Xem mẫu

  1. LUẬN VĂN: Con đường đi lên CNXH trong quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam M Ở ĐẦU
  2. 1. Tính cấp thiết của đề tài Thế kỷ XX là thế kỷ đã chứng kiến nhiều biến động thăng trầm to lớn của CNXH hiện thực: từ sự ra đời, phát triển đến khủng hoảng và đổ vỡ. Trước sự sụp đổ của hàng loạt các nước XHCN ở Liên Xô và Đông Âu, CNXH trên thế giới rơi vào tình trạng thoái trào và phải đối mặt với muôn vàn những khó khăn, thách thức. Trong bối cảnh đó, một số nước XHCN còn lại đã chủ động, sáng tạo tìm ra con đường đi riêng cho mình, và đã vượt qua khó khăn, thách thức để phát triển, làm cho CNXH được hồi sinh. Có được những thành công như vậy là do các nước này đã biết giải quyết tốt mối quan hệ giữa tính phổ biến và tính đặc thù của CNXH, mà thực chất là giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng, cái mới và cái cũ, cái tiến bộ và cái lỗi thời trong quá trình xây dựng CNXH ở mỗi nước. Về mặt lý luận, đó là mối quan hệ giữa xu hướng thời đại và con đường phát triển của dân tộc. Giải quyết mối quan hệ ấy là vấn đề khoa học và nghệ thuật chính trị của đảng cộng sản cầm quyền ở mỗi nước. Ở Việt Nam, từ khi thực hiện đường lối đổi mới đến nay, con đường đi lên CNXH ngày càng được xác định rõ hơn. Quan niệm về CNXH đã được bổ sung, phát triển cùng với sự phát triển của thực tiễn đất nước, của CNXH trên thế giới và của thời đại. Ðiều đó cũng là đương nhiên, phản ánh quá trình phát triển của thực tiễn và nhận thức. Cho đến nay, kế thừa Cương lĩnh của Đảng năm 1991, qua tổng kết 20 năm đổi mới, có thể khẳng định rằng: "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Ðó là xã hội: 1. Do nhân dân làm chủ; 2. Có nền kinh tế phát triển cao, bền vững với một hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp; 3. Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; 4. Con người có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc, được phát triển toàn diện; 5. Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; 6. Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Ðảng Cộng sản lãnh đạo; 7. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới". Những nội dung nêu trên có thể coi là những đặc điểm của CNXH mà chúng ta đang xây dựng. Trong quá trình thực hiện những nội dung đó, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về mọi mặt: kinh tế tăng trưởng liên tục với mức khá cao, quyền
  3. làm chủ của nhân dân ngày càng được mở rộng và phát huy, vị thế và vai trò lãnh đạo của Đảng ngày càng được củng cố, nhà nước pháp quyền XHCN được hình thành rõ nét hơn, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được cải thiện đáng kể, an ninh chính trị ổn định, quan hệ hợp tác về mọi mặt giữa Việt Nam và thế giới được nâng lên tầm cao mới. Những thành công này đã khẳng định sự đúng đắn của đường lối đổi mới, tạo ra động lực lớn để tiếp tục đổi mới và phát triển, đồng thời củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự nghiệp xây dựng CNXH của Đảng và nhân dân ta. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, mô hình xây dựng CNXH mà chúng ta đang thực hiện cũng còn không ít những hạn chế cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn. Những hạn chế này đã và đang tạo ra lực cản đối với sự phát triển của CNXH, thậm chí còn tạo ra những nguy cơ, thách thức trực tiếp đối với sự tồn vong của chế độ. Bao trùm lên tất cả là các vấn đề về mối quan hệ giữa tăng trưởng tốc độ cao với sự phát triển bền vững, liên tục của nền kinh tế; giữa phát triển kinh tế với công bằng xã hội, giữ vững tính chất XHCN của nền kinh tế thị trường; giữa nắm bắt thời cơ và ứng phó với thách thức trong hội nhập kinh tế thế giới; giữa phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền trong hệ thống chính trị với Nhà nước pháp quyền XHCN,… Những vấn đề này đòi hỏi phải tiếp tục được lý giải một