơn vị không có đăng ký kinh doanh) do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp và thực hiện theo đúng quyết định thành lập. Đối với nhà thầu là tổ chức nước ngoài thì phải có đăng ký hoạt động hợp pháp do cơ quan có thẩm quyền của nước nơi nhà thầu mang quốc tịch cấp. Đối với nhà thầu là cá nhân thì: 1) Phải là người từ đủ 18 tuổi trở lên; 2) Có hộ khẩu thường trú tại Việt Nam do cơ quan có thẩm quyền cấp; 3) Có đăng ký hoạt động hợp pháp hoặc chứng chỉ chuyên môn phù hợp do cơ quan có thẩm quyền cấp và thực hiện đúng theo đăng ký hoạt động hoặc chứng chỉ chuyên môn; 4) Không ở trong tình trạng bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đang trong thời gian chờ chấp hành các hình phạt của tòa án các cấp. Mặt khác, các nhà thầu phải đảm bảo sự độc lập về tài chính, theo đó, nhà thầu phải là đơn vị hạch toán kinh tế độc lập; không có cùng lợi ích kinh tế với các tổ chức và cá nhân liên quan [23, tr. 93]. Thứ hai, về đối tượng hàng hóa tham gia đấu thầu xây dựng. Hàng hóa tham gia đấu thầu xây dựng là hàng hóa đặc biệt, đó là các dự án xây lắp, các dự án cung ứng hàng hóa, các dự án tư vấn về thiết kế, giám sát, đầu tư… Các nhà thầu thực hiện việc cạnh tranh với nhau để tìm kiếm các cơ hội kinh doanh, đó là: đấu thầu tuyển chọn tư vấn thiết kế; đấu thầu mua sắm hàng hóa, thiết bị; đấu thầu xây lắp; đấu thầu thực hiện lựa chọn đối tác thực hiện dự án... Hàng hóa lúc đầu đem ra thị trường chưa được định giá một cách cụ thể, dựa trên các thông số yêu cầu về điều kiện kinh tế - kỹ thuật của dự án,
  9. doanh nghiệp và nhà đầu tư thông qua hình thức đấu thầu để xác định giá cả cụ thể của hàng hóa và các yêu cầu cụ thể về kỹ thuật và điều kiện thực hiện để hoàn tất việc mua bán. Hoạt động này diễn ra giữa người mua (chủ dự án) với người bán (nhà thầu) và giữa các nhà thầu với nhau nhằm bán được sản phẩm của mình. Thông qua cạnh tranh đấu thầu sẽ hình thành giá thầu - giá của hàng hóa đem ra bán đây cũng chính là giá dự toán của công trình. Thứ ba, về phương thức tổ chức đấu thầu, theo qui định của pháp luật có ba phương thức đấu thầu cơ bản mà chủ đầu tư dự án có thể lựa chọn tổ chức đấu thầu, đó là: đấu thầu một túi hồ sơ, đấu thầu hai túi hồ sơ và đấu thầu hai giai đoạn. Đấu thầu một túi hồ sơ, là phương thức mà nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu trong một túi hồ sơ. Phương thức này được áp dụng đối với đấu thầu mua sắm và xây lắp. Đấu thầu hai túi hồ sơ, là phương thức mà nhà thầu nộp đề xuất về kỹ thuật và đề xuất về giá trong từng túi hồ sơ riêng vào cùng một thời điểm. Túi hồ sơ đề xuất kỹ thuật sẽ được chủ dự án xem xét trước. Theo đó, những hồ sơ sau khi đánh giá đạt số điểm kỹ thuật từ 70% trở lên sẽ được mở tiếp túi hồ sơ đề xuất về giá để xem xét tiếp. Phương thức này trong lĩnh vực xây dựng thường chỉ áp dụng đối với đấu thầu tuyển chọn tư vấn. Phương thức đấu thầu hai giai đoạn chỉ áp dụng cho các trường hợp sau: - Các gói thầu mua sắm và xây lắp có giá từ 500 tỷ đồng trở lên; - Các gói thầu mua sắm hàng hóa có tính chất lựa chọn công nghệ thiết bị toàn bộ, phức tạp về công nghệ và kỹ thuật hoặc gói thầu xây lắp đặc biệt phức tạp. - Dự án thực hiện theo hợp đồng chìa khóa trao tay; Phương thức đấu thầu hai giai đoạn được thực hiện theo qui trình sau: - Giai đoạn 1: Các nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu sơ bộ trình bày các đề xuất về kỹ thuật và phương án tài chính cho bên mời thầu. Bên mời thầu xem xét, đánh giá và thảo luận cụ thể với từng nhà thầu nhằm thống nhất về yêu cầu và tiêu chuẩn kỹ thuật để nhà thầu chuẩn bị và nộp hồ sơ thầu chính thức;
