Xem mẫu

  1. LUẬN VĂN: Công đoàn trong việc nâng cao ý thức chính trị của giai cấp công nhân ở nước ta hiện nay
  2. Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của GCCN, của người lao động. Công đoàn có vai trò quan trọng trong việc tập hợp, đoàn kết, giáo dục, rèn luyện, xây dựng GCCN. Vai trò này của Công đoàn Việt Nam đã được Hiến pháp Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Luật Công đoàn khẳng định. Từ khi ra đời, qua các chặng đường lịch sử gian khổ và vinh quang của đất nước, Công đoàn Việt Nam đã trưởng thành nhanh chóng, thể hiện rõ vai trò của mình, đặc biệt trong việc tuyên truyền giáo dục, giác ngộ ý thức chính trị cho GCCN, để GCCN thấy rõ và từng bước hoàn thành SMLS của mình. Công đoàn Việt Nam đã góp phần không nhỏ vào thắng lợi của cách mạng nước ta, đã xứng đáng với niềm tin của Đảng, là chỗ dựa vững chắc của Nhà nước và là trường học CNCS của GCCN. Ngày nay, thế giới đang có những biến đổi lớn lao và đầy phức tạp. Cách mạng khoa học và công nghệ có bước tiến nhảy vọt thúc đẩy mọi mặt đời sống xã hội. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Toàn cầu hóa là xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều n ước tham gia... Trong khi đó thì CNXH ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, CNTB hiện đại lại đang nắm ưu thế về nhiều mặt... Thế giới đang chứa đựng nhiều mâu thuẫn vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh. Đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp tiếp tục diễn ra gay gắt. Những vấn đề toàn cầu đang đặt ra trách nhiệm nặng nề cho nhân loại: bảo vệ môi trường, hạn chế sự bùng nổ dân số, đẩy lùi dịch bệnh hiểm nghèo, chống tội phạm quốc tế... Đất nước sau nhiều năm đổi mới đã có những thành tựu to lớn và rất quan trọng làm cho thế và lực của chúng ta lớn mạnh lên nhiều. Thế nhưng, vẫn còn nhiều yếu kém và khuyết điểm: kinh tế phát triển chưa vững chắc, một số vấn đề văn hóa - xã hội bức xúc chưa được giải quyết, cơ chế và chính sách không đồng bộ, tham nhũng, suy thoái về
  3. tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống ở một số bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng... Đất nước vẫn phải đối mặt với bốn nguy cơ mà Đảng ta đã từng chỉ ra là: tụt hậu xa hơn về kinh tế, chệch hướng XHCN, tham nhũng và quan liêu, "diễn biến hòa bình". Tất cả những vấn đề trên của quốc tế và dân tộc đã tác động trực tiếp theo hướng cả tích cực lẫn tiêu cực đến tư tưởng, nhận thức của công nhân nước ta. Đảng ta, trong Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VII) đã lưu ý có "một bộ phận công nhân chưa nhận thức được vai trò và nhiệm vụ của giai cấp mình, thiếu tính tiền phong cách mạng" [6, tr. 68]. Vì vậy, sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, như Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh, đang đòi hỏi GCCN Việt Nam - lực lượng đi đầu trong sự nghiệp ấy, phải được "... coi trọng phát triển về số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp..." [9, tr. 124]. Công đoàn Việt Nam với tư cách là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của GCCN đã góp phần to lớn vào xây dựng GCCN nước ta phát triển toàn diện. Công đoàn Việt Nam thực sự đã là hình ảnh đẹp đẽ, là niềm tin yêu và hy vọng của GCCN Việt Nam. Tuy thế, trước yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng nước ta, hoạt động của Công đoàn, trong đó có nhiệm vụ nâng cao ý thức chính trị của GCCN, còn nhiều bất cập. Vì vậy, đề tài " Công đoàn trong việc nâng cao ý thức chớnh trị của giai cấp cụng nhõn ở nước ta hiện nay " mang tính cấp bách và thiết thực. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Trước yêu cầu của thực tiễn xây dựng GCCN vững mạnh về mọi mặt, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng XHCN, xuất phát từ tầm quan trọng của việc nâng cao vai trò của Công đoàn để đáp ứng đòi hỏi của thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, nhiều nhà nghiên cứu lý luận Việt Nam đã tập trung nghiên cứu về GCCN và Công đoàn. Có thể liệt kê một số tác giả, tác phẩm mới được công bố những năm gần đây như: "Giai cấp công nhân Việt Nam mấy vấn đề lý luận và thực tiễn " của Bùi Đình Bôn, Nxb Lao động, 4-1996; "Một số vấn đề về giai cấp công
  4. nhân và lao động Việt Nam" của Văn Tạo, Nxb Chính trị quốc gia, 4-1997; "Đảng Cộng sản Việt Nam với giai cấp công nhân và Công đoàn Việt Nam", Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam - Ban Tư tưởng - văn hóa, Nxb Lao động, Hà Nội, 2000; "Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam - Viện Công nhân và Công đoàn, Nxb Lao động, Hà Nội, 1999... Ngoài ra, còn có một số bài nghiên cứu về GCCN và lao động trên các tạp chí, các báo như: "Giai cấp công nhân phát huy truyền thống vẻ vang đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" của Lê Khả Phiêu, Báo Nhân Dân, 1998, ngày 6 tháng 11; "Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam đáp ứng yêu cầu mới của lịch sử" của Nguyễn Viết Vượng, Báo Nhân Dân, 1998, ngày 1 tháng 11; "Vấn đề xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nước ta" của Hoàng Chí