cách khoa học để tạo cơ sở và động lực cho sự phát triển tiếp theo của CNXH. Thêm vào đó, thời đại ngày nay đã có nhiều biến đổi so với thời kỳ đầu xây dựng CNXH, nhiều yếu tố mới xuất hiện đã tác động trực tiếp đến cách hiểu và thực tiễn vận động về CNXH, và thực tiễn càng chứng minh rõ có những nhân tố còn hợp lý, có những điểm cần nhận thức lại cho rõ hơn và cụ thể hơn, và có những cái cần được bổ sung cho đầy đủ. Quá trình này sẽ giúp cho việc làm sáng tỏ hơn về những đặc trưng của CNXH ở Việt Nam. Chính vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu về lý luận CNXH nói chung và thực tiễn xây dựng chủ xã hội nói riêng, đặc biệt là quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam hiện nay, có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nếu không làm rõ được tính phổ biến của con đường đi lên CNXH thì quá trình xây dựng CNXH dễ bị dao động, lung lay về niềm tin, dẫn đến xây dựng CNXH sẽ bị mất phương hướng, chệch hướng; còn nếu không xác định rõ được tính đặc thù của con đường đi lên CNXH ở Việt Nam thì quá trình xây
  4. dựng CNXH dễ mắc phải căn bệnh chủ quan duy ý chí, thiếu sự sáng tạo, sẽ bị rơi vào giáo điều, dập khuôn, máy móc. Hơn nữa, việc nghiên cứu vấn đề này không chỉ giúp chúng ta làm rõ hơn những định hướng mang tính chiến lược trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước trong giai đoạn mới mà còn giúp xác định được rõ trọng tâm, trọng điểm những bước đi cụ thể cho mỗi giai đoạn, mỗi lĩnh vực trong quá trình xây dựng CNXH, kế thừa được những giá trị tiến bộ của nhân loại và phát huy những giá trị dân tộc, sức mạnh nội lực cho quá trình phát triển. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trên thế giới: Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu về CNXH trên thế giới đang được đề cập từ nhiều góc độ khác nhau, với sự đa dạng, phong phú trong cách tiếp cận vấn đề, nhưng cơ bản tập trung vào hai mảng lớn. Mảng thứ nhất, chủ yếu được tiếp cận từ góc độ kinh tế và chính trị, đề cập đến sự xụp đổ của CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu, phân tích những nguyên nhân khủng hoảng, nguyên nhân cải tổ, cải cách thất bại và những bài học kinh nghiệm được rút ra từ sự xụp đổ này. Các nghiên cứu này đã chỉ ra những khuyết tật của mô hình CNXH được xây dựng trên cơ sở lý luận sai lầm đã kéo dài không được khắc phục là nguyên nhân sâu xa của sự khủng hoảng và dẫn đến sụp đổ chế độ XHCN ở các nước này. Từ đó đi đến phủ nhận xu hướng vận động của CNXH hiện thực, cho rằng thời đại hoàng kim của CNXH đã chấm dứt, xây dựng CNXH là ảo tưởng và không tưởng. Các công trình đề cập đến vấn đề này có thể kể đến: CNXH chuyển đổi mô hình từ “truyền thống” sang “hiện đại” của Chengeng; Hệ thống xã hội chủ nghĩa của Kornai János, Nxb Văn hóa Thông tin, 2002; Các nền kinh tế chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch tập trung sang kinh tế thị trường của Marie Lavigne, Nxb CTQG, 2002; Chủ nghĩa cộng sản: một dự án mới của Robert Hue. Trái ngược với mảng thứ nhất, mảng thứ hai lại nhìn nhận, đánh giá mang tính tích cực hơn về CNXH hiện thực với những thành tựu của nó, nhất là những thành công trong công cuộc cải cách, đổi mới xây dựng mô hình CNXH mang đặc sắc Trung Quốc. Các công trình này dường như khẳng định sự hồi phục của CNXH hiện thực sau một thời kỳ khủng hoảng nghiêm trọng kéo dài và chứng minh rằng CNXH vẫn là quy luật vận động của lịch sử mà nhân loại sẽ đi đến. Các công trình đề cập đến vấn đề này có thể kể đến: Lịch sử, hiện trạng, tương lai CNXH của Trương Khắc Lôi, Tự Lập Bình