  10. - Giai đoạn 2: Bên mời thầu mời các nhà thầu đã tham gia ở giai đoạn 1 nộp hồ sơ dự thầu chính thức với đề xuất kỹ thuật đã được bổ sung theo yêu cầu chung của dự án và đề xuất chi tiết về tài chính với đầy đủ nội dung về tiến độ thực hiện, điều kiện thực hiện hợp đồng, giá dự thầu [7, tr. 23]. Thứ tư, về hình thức tổ chức đấu thầu. Tùy theo từng dự án cụ thể, việc đấu thầu xây dựng được tổ chức theo hai hình thức cơ bản qui định tại Nghị định 88/1999/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 1999, đó là: đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế. Đấu thầu rộng rãi là hình thức chủ yếu được áp dụng phổ biến trong đấu thầu. Hình thức đấu thầu này không hạn chế số lượng nhà thầu tham gia. Bên mời thầu phải thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng tối thiểu 10 ngày trước khi phát hành hồ sơ mời thầu về các điều kiện kỹ thuật, thời gian dự thầu... Đấu thầu hạn chế, là hình thức đấu thầu mà bên mời thầu mời một số nhà thầu (tối thiểu là 5) có đủ kinh nghiệm và năng lực tham gia đấu thầu. Trong trường hợp không có đủ 5 nhà thầu tham dự, bên mời thầu phải báo cáo chủ dự án trình người có thẩm quyền xem xét, quyết định. Trên cơ sở của bên mời thầu về kinh nghiệm và năng lực của các nhà thầu một cách khách quan và công bằng, chủ dự án sẽ quyết định danh sách nhà thầu tham dự đấu thầu. Đấu thầu hạn chế chỉ áp dụng khi có một trong các điều kiện sau: - Chỉ có một số nhà thầu có khả năng đáp ứng yêu cầu của gói thầu; - Do nguồn vốn sử dụng yêu cầu phải tổ chức đấu thầu hạn chế; - Do tình hình cụ thể của gói thầu mà việc đấu thầu hạn chế có lợi thế. Thứ năm, về nguyên tắc đấu thầu. Khác với các hình thức mua bán hàng hóa khác, đấu thầu xây dựng phải tuân thủ các nguyên tắc mua bán đặc thù, đó là: nguyên tắc công bằng, bí mật, công khai, có đủ năng lực và trình độ, và đảm bảo cơ sở pháp lý. Nguyên tắc công bằng thể hiện quyền bình đẳng giữa các chủ thể tham gia quan hệ đấu thầu. Theo đó, các nhà thầu phải được đảm bảo đối xử bình đẳng trong việc tiếp nhận thông tin từ chủ đầu tư, bình đẳng trong việc trình bày các giải pháp kinh tế - kỹ
  11. thuật của mình trước chủ đầu tư, trong quá trình thực hiện các thủ tục tham gia đấu thầu (nộp hồ sơ, tham gia mở thầu...). Nguyên tắc bí mật đòi hỏi chủ đầu tư cũng như các nhà thầu phải giữ bí mật về các thông số trong hồ sơ dự thầu của các nhà thầu như: mức giá bỏ thầu, các giải pháp kỹ thuật của nhà thầu... Mục đích của nguyên tắc này là tạo ra tính khách quan và sự công bằng giữa các nhà thầu với nhau, đồng thời, cũng là biện pháp bảo vệ nhằm tránh thiệt hại cho chủ đầu tư trong trường hợp các nhà thầu bỏ thầu thấp hơn giá dự kiến do có sự rò rỉ thông tin. Nguyên tắc công khai là một trong những yêu cầu bắt buộc trong đấu thầu xây dựng (trừ những công trình đặc biệt, là bí mật quốc gia). Các công trình xây dựng khi đem ra đấu thầu đều phải đảm bảo tính công khai các thông tin cần thiết như: tính năng của công trình, điều kiện của các nhà thầu tham gia đấu thầu, thời gian mở hồ sơ dự