Bảo, Tạp chí Khoa học Chính trị, 1998, số 1; "Giai cấp công nhân Việt Nam tự nhận thức về giai cấp mình trong thời đại mới" của Văn Tạo, Tạp chí Lao động và Công đoàn, tháng 1 năm 2000; "Công đoàn Việt Nam với cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng" của Cù Thị Hậu, Tạp chí Cộng sản, tháng 4 năm 2000; "Mấy suy nghĩ về công tác đào tạo, quy hoạch cán bộ Công đoàn hiện nay" của Lê Phan Ngọc Rỉ, Tạp chí Lao động và Công đoàn, ngày 2 tháng 8 năm 1999... Các công trình và bài viết nêu trên phần lớn tập trung phân tích và khẳng định những luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về SMLS của GCCN, đồng thời đặt nó trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Về Công đoàn, các công trình, bài viết đó cũng chỉ đề cập đến mối quan hệ giữa Đảng và Công đoàn, những giải pháp để nâng cao vai trò của Công đoàn nói chung. Vấn đề "Công đoàn trong việc nâng cao ý thức chính trị của giai cấp công nhân" chưa trình bày một cách cơ bản và có hệ thống trong bất kỳ một công trình khoa học nào, nếu có chỉ được trình bày lướt qua, đề cập đến một biểu hiện nào đó của vấn đề. Vì vậy, đề tài "Công đoàn trong việc nâng cao ý thức chính trị của giai cấp công nhân ở nước ta hiện nay" không trùng lặp với các công trình, bài viết đã được công bố. Trong đề tài này, tác giả đã kế thừa có chọn lọc các kết quả của những công trình có trước, tiếp tục bổ sung, phát triển hơn nữa, góp phần làm sáng tỏ vấn đề. Tác giả cũng
  5. hy vọng rằng có thể vận dụng được những kết quả nghiên cứu vào hoạt động thực tiễn để tổ chức Công đoàn đạt được hiệu quả tốt hơn trong việc nâng cao ý thức chính trị cho GCCN để GCCN xứng đáng là giai cấp lãnh đạo quá trình CNH, HĐN đất nước. 3. Mục tiêu, nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục tiêu Luận văn nhằm khẳng định vai trò to lớn của Công đoàn Việt Nam trong việc nâng cao ý thức chính trị cho GCCN, từ đó đưa ra những giải pháp để tổ chức Công đoàn thực hiện tốt hơn nữa vai trò này của mình trong thực tiễn đổi mới của đất nước hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ Để thực hiện được mục tiêu trên, luận văn phải giải quyết những nhiệm vụ sau đây: Một là: Làm rõ khái niệm "ý thức chính trị", những biểu hiện của ý thức chính trị của GCCN Việt Nam và sự cần thiết phải nâng cao ý thức chính trị của GCCN trong giai đoạn hiện nay. Hai là: Phân tích vai trò quan trọng của Công đoàn trong việc nâng cao ý thức chính trị của GCCN Việt Nam. Qua đó, đánh giá đúng những thành tựu và hạn chế của việc thực hiện vai trò này trong thời gian vừa qua. Ba là: Đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của Công đoàn trong việc nâng cao ý thức chính trị của GCCN nước ta để GCCN thực sự trở thành giai cấp tiên tiến của xã hội, là giai cấp đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐN của đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn bàn đến vai trò của Công đoàn Việt Nam, nhưng chủ yếu ở các hoạt động tác động đến ý thức chính trị của GCCN. Cũng như vậy, luận văn đề cập đến GCCN Việt Nam, nhưng tập trung chính vào các biểu hiện của ý thức chính trị của giai cấp này.
  6. Bối cảnh thực tiễn của các vấn đề được nêu ở luận văn chỉ chủ yếu giới hạn trong giai đoạn đổi mới đất nước hiện nay. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, phương pháp kết hợp lôgic và lịch sử, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh và điều tra xã hội học trong việc nghiên cứu để thực hiện được nhiệm vụ và đạt được mục đích mà luận văn đề ra. 6. Những đóng góp mới của luận văn Quan niệm về ý thức chính trị của GCCN thông qua việc chỉ ra những biểu hiện cơ bản của nó trong điều kiện hiện nay ở nước ta. Trình bày một cách có hệ thống những giải pháp để Công đoàn phát huy vai trò quan trọng của mình trong việc nâng cao ý thức chính trị cho GCCN nhằm đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục các tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
  7. Chương 1 ý thức chính trị và sự cần thiết phải nâng cao ý thức chính trị cho giai cấp công nhân nước ta 1.1. ý thức chính trị 1.1.1. Quan niệm về ý thức chính trị Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, toàn bộ đời sống xã hội chia thành hai lĩnh vực lớn: vật chất và tinh thần. Đó là tồn tại xã hội và ý thức xã hội. ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội. Nó bao gồm tình cảm, tập quán, truyền thống, quan điểm, tư tưởng, lý luận.v.v. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Tồn tại xã hội như thế nào, ý thức xã hội như thế ấy. Khi tồn tại xã hội biến đổi, thì những tư tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, văn học, nghệ thuật... sớm muộn cũng biến đổi theo. Tuy nhiên, ý thức xã hội cũng có tính độc lập tương đối, nó có những tư tưởng tiến bộ, vượt trước so với tồn tại xã hội và nó có tác động trở lại đối với tồn tại xã hội. ý thức xã hội được thể hiện dưới nhiều hình thái cụ thể như chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết học, nghệ thuật, tôn giáo,khoa học... Mỗi hình thái ý thức xã hội phản ánh một đối tượng nhất định, một phạm vi nhất định của tồn tại xã hội nhưng giữa chúng có mối liên hệ với nhau. ở mỗi thời đại, tùy theo những hoàn cảnh lịch sử xã hội cụ thể mà thường có những hình thái ý thức nào đó nổi lên hàng đầu, ở chúng biểu hiện tập trung ý thức của thời đại đó và tác động mạnh đến các hình thái ý thức khác. Tuy nhiên, trong tính tổng thể của ý thức xã hội, thì ý thức chính trị có tầm quan trọng. Nó quyết định đến xu hướng và bản chất của các hình thái ý thức xã hội khác. Vậy, ý thức chính trị là gì? Để hiểu ý thức chính trị, cần bắt đầu từ việc nghiên cứu khái niệm chính trị và ý thức. Chính trị theo nguyên nghĩa của nó, là những công việc nhà nước hay công việc xã