  5. (Sách đã được dịch sang Tiếng Việt), Nxb CTQG, H, 1997; Hai chủ nghĩa - một trăm năm của Tiêu Phong, Nxb CTQG,H, 2004; Trung Quốc 25 năm cải cách-mở cửa của Viện Nghiên cứu Trung Quốc, Nxb KHXH, 2004, Chủ nghĩa xã hội là gì? Xây dựng chủ nghĩa xã hội như thế nào (Bản chất của CNXH và con đường phát triển) của Chu Thượng Văn, Chu Cẩm Úy, Trần Tích Hỷ, Nxb CTQG, 1999; Những thay đổi của CNTB đương đại và ảnh hưởng tới Trung Quốc của Chân Bính Hỷ, Trần Đức Chiêu, Ngụy Dân (bài này được đăng trên Thông tấn xã VN, số 6/2003); … Ở Việt Nam: Nghiên cứu những vấn đề về lý luận CNXH nói chung và mô hình xây dựng CNXH ở Việt Nam nói riêng luôn được xác định là trọng tâm nghiên cứu của khoa học xã hội nhân văn, đặc biệt là các khoa học về chính trị như: triết học, kinh tế chính trị học, CNXH khoa học, chính trị học, luật học, thậm chí những công trình nghiên cứu mang tính liên ngành đang trở nên phổ biến. Nghiên cứu về CNXH nói chung, các công trình đã phân tích cơ sở lý luận cho sự ra đời, bản chất, đặc trưng của CNXH, quá trình hình thành, phát triển cũng như những khủng hoảng, đổ vỡ của CNXH hiện thực, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho quá trình xây dựng CNXH và dự báo về sự phát triển của CNXH trong tương lai. Các công trình này có thể kể đến: Chẳng hạn, cuốn Góp phần vào việc đổi mới nhận thức về CNXH của Phạm Như Cương, Lê Cao Đoàn, Nxb KHXH, 1992; Chương trình khoa học - công nghệ KX - 01, đề tài KX.01.03 “Đánh giá CNXH hiện thực hơn 7 thập kỷ qua - Nguồn gốc, nguyên nhân khủng hoảng và sụp đổ Liên Xô và các nước Đông Âu” do GS Trần Nhâm chủ nhiệm 1996; Đề tài KX.08.09 “Triển vọng của CNXH trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI” do GS.TS Nguyễn Ngọc Long làm chủ nhiệm; cuốn Chủ nghĩa xã hội: Từ lý luận đến thực tiễn - Những bài học kinh nghiệm chủ yếu do Lê Hữu Tầng (Chủ biên), Nxb CTQG, H, 2003; CNCS ngày nay, những nét mới từ thực tiễn Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản của Đỗ Lộc Diệp, Nxb KHXH, 2002; Cải cách thể chế chính trị ở Trung Quốc (1978 – 2003) của Đỗ Tiến Sâm (Chủ biên), Nxb KHXH, 2003; Trung Quốc cải cách mở cửa – Những bài học kinh nghiệm của Nguyễn Văn Hồng, Nxb Thế giới, 2003; Thế giới trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI, Nguyễn Duy Quý (chủ biên), Nxb CTQG, H, 2002…
  6. Nghiên cứu về mô hình CNXH và thực tiễn xây dựng CNXH ở Việt Nam luôn là vấn đề giành được nhiều ưu tiên cả về tiền bạc, thời gian và lực lượng các nhà khoa học tham gia nghiên cứu. Trong đó, có những công trình đi sâu phân tích những vấn đề lý luận chung về CNXH, quy luật vận động của lịch sử nhân loại, từ đó chỉ ra những nội dung, bản chất và xu hướng vận động của mô hình CNXH ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ, như: Xây dựng CNXH ở Việt Nam: Vấn đề nguồn gốc và động lực của Lê Hữu Tầng, Nxb KHXH, 1991; Những vấn đề lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam do Nguyễn Duy Quý (chủ biên), Nxb CTQG, H, 1998; Về định hướng XHCN và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, Nxb CTQG,H, 2001; Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam của TS Nhị Lê, Nxb CTQG, 2001; Về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam của Nguyễn Đức Bình (chủ biên), Nxb CTQG, 2003; Quy luật xã hội với sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay của Hồ Văn Thông, Hồ Ngọc Minh, Nxb CTQG, 2003. Thời gian gần đây, có rất nhiều công trình với các quy mô khác nhau tiến hành tổng kết thực tiễn xây dựng CNXH ở Việt Nam, nhất là giai đoạn kể từ khi đổi mới đến nay. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, các công trình này đã chỉ ra những thành công với những nét nổi bật về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội mà Việt Nam đạt được trong quá trình đổi mới cũng như những hạn chế trong quá trình xây dựng CNXH, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho giai đoạn tiếp theo của công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam. Trong số những công trình đó, đáng chú ý nhất là Báo cáo Tổng kết một số vấn đề lý luận-thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 – 2006) của Ban chỉ đạo tổng kết một số vấn đề lý luận-thực tiễn qua 20 năm đổi mới, Nxb CTQG, H, 2005. Các nội dung được đề cập nhiều nhất trong công trình này là việc làm rõ các vấn đề căn cốt nhất của CNXH như: bản chất, nội dung của kinh tế thị trường định hướng XHCN; vấn đề sở hữu và các thành phần kinh tế, vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; những yêu cầu, nội dung của nền kinh tế độc lập, tự chủ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế; giải quyết như thế nào cho hợp lý giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội; vấn đề cải cách hệ thống chính trị, mở rộng dân chủ; xây dựng Đảng và xây dựng nhà nước pháp quyền trong điều kiện mới; cải cách bộ máy hành chính nhà nước; vấn đề xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc,… Ngoài ra, các công trình tiêu biểu về những vấn đề này còn có thể kể đến: cuốn Đổi
  7. mới: Bước phát triển tất yếu đi lên CNXH ở Việt Nam của Nguyễn Khánh, Nxb CTQG, 1999; Đề tài KX 04.01 Cơ sở thực tiễn về nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân do GS.VS Nguyễn Duy Quý chủ nhiệm; Tư duy lý luận với sự nghiệp đổi mới của GS Trần Nhâm, Nxb CTQG, 2004; Việt Nam 20 năm đổi mới của Nxb Chính trị Quốc gia, 2007; Đổi mới và phát triển ở Việt Nam-Một số vấn đề lý luận và thực tiễn do GS,TS Nguyễn Phú Trọng chủ biên, NXB CTQG, 2008; Tính phổ biến và tính đặc thù trong phát triển KTTT do Phạm Văn Dũng làm chủ biên, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2009;…, Bên cạnh đó, một số công trình khác lại tập trung vào việc phân tích thời cơ và thách thức đối với sự phát triển của CNXH ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa, từ đó chỉ ra những mâu thuẫn trong quá trình phát triển cũng như đưa ra những khuyến nghị cũng như những dự báo về xu hướng vận động của CNXH ở Việt Nam. Chẳng hạn như cuốn: Về mâu thuẫn cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu và cách giải quyết trên con đường phát triển đất nước theo định hướng XHCN của Phạm Ngọc Quang, Nxb CTQG, H, 2001; Tác động nhiều mặt của toàn cầu hóa đến công cuộc phát triển của nước ta, Hội đồng lý luận Trung ương, H, 2002; Động lực phát triển kinh tế - xã hội – văn hóa của Việt Nam (Việt Nam có thể trở thành con rồng của châu Á) của TS Hà Chuyên, Nxb Thống Kê, 2002; Kinh tế tri thức, thời cơ và thách thức đối với sự phát triển của Việt Nam do Đặng Hữu (Chủ biên), Nxb CTQG, H, 2004; Đổi mới để phát triển, Nxb CTQG, 2002; Vững bước trên con đường đã chọn, Hội đồng lý luận Trung ương, Nxb CTQG,H, 2005. Trong khuôn khổ hợp tác giữa hai nước láng giềng XHCN, Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo lý luận, trong đó có sự trao đổi đến những vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng CNXH ở hai nước, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm tham khảo cho mỗi nước trong quá trình xây dựng CNXH, như “Hội thảo khoa học Trung Việt: CNXH cái phổ biến và cái đặc thù”, Nxb CTQG, H. 2000; Hội thảo “CNXH và kinh tế thị trường – Kinh nghiệm của Trung Quốc, kinh nghiệm của Việt Nam” NXB CTQG 2003; "Xây dựng Đảng cầm quyền - kinh nghiệm của Việt Nam - kinh nghiệm của Trung Quốc" NXB CTQG, 2004; "Phát triển khoa học, hài hòa giữa kinh tế - xã hội trong xây dựng chủ nghĩa xã hội - Lý luận và thực tiễn",…