thầu... Các thông tin này phải được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng theo qui định của pháp luật. Tuân thủ nguyên tắc này sẽ tạo ra sự công bằng giữa các nhà thầu và thu hút được nhiều nhà thầu, nâng cao chất lượng công tác đấu thầu. Nguyên tắc có đủ năng lực và trình độ đòi hỏi chủ đầu tư và các bên dự thầu phải có năng lực thực sự về kỹ thuật và tài chính để thực hiện những điều kiện cam kết khi tham gia đấu thầu. Tuân thủ nguyên tắc này sẽ tránh được thiệt hại cho các bên khi thực hiện các cam kết đã đề ra, qua đó, nâng cao chất lượng, tạo ra sân chơi bình đẳng cho các nhà thầu khi tham gia đấu thầu. Nguyên tắc đảm bảo cơ sở pháp lý đòi hỏi các bên tham gia đấu thầu phải chấp hành các qui định của nhà nước về nội dung, thủ tục đấu thầu và những cam kết trong hợp đồng giao nhận thầu. Khi các bên tham gia đấu thầu không tuân thủ nguyên tắc này, chủ dự án và cơ quan quản lý dự án có quyền kiến nghị hủy kết quả đấu thầu. 1.1.2. Đặc điểm của cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng Cạnh tranh có nghĩa là "cố gắng giành phần hơn, phần thắng về mình giữa những người, những tổ chức hoạt động nhằm những lợi ích như nhau" [3, tr. 108]. Trong kinh
  12. doanh, cạnh tranh có thể được hiểu là sự ganh đua giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm chiếm ưu thế trên cùng một đối tượng khách hàng, sản phẩm... nhằm giành thắng lợi về phía mình. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp xây dựng trong đấu thầu là sự cố gắng giành được quyền thực hiện các dự án thông qua gọi thầu với điều kiện thuận lợi và tối ưu nhất trên cơ sở nguồn nội lực và ngoại lực có khả năng khống chế được của doanh nghiệp nhằm mục đích tối đa hóa lợi ích kinh tế - xã hội. Cụ thể, cạnh tranh đấu thầu có thể được hiểu trên các khía cạnh sau: - Theo nghĩa hẹp, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp xây dựng trong đấu thầu là quá trình doanh nghiệp đưa ra những giải pháp về kỹ thuật, trang thiết bị, nhân lực, tiến độ thi công, giá bỏ thầu, ưu thế về kinh nghiệm...thể hiện tính ưu việt của mình so với nhà thầu khác nhằm thỏa mãn các yêu cầu của bên mời thầu trong việc thực hiện dự án. Cách hiểu này chỉ giới hạn ở khâu đấu thầu, chưa chỉ ra được sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong suốt quá trình sản xuất kinh doanh, do đó rất khó xác định được tính toàn diện của cạnh tranh trong quá trình đấu thầu. - Theo nghĩa rộng, cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng là sự ganh đua quyết liệt giữa các doanh nghiệp trong quá trình tìm kiếm thông tin, đưa ra các giải pháp về kỹ thuật, ưu thế về kinh nghiệm, điều kiện thực hiện dự án, giá bỏ thầu... nhằm đảm bảo trúng thầu và thực hiện các cam kết theo hợp đồng ký kết với chủ đầu tư. Cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng thường được hiểu theo nghĩa rộng, nó có một số đặc điểm sau: Thứ nhất, về chủ thể tham gia cạnh tranh đấu thầu xây dựng. Cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng thường có nhiều chủ thể tham gia, các chủ thể này có cùng mục tiêu theo đuổi đó là phải giành được những lợi thế về phía mình. Các chủ thể tham gia cạnh tranh đấu thầu phải tuân thủ các qui định của pháp luật, các thông lệ quốc tế và các ràng buộc về điều kiện tham gia đấu thầu do cơ quan quản lý dự án đặt ra. Các chủ thể khi tham gia đấu thầu đều phải cạnh tranh với nhau, điều này dẫn tới sự hình thành nhiều mối quan hệ cạnh tranh giữa các chủ thể khi tham gia đấu thầu. Đó là, mối quan hệ cạnh tranh giữa người bán và người mua, theo đó, người mua (bên mời thầu) thì muốn mua được