  8. hội liên quan với Nhà nước, là phạm vi hoạt động gắn với những quan hệ giai cấp, dân tộc và các nhóm xã hội khác nhau mà hạt nhân của nó là vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước. Theo Lênin, cái quan trọng nhất trong chính trị là "Tổ chức chính quyền nhà nước", chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, các cộng đồng xã hội về vấn đề nhà nước; là sự tham gia của nhân dân vào các công việc nhà n ước; là tổng hợp những phương hướng, những mục tiêu được quy định bởi lợi ích cơ bản của giai cấp, của đảng phái; là hoạt động thực tiễn của các giai cấp, các đảng phái, các Nhà nước để thực hiện đường lối đã được lựa chọn nhằm đạt được những mục tiêu đã đặt ra. ý thức là sự phản ánh thế giới xung quanh vào bộ não của con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Sự phản ánh ý thức là hình ảnh chủ quan vì nó không có tính vật chất, nó là hình ảnh tinh thần, nó cải biến cái vật chất được di truyền vào trong bộ não của con người thành cái tinh thần. ở đây không phải sự phản ánh tùy tiện, xuyên tạc hiện thực khách quan và cũng không phải là sự phản ánh thụ động giản đơn mà là sự phản ánh sáng tạo hiện thực khách quan. Từ khái niệm về chính trị và ý thức, có thể nhận thấy rằng ý thức chính trị chính là sự hiểu biết, sự quan tâm đến những vấn đề chính trị. Cụ thể hơn, ý thức chính trị là sự phản ánh các quan hệ kinh tế - xã hội, phản ánh những lợi ích cơ bản và địa vị của các giai cấp và mối quan hệ giữa các giai cấp đó trong việc giành hoặc duy trì quyền điều hành nhà nước. Theo Lênin, ý thức chính trị bao gồm: "Những mối quan hệ giữa tất cả các giai cấp, các tầng lớp với Nhà nước và Chính phủ, lĩnh vực những mối quan hệ giữa tất cả các giai cấp với nhau" 21, tr. 101. ý thức chính trị rất phong phú nhưng cái cốt lõi của nó là những hiểu biết, những nhận thức của một giai cấp về địa vị lịch sử, về đường lối, chiến lược, sách lược, những nhiệm vụ của giai cấp mình trong sự phát triển của lịch sử. Theo Lênin, chính trị là tham gia vào các công việc của Nhà nước, các định hướng của Nhà nước, xác định hình thức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà nước. Vì
  9. thế, ý thức chính trị còn là sự nhận thức về Nhà nước, về mục tiêu, nhiệm vụ cũng như con đường, lực lượng xã hội để thể hiện mục tiêu, nhiệm vụ của Nhà nước đó và sự tham gia của chủ thể vào hoạt động của Nhà nước đó. Nhà nước bao giờ cũng là Nhà nước của một giai cấp nhất định, bị chi phối trực tiếp của một đảng phái nào đó. Bên cạnh những đảng phái cầm quyền là nhiều đảng phái khác nữa (cả đảng đối lập và đảng không đối lập) đại biểu cho hệ tư tưởng, cho lợi ích của các giai cấp trong xã hội. Mọi quan hệ giữa các đảng phái ấy là chính trị. Vì thế ý thức chính trị đồng thời với việc nhìn nhận Nhà nước, là thái độ đối với hoạt động của các đảng phái. Trung tâm của đời sống chính trị là quyền lực chính trị. Quyền lực chính trị là quyền lực của một giai cấp hay của liên minh giai cấp, tập đoàn xã hội, nó nói lên khả năng của một giai cấp thực hiện lợi ích của mình: "Quyền lực chính trị, theo đúng nghĩa của nó, là bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp một giai cấp khác" 29, tr. 628. Quyền lực chính trị nói lên thực chất hoạt động chính trị của mọi giai cấp, mọi đảng phái trong xã hội có giai cấp. Giai cấp nào, nhóm xã hội nào cũng muốn nắm, muốn chi phối quyền lực chính trị. Vì nắm được quyền lực chính trị là nắm được công cụ cơ bản, trọng yếu để giải quyết quan hệ lợi ích với các giai cấp khác, nhóm xã hội khác theo hướng có lợi cho giai cấp mình, nhóm mình. Do đó, ý thức chính trị còn thể hiện ở sự nhận thức được nhu cầu, lợi ích chính trị, hay nói cách khác, là sự nhận thức về quyền lực chính trị. Đối với mỗi công dân nói chung thì nhu cầu và lợi ích chính trị thể hiện ở sự nhận thức được quyền và nghĩa vụ công dân. Chính trị xuất hiện khi xã hội phân chia thành giai cấp và mâu thuẫn giữa các giai cấp trở nên gay gắt không thể điều hòa được. Trong xã hội có giai cấp, mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều có một kết cấu giai cấp nhất định, trong đó có những giai cấp cơ bản, những giai cấp không cơ bản và những tầng lớp xã hội. Vì vậy, ý thức chính trị còn thể hiện ở quan điểm giải quyết mối quan hệ giữa các lợi ích chính trị mà các giai cấp, tầng lớp xã hội đó đang theo đuổi; ở sự liên minh giai cấp, đấu tranh và hợp tác giữa các giai cấp, tầng lớp vì những yêu cầu nhất định.