  8. Ngoài các công trình lớn như đã nêu, các nội dung trên còn được đề cập ở những khía cạnh khác nhau trên các tạp chí khoa học chính trị như: 1. Hoàng Chí Bảo, Những đặc điểm của con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, Tạp chí Lý luận chính trị, số 1/2002 2. Nguyễn Đức Bình, Tiếp tục một cách kiên định và sáng tạo con đường XHCN, Tạp chí Lý luận chính trị, số 1/2007 3. Trần Hữu Tiến, Giữ vững định hướng XHCN trong công cuộc đổi mới, Tạp chí Cộng sản, số 8 (4/2006) 4. Tiếp tục phát triển con đường XHCN ở Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, số 6 (3/2006) 5. Nguyễn Đức Bình, Về nhận thức, bổ sung, phát triển các luận điểm trong CNXH khoa học, Tạp chí Lý luận chính trị, số 3/2007 6. Hoàng Chí Bảo, Một số luận đề về định hướng XHCN và đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam, Tạp chí Lý luận chính trị, số 5/2006 7. Nguyễn Văn Sáu, Nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, Tạp chí Lý luận chính trị, số 5/2006 8. Phạm Ngọc Quang, Công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay: Nhìn từ giác độ của mâu thuẫn trong quá trình phát triển, Tạp chí Triết học 9. Năm bài học lớn từ thực tiễn đổi mới, Tô Huy Rứa, báo Nhân dân ngày 22/6/2006 10. Lê Hữu Nghĩa, Đại hội X của Đảng với nhận thức về con đường đi lên CNXH ở nước ta, báo Nhân dân ngày 29/6/2006 11. Nguyễn Trọng Phúc, Một số kinh nghiệm xây dựng CNXH trong những năm đổi mới, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 12/2006 12. Hoàng Chí Bảo, CNXH đổi mới để phát triển trong bối cảnh thế giới đương đại ở hai thập kỷ đầu thế kỷ XXI, Tạp chí Khoa học Chính trị, số 6/2005 13. Về con đường và bước đi của công cuộc xây dựng CNXH, Tạp chí Lý luận chính trị, số 8/2008, tr 16 ...... Có thể thấy, các công trình trên đã trình bày hệ thống quan điểm lý luận về CNXH và ít nhiều đã nêu được những nét cơ bản về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, chỉ ra được những thành tựu về kinh tế - xã hội qua hơn 20 năm đổi mới và những vấn đề đặt ra, đồng thời cũng đã làm rõ được những hạn chế, thách thức mà Việt Nam đang gặp phải trong giai đoạn tiếp theo của quá trình xây dựng CNXH.
  9. Tuy nhiên, còn quá ít các công trình trình bày được rõ ràng và có hệ thống về tính phổ biến và tính đặc thù của con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Nhiều công trình đã nêu được vấn đề, chỉ ra được tương đối rõ bản chất của CNXH nói chung và đặc trưng của CNXH ở Việt Nam nói riêng, thế nhưng những đặc trưng này còn được trình bày khá chung chung, chưa thật thuyết phục vì thiếu những căn cứ của tính quy luật phổ biến và đặc thù khi đánh giá nhận định về CNXH. Thêm vào đó, một số công trình luận giải về CNXH có đưa ra những dự báo về tương lai của CNXH ở Việt Nam, nhưng còn mang tính kinh viện với những lý lẽ chưa thật thuyết phục. Các công trình cũng chưa trình bày có hệ thống những giá trị đặc thù của CNXH ở Việt Nam, cũng như chưa làm rõ được những mâu thuẫn mà Việt Nam cần phải giải quyết để thúc đẩy xã hội phát triển. Chính điều này gây ra sự lúng túng trong quá trình thực hiện các mục tiêu của CNXH. Các công trình nghiên cứu trên đây, tuy chưa đi trúng vào những vấn đề căn cốt về tính phổ biến và tính đặc thù của CNXH ở Việt Nam, song chúng là những kết quả nghiên cứu quan trọng về lý luận và thực tiễn để đề tài này kế thừa, phát triển, góp phần lý giải những vấn đề thiết yếu cho mục tiêu của đề tài. 3. Mục tiêu của đề tài Trên cơ sở khái quát chung lại lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH, làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn vận dụng cái phổ biến và cái đặc thù về con đường đi lên CNXH trong quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam, đề tài đưa ra các phương hướng và giải pháp tiếp tục vận dụng chúng trong xây dựng CNXH ở Việt Nam những thập niên đầu của thế kỷ XXI. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục tiêu nêu trên, đề tài có nhiệm vụ: - Khái quát, phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn về CNXH, cái phổ biến và cái đặc thù của con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. - Phân tích, làm rõ một số nội dung, thực trạng vận dụng cái phổ biến và đặc thù trong xây dựng CNXH ở Việt Nam. - Đưa ra phương hướng và đề xuất một số giải pháp tiếp tục vận dụng cái phổ biến và đặc thù trong xây dựng CNXH ở Việt Nam những thập niên đầu của Thế kỷ XXI.