  13. công trình xây dựng có chất lượng cao, thời gian thi công ngắn, chi phí hợp lý, về phía những người bán (nhà thầu) thì muốn bán được công trình trong tương lai có giá cao với chi phí hợp lý và có lợi nhuận lớn nhất trong hạn độ bảo đảm các qui chuẩn của xây dựng. Thứ hai, về đối tượng của cạnh tranh đấu thầu xây dựng. Khi đánh giá và quyết định lựa chọn nhà thầu, chủ đầu tư thường căn cứ vào các tiêu chí để xét thầu, đó là: kinh nghiệm, năng lực của nhà thầu; khả năng tài chính; trình độ chuyên môn, kỹ thuật; tiến độ thi công và giá dự thầu. Trong đó, bên mời thầu chú ý nhiều nhất tới chất lượng, tính năng ưu việt về kỹ thuật và giá thành sản phẩm, đó cũng chính là đối tượng cạnh tranh giữa các nhà thầu với nhau. Cạnh tranh bằng chất lượng công trình, là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong việc đề xuất các giải pháp tốt nhất về khoa học - công nghệ nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn do bên mời thầu đưa ra. Để thắng thầu, doanh nghiệp phải không ngừng đầu tư, nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ nhằm nâng cao chất lượng công trình. Chất lượng công trình là một trong những yếu tố quan trọng nhất, nó khẳng định năng lực thi công, uy tín của doanh nghiệp. Mặt khác, chất lượng công trình còn góp phần không nhỏ trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, hoàn thành các mục tiêu kinh tế - kỹ thuật mà doanh nghiệp đã đề ra và thương hiệu của doanh nghiệp. Cạnh tranh bằng giá dự thầu cũng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quyết định đến thành công hay thất bại trong đấu thầu xây dựng. Do đó, xây dựng được mức giá bỏ thầu hợp lý là yêu cầu hàng đầu quan trong việc đảm bảo tính cạnh tranh và đạt hiệu quả kinh doanh cao của doanh nghiệp. Để tạo ra ưu thế cạnh tranh về giá trong cạnh tranh đòi hỏi doanh nghiệp phải nhanh nhạy và linh hoạt trong việc tìm hiểu thông tin về dự án, đối thủ cạnh tranh, mục tiêu của dự án, ưu thế của các doanh nghiệp khác trong cạnh tranh... Tùy theo từng công trình cụ thể dựa vào mục tiêu của công ty, tiềm lực tài chính, năng lực thi công từ đó xây dựng chính sách giá khác nhau để quyết định giá bỏ thầu. Cạnh tranh bằng tiến độ thi công. Tiến độ thi công thể hiện năng lực của nhà thầu trên các khía cạnh như; trình độ tổ chức và quản lý thi công, khả năng kỹ thuật, trang
  14. thiết bị máy móc và nguồn nhân lực. Nhà thầu cạnh tranh với nhau qua các tiêu chí này để giành những ưu thế trong đấu thầu. Thực hiện đầy đủ các cam kết về tiến độ thi công là điều kiện quan trong để thắng thầu cũng như nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thứ ba, về hình thức cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng. Trong đấu thầu xây dựng, tồn tại hai hình thức cạnh tranh chủ yếu là: cạnh tranh theo chiều rộng và cạnh tranh theo chiều sâu. Cạnh tranh theo chiều rộng (cạnh tranh có giới hạn) bao gồ m các yếu tố chính như: Đa dạng hóa các công trình xây dựng mà doanh nghiệp kinh doanh trên cơ sở nguồn lực hiện có; cải tiến phương thức thanh toán và các điều kiện thi công trong