  10. Chính trị thực chất là quan hệ về lợi ích giữa các giai cấp, các nhóm xã hội, các quốc gia dân tộc. Trong đó, trước hết và cơ bản là lợi ích kinh tế. Lênin đã cho rằng: "Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế". Điều đó có nghĩa là sự hình thành, tồn tại và phát triển của chính trị là trên cơ sở những đòi hỏi khách quan của sự phát triển kinh tế, của thực trạng kinh tế, của sự liên hệ những lợi ích kinh tế cơ bản của các giai cấp, tầng lớp khác nhau. Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội thông qua hoạt động chính trị của các tổ chức chính trị của mình để phản ánh trực tiếp vị trí, lợi ích cơ bản của giai cấp, tầng lớp mình. Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế nên ý thức chính trị cũng gắn trực tiếp với vấn đề kinh tế. ý thức chính trị thuộc kiến trúc thượng tầng của cơ sở kinh tế xác định, thuộc ý thức xã hội bị quyết định bởi tồn tại xã hội. Tuy nhiên, chính trị và ý thức chính trị không phải là hậu quả tiêu cực của kinh tế mà có sự tác động trở lại đối với kinh tế. Nếu như không có một đường lối chính trị đúng đắn thì một giai cấp nhất định nào đó không thể giữ vững được sự thống nhất chính trị của mình và do đó, cũng không thể hoàn thành được nhiệm vụ kinh tế. ý thức chính trị là một hình thái ý thức xã hội nên nó cũng có hai cấp độ chính. Đó là cấp độ thực tiễn - đời thường và cấp độ tư tưởng - lý luận. ý thức chính trị thực tiễn - đời thường là biểu hiện của các dạng tâm lý, cảm xúc, mơ ước... nảy sinh tự phát từ trong hoạt động thực tiễn, kinh nghiệm, xã hội của con người, từ môi trường xung quanh và từ ảnh hưởng chính trị trực tiếp nào đó. ý thức chính trị thực tiễn - đời thường chưa có tính hệ thống, không có tầm nhìn lịch sử rộng lớn, không có công thức lý luận, phạm trù triết học. Nhưng điều đó cũng không có nghĩa là nó tầm thường, ít giá trị, mà ngược lại, nó có nội dung rất phong phú, bao hàm được nhiều mặt của đời sống chính trị, và ở một mức độ nào đó nó đã phản ánh được bản chất của các vấn đề chính trị. So với cấp độ tư tưởng - lý luận thì ý thức chính trị ở cấp độ thực tiễn - đời thường có điểm mạnh ở chỗ nó gần hơn với hiện thực trực tiếp của đời sống chính trị, do đó nó có thể phản ánh đầy đủ, toàn vẹn hơn những chi tiết của đời sống chính trị. Vì vậy, ý thức chính trị thực tiễn - đời thường là kho tàng để ý thức chính trị có tính lý luận tìm kiếm và khái quát thành nội dung của mình.
  11. ở cấp độ thứ hai - cấp độ tư tưởng - lý luận, ý thức chính trị được biểu hiện là những tư tưởng, quan điểm chính trị đã được hệ thống hóa thành một chỉnh thể mang tính hợp lý, tính khoa học, phản ánh được mối liên hệ bản chất, tất yếu, phổ biến của các hiện tượng trong đời sống chính trị, được diễn tả dưới dạng các khái niệm khoa học và đỉnh cao là các học thuyết chính trị - hệ tư tưởng chính trị. Hệ tư tưởng - chính trị là hệ thống những quan điểm tư tưởng thể hiện lợi ích căn bản của một giai cấp nhất định, được cụ thể hóa trong cương lĩnh chính trị, trong đường lối chiến lược và sách lược của chính đảng và luật pháp, chính sách của Nhà nước. Hệ tư tưởng chính trị không tách rời tổ chức và cơ quan chính trị, thông qua các tổ chức và cơ quan đó mà một giai cấp nhất định tiến hành cuộc đấu tranh cho lợi ích giai cấp. Hệ tư tưởng chính trị của giai cấp nắm chính quyền có vai trò rất to lớn trong đời sống xã hội. Nó tác động trở lại cơ sở kinh tế thông qua các tổ chức nhà nước, biểu hiện ở chỗ nó thông qua quyền lực nhà nước để bảo vệ và phát triển nền tảng kinh tế mà giai cấp cầm quyền là người đại diện cho quan hệ sản xuất chiếm địa vị thống trị trong xã hội đó. Hệ tư tưởng chính trị còn giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội nói chung. Thông qua tổ chức nhà nước sẽ xác lập vị trí chi phối của hệ tư tưởng - chính trị của giai cấp cầm quyền trong văn hóa, nếp sống và mọi lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội. Bằng cách đó giai cấp cầm quyền hy vọng hình thành được sự thống nhất về chính trị, tư tưởng, tinh thần trong xã hội mà hệ tư tưởng chính trị của nó đứng ở vị trí trung tâm, mang tính chi phối. Các hình thái ý thức xã hội đều chịu sự chi phối của ý thức chính trị, phục tùng đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền. Hệ tư tưởng - chính trị của một giai cấp có thể là tiến bộ, cách mạng nhưng cũng có thể là lạc hậu, phản cách mạng. Điều đó tùy thuộc vào vai trò lịch sử của giai cấp đó quyết định. Khi giai cấp đó còn là giai cấp tiến bộ, cách mạng, tiêu biểu cho tiến trình lịch sử thì hệ tư tưởng - chính trị của nó là tiến bộ, phản ánh đúng hiện thực của đời sống chính trị và có tác động tích cực đến sự phát triển của xã hội. Khi giai cấp đó trở thành lạc hậu, không còn vai trò lịch sử thì hệ tư tưởng của nó là phản khoa học, phản ánh xuyên tạc, sai lầm các hiện thực trong đời sống chính trị và nó sẽ kìm hãm sự phát triển của xã hội.