  10. 5. Phương pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. - Phương pháp logic - lịch sử, phân tích - tổng hợp, khái quát hóa và dự báo. Các phương pháp này cho phép đi sâu phân tích quá trình hình thành, phát triển của CNXH trong sự chi phối bởi những hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể, từ đó rút ra những vấn đề mang tính bản chất nhất về CNXH và dự báo xu hướng vận động của CNXH Việt Nam . - Phương pháp so sánh, đối chiếu: cho phép so sánh với tính chất, quy mô, cơ cấu, mô hình CNXH khác nhau…Từ đó rút ra những đặc điểm chung, phổ biến và đặc thù, tìm kiếm những giá trị tham khảo cho nghiên cứu vấn đề xây dựng CNXH ở Việt Nam. Phương pháp phân tích cấu trúc hệ thống và mô hình hóa. Phương pháp này cho phép phân tích những kết cấu, cấu trúc của mỗi mô hình CNXH trong mối quan hệ với tổng thể, từ đó tìm ra những bộ phận, những yếu tố mang tính cơ bản chi phối sự phát triển của toàn bộ hệ thống. - Một số phương pháp liên ngành và chuyên ngành khác như khoa học chính trị, khoa học kinh tế, khoa học pháp lý,… 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ cung cấp một cách hệ thống và khái quát những vấn đề cơ bản nhất về CNXH, làm sáng tỏ hơn cơ sở lý luận và điều kiện thực tiễn cho sự phát triển CNXH Việt Nam, chỉ ra những nội dung cốt yếu về tính phổ biến và những đặc trưng của CNXH ở Việt Nam, và dự báo xu hướng vận động của CNXH Việt Nam trong những thập niên đầu thế kỷ XXI. Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ cố gắng đưa ra những cách tiếp cận mới, những khuyến nghị có giá trị tham khảo cho Đảng và Nhà nước trong quá trình hoạch định chủ trương, đường lối, chính sách.
  11. Đề tài cũng sẽ là tài liệu tham khảo có giá trị cho việc nghiên cứu, giảng dạy các môn lý luận chính trị tại Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. 7. Nội dung nghiên cứu Với mục tiêu nghiên cứu nêu trên, báo cáo kết quả nghiên cứu tổng hợp của đề tài được kết cấu gồm 3 Chương, 9 tiết với các nội dung cụ thể sau đây: Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ CÁI PHỔ BIẾN VÀ CÁI ĐẶC THÙ CỦA CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CNXH Ở VIỆT NAM
  12. 1.1. KHÁI NIỆM VÀ MỘT SỐ NỘI DUNG CHỦ YẾU VỀ CÁI PHỔ BIẾN VÀ ĐẶC THÙ CỦA CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CNXH Ở VIỆT NAM 1.1.1. Khái niệm cái phổ biến, cái đặc thù và mối quan hệ giữa chúng Cái phổ biến, cái đặc thù là những phạm trù tương đồng với các phạm trù cái chung, cái riêng và đã được bàn đến rất nhiều trong các công trình triết học. Trong đó, cái phổ biến được trình bày với hàm nghĩa là cái chung, nhưng là cái chung có tính chất phổ quát, và cái đặc thù được trình bày với hàm nghĩa là cái riêng, nhưng là cái riêng có tính đơn nhất. Ngày nay, nhận thức về nội dung cũng như mối quan hệ giữa các phạm trù này là tương đối thống nhất. Chính vì vậy, để có cơ sở hiểu rõ thêm về những nội dung của đề tài, phần này xin nêu lại một số nội dung cơ bản của phạm trù cái chung (cái phổ biến) và cái riêng (cái đặc thù) cũng như mối quan hệ giữa chúng đã được bàn đến trong nhiều công trình triết học. Trong tư duy triết học mác-xít, mỗi sự vật, hiện tượng đều là thể thống nhất giữa cái đơn nhất, cái đặc thù và cái phổ biến. Các phạm trù này luôn gắn liền với cặp phạm trù cái chung và cái riêng. Biện chứng giữa chúng biểu thị biện chứng của quá trình vận động, phát triển của hiện thực. Phạm trù cái riêng được dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng biệt. Cái riêng là một chỉnh thể có tính toàn vẹn, tính độc lập tương đối. Mỗi cái riêng đều là một chỉnh thể thống nhất, bao gồm nhiều mặt, nhiều yếu tố, nhiều thuộc tính cấu thành nên. Những yếu tố tạo nên cái riêng có mức độ phổ biến khác nhau: Có những yếu tố riêng có của nó, không có sự lặp lại ở những đối tượng khác; có những yếu tố có sự lặp lại nhiều lần ở một số đối tượng tương tự với nó; có những yếu tố lặp đi lặp lại ở tất cả các đối tượng. Cái xuất hiện một lần, ở một sự vật duy nhất nào đó và không có sự lặp lại được gọi là cái đơn nhất (theo nghĩa: cái đơn nhất là cái không lặp lại thì mỗi cái riêng đồng thời là cái đơn nhất). Cái có sự lặp lại ở nhiều sự vật, hiện tượng khác nhau được gọi là cái chung. Cái chung có mặt xuất hiện ở một số sự vật, nhưng không xuất hiện ở những sự vật khác được gọi là cái đặc thù. Cái chung có mặt ở mọi sự vật được gọi là cái chung nhất hay cái phổ biến.