hợp đồng nhận thầu; nâng cao năng lực xây dựng hồ sơ dự thầu, đặc biệt là hoạt động giới thiệu và thông tin về doanh nghiệp; đổi mới công tác tổ chức thi công; tăng cường hoạt động tìm kiếm thông tin kinh tế; đẩy mạnh hoạt động marketing, truyền thông... Cạnh tranh theo chiều sâu (cạnh tranh không có giới hạn) là sự đầu tư của doanh nghiệp thông qua việc nâng cấp thiết bị thi công, nghiên cứu và ứng dụng những tiến bộ của khoa học - công nghệ vào thi công, nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ khoa học và công nhân, viên chức trong doanh nghiệp. Cạnh tranh theo chiều sâu thực chất là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp thông qua việc đầu tư nghiên cứu nhằm nâng cao hàm lượng khoa học - kỹ thuật của hàng hóa chào bán nói riêng (công trình) và năng lực khoa học của doanh nghiệp nói chung. Trong thực tế, doanh nghiệp thường thực hiện cả hai hình thức trên để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. 1.1.3. Các tiêu chí đánh giá khả năng cạnh tranh đấu thầu của doanh nghiệp xây dựng Khả năng cạnh tranh trong đấu thầu của doanh nghiệp thường được đánh giá qua các tiêu chí như: năng lực tài chính, số lượng công trình trúng thầu, giá trị công trình trúng thầu; tỷ lệ thắng thầu trong các dự án; chỉ tiêu về lợi nhuận của doanh nghiệp; chỉ
  15. tiêu về chất lượng công trình; chỉ tiêu về kinh nghiệm, năng lực của nhà thầu... Cụ thể: - Năng lực tài chính của doanh nghiệp Năng lực tài chính của doanh nghiệp thường được đánh giá qua các chỉ tiêu sau đây: * Hệ số vay nợ Tổng tài sản nợ Hệ số vay nợ = Tổng tài sản Hệ số này phản ánh khả năng tự chủ về tài chính của doanh nghiệp, hệ số này càng cao thì khả năng tự chủ về tài chính của doanh nghiệp càng giảm. Do đó, khi khả năng thanh toán lãi vay thấp, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong huy động vốn vay và sẽ không đáp ứng đủ vốn khi nhu cầu vốn lưu động của công trình tăng. * Khả năng thanh toán lãi vay Lợi nhuận trước thuế +tiền lãi vay Khả năng thanh toán lãi vay = Lãi tiền vay Hệ số này phản ánh khả năng thanh toán tiễn lãi vay của doanh nghiệp. Nếu tỷ lệ này thấp sẽ làm giảm khả năng trả lãi và lợi nhuận của doanh nghiệp. Đây là một trong những tiêu chí để các ngân hàng xem xét khi cung ứng các khoản vay của doanh nghiệp. * Khả năng thanh toán hiện hành Tài sản lưu động Khả năng thanh toán hiện hành = Nợ ngắn hạn * Khả năng thanh toán nhanh
  16. Tài sản lưu động - Hàng hóa tồn kho Khả năng thanh toán nhanh = Nợ ngắn hạn * Khả năng thanh toán tức thời Tiền mặt Khả năng thanh toán tức thời = Nợ ngắn hạn - Lợi nhuận của doanh nghiệp. Hệ số doanh lợi bao gồm: Lợi nhuận sau thuế Tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu = Doanh thu Lợi nhuận sau thuế Tỷ lệ lợi nhuận trên vốn = sản xuất kinh doanh Vốn sản xuất kinh doanh Hệ số này phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh và kết quả cạnh tranh đấu thầu của doanh nghiệp, hệ số này tỷ lệ thuận với hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Số lượng công trình trúng thầu và giá trị công trình trúng thầu. Tiêu chí này phản ánh một cách khái quát kết quả, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong hoạt động đấu thầu, tình hình dự thầu, kết quả hoạt động đấu thầu nói riêng và kết quả kinh doanh nói chung của doanh nghiệp trong năm. Số lượng công trình trúng thầu phản ánh khả năng và qui mô của doanh nghiệp trong cạnh tranh đấu thầu. Giá trị trúng thầu hằng năm của doanh nghiệp là tổng giá trị của tất cả các công trình (kể cả gói thầu trong hạng mục công trình) mà doanh nghiệp đã trúng thầu trong năm. Giá trị công trình trúng thầu trong năm phản ánh năng lực và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trong năm. Chỉ tiêu này càng lớn, chứng tỏ công tác đấu thầu của doanh nghiệp có hiệu