  12. ý thức chính trị thực tiễn - đời thường và ý thức chính trị có tính lý luận có quan hệ biện chứng với nhau vì chúng đều là sự phản ánh hiện thực đời sống chính trị. ý thức chính trị thực tiễn - đời thường, biểu hiện dưới dạng tâm lý, tình cảm giai cấp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp thu hệ tư tưởng chính trị của giai cấp, ngược lại hệ tư tưởng chính trị của giai cấp lại củng cố, định hướng cho sự phát triển tâm lý, tình cảm giai cấp. Vì mối quan hệ đó mà trong hoạt động thực tiễn giáo dục ý thức chính trị cho mỗi cá nhân, cộng đồng cần khuyến khích, nuôi dưỡng, giáo dục cả ý thức chính trị thực tiễn - đời thường và cả ý thức chính trị có tính lý luận. Như vậy, phân loại theo trình độ phát triển của ý thức chính trị thì có hai cấp độ: Cấp độ thực tiễn - đời thường và cấp độ tư tưởng - lý luận. Ngoài ra ý thức chính trị còn được phân theo chủ thể. Theo cách này ý thức chính trị gồm ý thức chính trị cộng đồng (xã hội, nhóm xã hội, giai cấp, tầng lớp v,v...) và ý thức chính trị cá nhân. ý thức chính trị cộng đồng là ý thức chính trị nảy sinh từ nhu cầu, lợi ích chính trị của cả cộng đồng xã hội hoặc của một nhóm xã hội, một giai cấp, một tầng lớp nào đó trong cộng đồng. Đó là chuẩn mực giá trị chung về nhu cầu, lợi ích chính trị được cả cộng đồng chấp nhận. ý thức chính trị cá nhân là sự đánh giá, thái độ, sự hiểu biết của từng cá nhân về những vấn đề hiện thực của đời sống chính trị. Vì vậy, ý thức chính trị cá nhân rất đa dạng, phong phú và mang đậm màu sắc chủ quan. Một vấn đề hiện thực của đời sống chính trị có thể được nhìn nhận dưới những lăng kính khác nhau. Cho nên, trong thực tiễn giáo dục ý thức chính trị cho mỗi cá nhân cần khuyến khích tính tích cực sáng tạo đồng thời phải có sự định hướng để tránh những nhận thức không đúng dẫn đến những hậu quả tiêu cực. ý thức chính trị cộng đồng và ý thức chính trị cá nhân có quan hệ chặt chẽ với nhau. ý thức chính trị cộng đồng cũng là ý thức chính trị của một xã hội, của một nhóm người, một tập đoàn người. Vì vậy nó chỉ tồn tại, phát triển, thể hiện thông qua ý thức chính trị của mỗi cá nhân. Tất nhiên, ý thức chính trị cộng đồng không phải là phép cộng giản đơn của các ý thức chính trị cá nhân mà nó là chất mới được kết tinh
  13. từ những tinh hoa của các ý thức chính trị cá nhân, nó được cả cộng đồng chấp nhận. Ngược lại, mỗi cá nhân là một phần tử đơn nhất tạo thành cộng đồng xã hội, được hình thành và phát triển trong quan hệ xã hội, mỗi cá nhân đều sống trong một xã hội cụ thể, một giai cấp cụ thể nên ý thức chính trị của cá nhân đều mang nội dung nào đó của ý thức chính trị cộng đồng, đều bị chi phối, bị định hướng bởi ý thức chính trị cộng đồng. Tất nhiên, ý thức chính trị cộng đồng ảnh hưởng đến ý thức chính trị cá nhân không như nhau. Mỗi cá nhân có hoàn cảnh kinh tế, nghề nghiệp, môi tr ường giáo dục, kinh nghiệm sống v,v... riêng nên lĩnh hội, tiếp thu ý thức chính trị cộng đồng và ảnh hưởng đến ý thức chính trị cộng đồng cũng khác nhau. Những cá nhân có tài năng, có trách nhiệm với cộng đồng sẽ có trình độ giác ngộ chính trị cao và có tác động tích cực đến ý thức chính trị cộng đồng, những cá nhân thoái hóa, biến chất, không giác ngộ được ý thức chính trị cộng đ ồng sẽ tác động tiêu cực đến ý thức chính trị cộng đồng, thậm chí ý thức chính trị cá nhân có thể mâu thuẫn đi đến đối lập với ý thức chính trị cộng đồng mà họ xuất thân. Từ mối quan hệ giữa ý thức chính trị cộng đồng và ý thức chính trị cá nhân cho thấy có thể biết được ý thức chính trị của cộng đồng nào đó thông qua việc tìm hiểu một cách tổng hợp ý thức chính trị của từng thành viên trong cộng đồng và ngược lại. Việc phân loại ý thức chính trị theo chủ thể đã chỉ rõ nhóm xã hội nào, tầng lớp nào, giai cấp nào trong xã hội cũng có ý thức chính trị. Trong xã hội có nhiều nhóm xã hội, nhiều tầng lớp, nhiều giai cấp. Mỗi giai cấp, tầng lớp, nhóm xã hội có điều kiện sinh hoạt vật chất riêng, có địa vị và lợi ích khác nhau, do đó sẽ có nhiều loại ý thức chính trị khác nhau (có thể đối lập có thể không) nhưng không phải ý thức chính trị của nhóm xã hội, tầng lớp, giai cấp nào cũng đã vươn tới có được tầm lý luận, hơn nữa có hệ tư tưởng chính trị. Chỉ có những giai cấp có khả năng đại biểu cho một phương thức sản xuất mới, và do đó hình thái kinh tế - xã hội mới, mới có thể hình thành tư tưởng chính trị một cách có hệ thống, có tính lý luận, tính khoa học dưới dạng học thuyết. Và tất nhiên, khi ấy, hệ tư tưởng chính trị của giai cấp này sẽ trở thành thống trị trong xã hội và ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của hình thái kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, để có được điều đó, trước hết giai cấp này phải có những nhà khoa học để khái quát những tư tưởng chính trị rời rạc,