  13. Cái đơn nhất, cái đặc thù và cái phổ biến chỉ là một mặt, một bộ phận của cái riêng cho nên chúng chỉ tồn tại trong cái riêng, tồn tại thông qua cái riêng. Trong mỗi cái riêng đều chứa đựng những cái đơn nhất, riêng có của nó; chứa đựng cái đặc thù, có mặt ở một số đối tượng giống nhau nào đó; và chứa đựng những cái phổ biến của cả một lớp đối tượng rộng lớn hoặc của tất cả các đối tượng. Tùy thuộc vào từng phạm vi xem xét, từng quan hệ cụ thể để xác định đâu là cái đặc thù, đâu là cái phổ biến. Cái phổ biến trong phạm vi này, trong quan hệ cụ thể này có thể chỉ là cái đặc thù ở một phạm vi khác, trong một quan hệ khác. Chẳng hạn, quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến của xã hội, nhưng nó không có tác động trong giới tự nhiên nên cũng có thể nói đây chỉ là quy luật đặc thù của thế giới. Nguyên tắc tập trung dân chủ là một nguyên tắc phổ biến của dân chủ XHCN nhưng ở các nước tư sản lại không thừa nhận nguyên tắc này, cho nên đây cũng chỉ là nguyên tắc đặc thù của dân chủ hóa đời sống xã hội. Trong mỗi cái riêng đều chứa đựng cái chung, cái phổ biến. Quá trình vận động, phát triển của cái riêng bao giờ cũng chịu sự chi phối bởi những quy luật chung, quy luật phổ biến. Tuy nhiên, cái riêng không gia nhập hết vào cái chung. Mỗi cái riêng còn chứa đựng cái đặc thù, đơn nhất. Quá trình phát triển của mỗi cái riêng còn chịu sự tác động bởi những quy luật đặc thù, riêng có của nó do nó còn chịu ảnh hưởng bởi những hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mình. Vì vậy, trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, con người cần biết vận dụng cái chung, cái phổ biến vào từng trường hợp cụ thể nhưng đồng thời phải biết cá biệt hóa chúng, tránh thái độ trừu tượng, chung chung hay dập khuôn, máy móc, giáo điều. Cái là đúng đắn, phù hợp với giai đoạn cụ thể này, ở thời điểm cụ thể này có thể không còn đúng đắn, phù hợp với một giai đoạn khác, ở một thời điểm khác và ngược lại. Cho nên không được phép áp đặt một cách tùy tiện, chủ quan cái của sự vật hiện tượng này cho một sự vật, hiện tượng khác. Vạch rõ mối liên hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng, cái phổ biến và cái đặc thù, Lênin viết: “Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Bất cứ cái riêng nào cũng là cái chung. Bất cứ cái chung nào cũng là (một bộ phận, một khía cạnh, hay một bản chất) của cái
  14. riêng. Bất cứ cái chung nào cũng chỉ bao quát một cách khái quát tất cả mọi vật riêng lẻ. Bất cứ cái riêng nào cũng không gia nhập đầy đủ vào cái chung”1. Trong quá trình vận động, phát triển của hiện thực, cái phổ biến và cái đặc thù luôn luôn chuyển hóa lẫn nhau. Thông qua cái đặc thù để cái đơn nhất chuyển hóa dần dần thành cái phổ biến và ngược lại, cũng thông qua cái đặc thù mà cái phổ biến có thể chuyển hóa thành cái đơn nhất. Sự chuyển hóa này gắn với quá trình hình thành cái mới và quá trình cái cũ mất đi. Cái mới khi mới xuất hiện lần đầu thì nó chỉ là cái đơn nhất. Và nó là cái tích cực, cái tiến bộ cho nên nó sẽ được khẳng định dần dần để trở thành cái chung, cái phổ biến. Còn cái cũ, khi mất đi cũng phải thông qua quá trình chuyển biến dần dần thành cái đặc thù, cái đơn nhất rồi mới mất hẳn. Trong xã hội, quá trình chuyển hóa cái mới từ đơn nhất thành đặc thù, phổ biến là cả một quá trình phức tạp, lâu dài; phải thông qua nhiều bước quá độ, trung gian, nhiều khi phải chấp nhận cả những thất bại, những bước