  17. quả và ngược lại. - Tỷ lệ trúng thầu trong các dự án Tiêu chí này phản ánh năng lực cạnh tranh đấu thầu của doanh nghiệp, nó được xác định dựa trên hai chỉ tiêu: theo số công trình và theo giá trị công trình trong năm. Chỉ số này tỷ lệ thuận với năng lực cạnh tranh đấu thầu của doanh nghiệp. Tỷ lệ này được tính như sau: * Tính theo số công trình  Ctt P1 = x 100%  Cdt Trong đó: P1: Tỷ lệ trúng thầu theo số công trình doanh nghiệp dự thầu Ctt: Số công trình trúng thầu Cdt: Số công trình doanh nghiệp dự thầu * Tính theo giá trị công trình  Gtt P2 = x 100%  Gdt Trong đó: P2: Tỷ lệ trúng thầu theo giá trị công trình Gtt: Giá trị công trình trúng thầu Gdt: Giá trị công trình dự thầu - Chất lượng dự án Chất lượng các dự án chính là chất lượng hàng hóa mà doanh nghiệp bán ra. Chất lượng dự án là tổng hợp các đặc tính theo yêu cầu của sản phẩm, của qui trình xây dựng
  18. và của người sử dụng. Chỉ tiêu về chất lượng các dự án đó là sự đáp ứng các yêu cầu kinh tế - kỹ thuật của dự án. Trong lĩnh vực xây dựng, chất lượng sản phẩm chính là chất lượng các công trình xây dựng, nó biểu hiện ở công năng sử dụng, độ an toàn, tuổi thọ, tính kinh tế, tính kỹ thuật và mỹ thuật của công trình. Với sự phát triển của khoa học - công nghệ hiện nay, cạnh tranh thông qua chất lượng các dự án là sự cạnh tranh hết sức gay gắt và không có giới hạn. Nghiên cứu, ứng dụng những tiến bộ khoa học - kỹ thuật, nâng cao chất lượng các dự án là việc làm thường xuyên của doanh nghiệp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. - Năng lực kỹ thuật của doanh nghiệp. Năng lực kỹ thuật của doanh nghiệp là một trong những yếu tố quyết định chất lượng của công trình, là yếu tố quan trọng, có tác động lớn đến thành công hay thất bại của doanh nghiệp trong công tác đấu thầu. Đây là yếu tố hàng đầu quyết định đến uy tín trên thương trường, tiến độ thực hiện dự án và năng lực thi công của doanh nghiệp. Năng lực kỹ thuật của doanh nghiệp được xác định dựa trên một số tiêu chí sau: - Khả năng đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật của bên mời thầu; - Tính hợp lý, tính tối ưu và tính khả thi của các giải pháp kỹ thuật; - Khả năng đáp ứng các yêu cầu về an toàn lao động, vệ sinh môi trường; - Khả năng đáp ứng của thiết bị thi công (số lượng, chủng loại, chất lượng, công nghệ, tiến độ huy động...) - Uy tín và kinh nghiệm của nhà thầu Khi đánh giá các tiêu chí để lựa chọn nhà thầu, chủ dự án không chỉ căn cứ vào tiêu chuẩn kỹ thuật, giá công trình do doanh nghiệp đưa ra mà chủ đầu tư còn xem xét đến uy tín trên thương trường và kinh nghiệm của doanh nghiệp trong quá trình thực hiện các dự án tương tự trước đó. Uy tín của nhà thầu được thể hiện qua các tiêu chí như: uy tín về thương hiệu, uy tín về năng lực thi công, uy tín về năng lực tài chính và đội ngũ cán bộ, công nhân viên lành nghề. Đó là những yếu tố hết sức quan trọng tác động đến khả năng trúng thầu của doanh nghiệp, vì vậy, doanh nghiệp luôn xem việc xây dựng