  14. đời thường, kinh nghiệm, mang tính tự phát thành lý luận, thành hệ thống, thành học thuyết. Sau đó, phải có những nhà hoạt động lý luận chính trị để phát triển và phổ biến tuyên truyền học thuyết vào giai cấp và xã hội nói chung. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, hệ tư tưởng chính trị thống trị trong xã hội bao giờ cũng là hệ tư tưởng chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế - giai cấp nắm chính quyền. ý thức chính trị của các giai cấp bị trị khác, th ường chịu ảnh hưởng hệ tư tưởng chính trị (ý thức chính trị) của giai cấp thống t rị. Tuy nhiên, sự ảnh h ưởng này chỉ là tương đối. Cùng với cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực kinh tế, cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực tư tưởng cũng diễn ra quyết liệt giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị và làm cho hệ tư tưởng chính trị của giai cấp thống trị bị suy yếu. Trong xã hội không có đối kháng giai cấp - xã hội XHCN, hệ tư tưởng chính trị của GCCN giữ vị trí thống trị. Nhưng hệ tư tưởng chính trị của GCCN là tiến bộ, cách mạng, nó phản ánh được những nhu cầu, lợi ích chính trị cơ bản của toàn thể nhân dân lao động nên có vai trò chủ đạo, định hướng đúng đắn cho ý thức chính trị của các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội nhằm mục đích giải quyết tốt những quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp trong quá trình xây dựng CNXH. Để nghiên cứu ý thức chính trị của một xã hội, một giai cấp, một tầng lớp, một nhóm xã hội, một cá nhân nào đó cần phải thông qua những quan hệ lớn phản ánh đời sống chính trị. Đó là nhận thức về vị trí và vai trò của giai cấp mình đối với sự phát triển của xã hội; là thái độ đối với các bộ phận cơ bản trong hệ thống chính trị (nhà nước, đảng phái v,v...); là sự nhìn nhận những nội dung chính trị quan trọng (chế độ, chính thể, đường lối, chính sách v,v... phát triển đất nước); thái độ đối với các giai cấp, tầng lớp cơ bản trong xã hội (bạn đồng minh, kẻ thù) v,v... Tùy theo đối tượng tìm hiểu mà các quan hệ chủ yếu thể hiện ý thức chính trị nêu trên được cụ thể hóa và sắp xếp với những vị trí khác nhau. Vận dụng những vấn đề đã phân tích ở trên để nghiên cứu ý thức chính trị của GCCN Việt Nam trong giai đoạn hiện nay có ý nghĩa rất quan trọng, GCCN Việt Nam là
  15. giai cấp lãnh đạo cách mạng, nếu không có một trình độ giác ngộ chính trị nhất định, sẽ không thể hoàn thành được sứ mệnh đó của mình. 1.1.2. Biểu hiện ý thức chính trị của GCCN nước ta GCCN Việt Nam ra đời vào những năm đầu của thế kỷ XX. Tuy ra đời muộn, nhưng do được sinh ra trong lòng một dân tộc có truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất chống ngoại xâm, có mối liên hệ mật thiết với nông dân và các tầng lớp lao động khác trong xã hội và đặc biệt do sớm tiếp thu được ánh sáng khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin - hệ tư tưởng của GCCN quốc tế, nên GCCN nước ta đã nhanh chóng đảm đương được vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Từ khi ra đời cho đến nay, GCCN Việt Nam thông qua Đảng tiền phong của mình đã lãnh đạo nhân dân giành được được chính quyền, đem lại độc lập, thống nhất cho Tổ quốc và bước đầu xây dựng được một xã hội mới, đem lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Có thành quả đó, một phần quan trọng là do GCCN có được một trình độ giác ngộ chính trị cao. Đó là một lòng yêu nước nồng nàn, ý chí đấu tranh kiên cường bất khuất, là thái độ rõ ràng, dứt khoát đối với thực dân phong kiến, là sự nhận thức được tầm quan trọng của bộ tham mưu chiến đấu của mình - Đảng cộng sản, của kim chỉ nam cho hành động của mình - chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, là sự nhận thức được mối quan hệ giữa lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc, sự nhận thức được tầm quan trọng của liên minh với các giai tầng trong xã hội. Ngày nay, trước tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến động, để hoàn thành SMLS của mình, GCCN phải không ngừng nâng cao ý thức chính trị. Tuy nhiên, trong điều kiện mới thì ý thức chính trị của GCCN cũng có những biểu hiện mới. Hiện nay, ý thức chính trị của GCCN nước ta được nhận thấy thông qua những biểu hiện chính sau đây: Biểu hiện thứ nhất là sự giác ngộ về giai cấp. Giác ngộ về giai cấp (ý thức về giai cấp) là sự nhận thức về chính bản thân mình trong mối quan hệ với các giai cấp, tầng lớp khác và với tiến trình phát triển chung của xã hội. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, giác ngộ về giai cấp là yếu tố hàng đầu