  19. thương hiệu, uy tín trên thương trường là yếu tố hết sức quan trọng trong chiến lược phát triển của mình. - Giá bỏ thầu Giá bỏ thầu có tác động rất lớn đến thành công hay thất bại của doanh nghiệp trong quá trình tham gia đấu thầu. Khi tham gia dự thầu, các doanh nghiệp mong muốn đưa ra một mức giá hợp lý, thấp hơn giá của đối thủ cạnh tranh nhằm lôi kéo sự chú ý của chủ đầu tư, điều này làm cho việc cạnh tranh về giá giữa các doanh nghiệp diễn ra hết sức khốc liệt. Khác với các sản phẩm tiêu dùng thông thường, giá của công trình xây dựng được xác định trước khi có công trình và được xác định thông qua đấu thầu. Giá công trình xây dựng được ghi trong hồ sơ dự thầu và được gọi là giá bỏ thầu. Khả năng cạnh tranh về giá của nhà thầu có thể được xác định qua các tiêu chí sau: Gi KG = GA Trong đó: KG: Là hệ số cạnh tranh về giá của nhà thầu GA: Là giá gói thầu Gi: Là giá dự thầu của nhà thầu thứ i (i = 1  m) Trong thực tế, giá bỏ thầu còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như: - Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội nơi thực hiện dự án, đó là: đường giao thông, điện, nước, khả năng khai thác vật tư tại chỗ, trình độ dân trí; - Đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của dự án, - Tiến độ thực hiện dự án Đối với những dự án xây dựng lớn, thời gian triển khai thường kéo dài, do đó nảy
  20. sinh nhiều vấn đề như: trượt giá vật tư, chi phí quản lý cao, công trình chậm được đưa vào sử dụng....ảnh hưởng đến tính hiệu quả của dự án. Vì vậy, chủ đầu tư thường rất quan tâm đến tiến độ thực hiện dự án của doanh nghiệp và đây là một trong những tiêu chí để xem xét khả năng trúng thầu. Tiến độ thực hiện dự án xây dựng thường được xem xét trên các khía cạnh: - Khả năng đảm bảo tiến độ theo qui định đã cam kết; - Tính hợp lý về tiến độ hoàn thành các hạng mục công trình liên quan; - Khả năng rút ngắn tiến độ thi công. 1.2. Những nhân tố tác động đến cạnh tranh đấu thầu xây dựng của doanh nghiệp 1.2.1. Nguồn lực cạnh tranh của doanh nghiệp 1.2.1.1. Nguồn nhân lực Nguồn nhân lực đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với sự thành công hay thất bại trong kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn nhân lực của doanh nghiệp thường được xem xét dựa trên các cấp độ sau: - Nguồn nhân lực cấp cao Nguồn nhân lực cấp cao của doanh nghiệp là người hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện chiến lược phát triển của công ty hoặc là những người am hiểu có trình độ chuyên môn sâu, vai trò của họ rất quan trọng, có tác động lớn đến hiệu quả kinh doanh. Vai trò này thể hiện qua việc họ là người trực tiếp xây dựng, sử dụng các công cụ để hiện thực hóa chính sách phát triển doanh nghiệp trong thực tiễn sản xuất kinh doanh, là người có khả năng đề ra các giải pháp tối ưu về kinh tế và kỹ thuật có lợi cho doanh nghiệp. Đội ngũ cán bộ cấp cao có trình độ chuyên môn, trình độ quản lý, năng động, sáng tạo là yếu tố hết sức quan trọng, tác động rất lớn đến sự phát triển của doanh nghiệp nói chung và hiệu quả của cạnh tranh trong đấu thầu nói riêng. Chính vì vậy, xây dựng nguồn nhân lực cấp cao luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp hiện nay.
nguon tai.lieu . vn