  16. của ý thức chính trị của GCCN. Người công nhân có hay chưa có sự giác ngộ giai cấp, có sự giác ngộ giai cấp cao hay thấp lại được biểu hiện ở hai vấn đề là: - Người công nhân hiểu về giai cấp mình ra sao? Có SMLS (vai trò) như thế nào? Tại sao lại có SMLS ấy? Điều kiện để có thể thực hiện được sứ mệnh này? Người công nhân chưa có sự giác ngộ giai cấp khi không hiểu được hoặc hiểu sai lệch về những vấn đề nêu trên. Có ý thức chính trị hay ý thức giai cấp khi người công nhân biết được những ý khái quát rằng: GCCN là giai cấp của những người lao động trong công nghiệp hiện đại, tạo ra phần lớn sản phẩm vật chất cho xã hội, có SMLS là xóa bỏ chế độ TBCN, chế độ người áp bức bóc lột người, xây dựng chế độ XHCN tiến lên CNCS. Sở dĩ GCCN có SMLS ấy là vì GCCN có vai trò quan trọng trong kinh tế và các mặt phát triển khác của xã hội, có tinh thần cách mạng triệt để, có ý thức tổ chức kỷ luật, có lý luận cách mạng, khoa học dẫn đường - đó là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Để hoàn thành SMLS của mình, GCCN phải có một trình độ giác ngộ chính trị nhất định, phải có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, phải xây dựng được khối liên minh với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Có ý thức chính trị cao, hay ý thức giai cấp cao, khi người công nhân nắm được những vấn đề nêu trên một cách đầy đủ, có tính lý luận nhất định, đồng thời liên hệ được với thực tiễn và nhất là có niềm tin vào vai trò lịch sử của giai cấp mình, tích cực chống lại những quan điểm xuyên tạc, phủ nhận SMLS ấy. - Người công nhân nhận thức như thế nào về học thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Chưa ý thức được về giai cấp mình, khi người công nhân không hiểu gì hoặc hiểu sai tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Có ý thức chính trị khi người công nhân hiểu được rằng học thuyết Mác - Lênin là hệ tư tưởng chính trị của GCCN, chỉ ra bản chất bóc lột của CNTB, xác định con đường cách mạng để GCCN có thể thực hiện được SMLS của mình. Bên cạnh đó, GCCN
  17. phải biết được rằng tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng học thuyết Mác - Lênin vào điều kiện của Việt Nam, chỉ ra con đường cụ thể để cách mạng Việt Nam giành được thắng lợi; hiểu được rằng hiện nay chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đang là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hành động của GCCN, của toàn dân tộc ta trên con đường xây dựng xã hội mới. Có ý thức chính trị cao là công nhân nhận thức một cách sâu sắc hơn những vấn đề nêu trên. Về học thuyết Mác - Lênin, người công nhân còn hiểu được đó là một học thuyết hoàn chỉnh gồm ba bộ phận hợp thành là triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học và là vũ khí sắc bén để nhận thức và cải tạo thế giới. Về tư tưởng Hồ Chí Minh, người công nhân có ý thức chính trị cao, không những chỉ hiểu đó là sự phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện Việt Nam, mà còn biết được những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh như về con đường cách mạng Việt Nam, về dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc, về Đảng Cộng sản... Từ đó, đặt niềm tin tuyệt đối vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, có thái độ kiên quyết đấu tranh với những quan điểm sai trái trong việc nhìn nhận, đánh giá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Biểu hiện thứ hai về ý thức chính trị của GCCN là sự nhận thức về các tổ chức trong hệ thống chính trị. Hệ thống chính trị là một phạm trù dùng để chỉ một chỉnh thể các đảng phái, các tổ chức chính trị - xã hội tồn tại trong khuôn khổ của pháp luật với một Nhà nước thuộc giai cấp cầm quyền để tác động vào các quá trình kinh tế - xã hội nhằm duy trì và phát triển chế độ xã hội nhất định nào đó. Vì vậy, sự nhận thức về các tổ chức trong hệ thống chính trị của GCCN nước ta chính là hiểu biết về Đảng Cộng sản Việt Nam, về Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, và về các tổ chức chính trị - xã hội, mà trước hết là về tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp mình là tổ chức Công đoàn Việt Nam. - Đối với Đảng:
  18. ý thức chính trị kém khi người công nhân không có hiểu biết nhất định về Đảng, xem nhẹ vai trò lãnh đạo của Đảng, thờ ơ với những hoạt động của Đảng, không có ý thức phấn đấu để được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Người công nhân có ý thức chính trị khi nhận thức được rằng Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của GCCN Việt Nam, đại biểu trung thành cho lợi ích của GCCN, nhân dân lao động và của cả dân tộc, vừa là bộ phận hợp thành vừa là lực lượng lãnh đạo hệ thống chính trị XHCN. Người công nhân thấy được tầm quan trọng của vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng XHCN. Người công nhân quan tâm đến hoạt động của Đảng mà cụ thể là hoạt động của các tổ chức cơ sở Đảng trong các đơn vị của mình. Người công nhân có ý thức chính trị cao, ngoài những hiểu biết trên,còn phải hiểu được mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, thực hiện thành công CNXH và cuối cùng là CNCS; hệ tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; Đảng là một tổ chức chặt chẽ thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình... Đặc biệt, người công nhân có ý thức chính trị cao phải tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, có ý thức phấn đấu để trở thành đảng viên, xác định động cơ vào Đảng đúng đắn, có thái độ đúng mức trước những thiếu sót của Đảng, tích cực tham gia xây dựng chỉnh đốn Đảng, thường xuyên theo dõi các Đại hội cũng như các Hội nghị Trung ương của Đảng... - Đối với Nhà nước: Người công nhân có ý thức chính trị là nhận thức được rằng Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân; là tổ chức thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân, quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Người công nhân có ý thức chính trị cao, khi nói đến Nhà nước, còn phân biệt được sự khác nhau về bản chất giữa Nhà nước XHCN và Nhà nước tư sản. Nhà nước
  19. XHCN mang bản chất công nhân, không ngừng mở rộng dân chủ cho nhân dân lao động, còn Nhà nước tư sản là công cụ áp bức và bóc lột của giai cấp tư sản đối với nhân dân lao động, nhất là đối với GCCN. Từ đó, người công nhân có ý thức và trách nhiệm đối với lá phiếu của mình trong việc chọn lựa những đại biểu xứng đáng vào tổ chức Nhà nước của mình. Đặc biệt, người công nhân có ý thức chính trị cao, còn có thái độ đúng mức đối với những yếu kém trong hoạt động của bộ máy nhà nước như tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu... Từ đó, có tinh thần đấu tranh chống các tiêu cực đó để xây dựng một Nhà nước trong sạch, vững mạnh, một Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân, thực hiện đại đoàn kết dân tộc mà nòng cốt là liên minh công - nông - trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. - Đối với Công đoàn: Người công nhân có ý thức chính trị nhận thức được rằng Công đoàn là một tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của GCCN, của người lao động; cùng với cơ quan nhà nước và các tổ chức kinh tế - xã hội khác chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của công nhân, viên chức và những người lao động khác; tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội; tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế nhằm thiết thực bảo vệ lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài của công nhân, viên chức, lao động, của tập thể, của Nhà nước một cách căn bản, từ gốc và có hiệu quả; giáo dục công nhân, viên chức và những người lao động khác nhận thức đầy đủ về lợi ích cá nhân gắn với lợi ích tập thể, lợi ích xã hội, giáo dục kỷ luật lao động, giáo dục đạo đức, giáo dục pháp luật, tuyên truyền, giáo dục công nhân, viên chức, lao động vững tin vào đường lối chính sách của Đảng, sự nghiệp đổi mới của đất nước... Người công nhân có ý thức chính trị cao, bên cạnh việc nhận thức được những vấn đề trên, còn phải thấy rằng Công đoàn là một thành viên quan trọng trong hệ thống chính trị XHCN, là sợi dây nối liền Đảng với quần chúng, là người cộng tác đắc lực của Nhà nước; Công đoàn hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản; người công nhân phải có ý thức tham gia hoạt động của tổ chức Công đoàn và có ý thức trong việc xây dựng tổ chức Công đoàn vững mạnh.
  20. Biểu hiện thứ ba về ý thức chính trị của GCCN là thái độ đối với sự nghiệp đổi mới của đất nước. Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước là do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo thực hiện và được đánh dấu từ Đại hội VI (1986). Từ đó đến nay, đất nước đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực. Thái độ của người công nhân về vấn đề này như thế nào cũng là một thể hiện quan trọng về trình độ ý thức chính trị của mình. Đối với những nội dung của sự nghiệp đổi mới, người công nhân có ý thức chính trị khi nhận thức được rằng sự nghiệp đổi mới của chúng ta có nội dung rất rộng lớn, đổi mới toàn diện mà trước hết là đổi mới tư duy trong sự lãnh đạo của Đảng, qua đó mà có sự đổi mới về kinh tế và những mặt khác của sự phát triển đất nước nói chung và của các địa phương, các ngành, các cấp, các tổ chức... nói riêng. Người công nhân có ý thức chính trị còn thể hiện ở sự yên tâm, tin tưởng vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, tin vào sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước tiếp tục đưa sự nghiệp này tiến lên với những thành tựu to lớn và vững chắc hơn nữa. Người công nhân có ý thức chính trị cao khi niềm tin này có được trên cơ sở nhận thức khoa học về tính tất yếu của sự nghiệp đổi mới, về truyền thống dân tộc và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, về sự lãnh đạo tài tình của Đảng ta suốt hơn 70 năm qua... Người công nhân có ý thức chính trị cao còn thấy rõ sự nghiệp đổi mới là một quá trình phấn đấu lâu dài, đầy khó khăn, nhưng nhất định sẽ thành công. Người công nhân nếu không có hiểu biết về sự nghiệp đổi mới, không tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới, hoặc coi sự nghiệp đổi mới là của Đảng, của Nhà nước chứ không phải của chính bản thân mình, đơn vị mình... thì đó là những biểu hiện kém về ý thức chính trị. Có ý thức chính trị khi công nhân ý thức được trách nhiệm của mình đối với sự nghiệp đổi mới, từ đó có những đóng góp nhất định cho sự nghiệp đổi mới, mà trước hết là ý thức đối với những hoạt động đổi mới của đơn vị mình.
nguon tai.lieu . vn