thụt lùi tạm thời. Một vấn đề nổi lên trong sự tác động lẫn nhau của các quy luật là sự tác động lẫn nhau giữa quy luật phổ biến và quy luật đặc thù. Như chúng ta đã biết, tính phổ biến là một trong những đặc tính nổi bật của bất cứ quy luật nào, dù đó là quy luật phổ biến hay quy luật đặc thù. Mức độ phổ biến của quy luật là do phạm vi của lĩnh vực, hiện tượng trong đó quy luật ấy có tác dụng quyết định. Quy luật phổ biến khác với quy luật đặc thù trước hết là ở chỗ nó có lĩnh vực rộng hơn hay tác dụng lâu dài hơn, hoặc cả hai cái cộng lại. Nhưng không được phóng đại sự khác nhau giữa quy luật phổ biến và quy luật đặc thù. Sự khác nhau đó không phải là tuyệt đối mà là tương đối. Quy luật phổ biến không tồn tại trừu tượng mà bao giờ cũng hoạt động trong những điều kiện cụ thể, phải đáp ứng những điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau nên chúng có những hình thức biểu hiện đặc thù khác nhau. Điều đó không có nghĩa là quy luật phổ biến bị bác bỏ, mà chỉ là sự biểu hiện đặc thù của quy luật phổ biến ở trong những điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau. Ở đây chúng ta hiểu rằng, quy luật phổ biến có thể phát sinh tác dụng thông qua những quy luật đặc thù nhưng không phải quy luật đặc thù nào cũng là hình thức biểu hiện của quy luật phổ biến tương ứng. 1 Lênin: Toàn tập, Sđd, t. 29, tr 381.
  15. Khi nghiên cứu mối liên hệ giữa “cái chung” và “cái riêng”, “cái phổ biến” và “cái đặc thù”, các bài học đã được tổng kết dưới đây có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó được coi là “kim chỉ nam” trong hành động thực tiễn khi giải quyết bất cứ mối quan hệ nào giữa “cái chung” và “cái riêng”, “cái phổ biến” và “cái đặc thù”1: Bài học thứ nhất, vì “cái chung” chỉ tồn tại trong “cái riêng”, thông qua “cái riêng” nên chỉ có thể tìm “cái chung” trong “cái riêng” chứ không thể ở ngoài “cái riêng”. Để phát hiện “cái chung” cần xuất phát từ những “cái riêng”, từ những sự vật, hiện tượng, quá trình riêng lẻ cụ thể chứ không thể xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người. Bài học thứ hai, vì “cái chung” chỉ tồn tại trong “cái riêng” như một bộ phận của “cái riêng”, bộ phận đó tác động qua lại với những bộ phận, những yếu tố còn lại của “cái riêng” – những cái không gia nhập vào “cái chung” – nên bất cứ “cái chung” nào cũng tồn tại trong “cái riêng” dưới dạng đã bị cải biến. Từ đó, một kết luận được rút ra là bất cứ “cái chung” nào khi áp dụng vào từng trường hợp riêng cũng cần được cá biệt hóa. Nếu không chú ý tới sự cá biệt hóa đó, đem áp dụng nguyên xi “cái chung”, tuyệt đối hóa “cái chung”, thì sẽ rơi vào sai lầm của những người tả khuynh, giáo điều. Ngược lại, nếu xem thường “cái chung”, chỉ chú ý tới “cái đơn nhất”, tuyệt đối hóa “cái đơn nhất” thì sẽ rơi vào sai lầm của những người hữu khuynh, xét lại. Bài học thứ ba, vì “cái riêng” gắn bó chặt chẽ với “cái chung”, không tồn tại ở bên ngoài mối liên hệ dẫn tới “cái chung”, cho nên để giải quyết những vấn đề riêng một cách có hiệu quả thì không thể lảng tránh được việc giải quyết những vấn đề chung – những vấn đề lý luận liên quan với các vấn đề riêng đó. Nếu không thể giải quyết những vấn đề lý luận chung thì sẽ không tránh khỏi sa vào tình trạng mò mẫm, tùy tiện, kinh nghiệm chủ nghĩa. Lênin từng dạy chúng ta rằng: Người nào bắt tay vào những vấn đề riêng trước khi giải quyết những vấn đề chung, thì kẻ đó, trên mỗi bước đi sẽ không tránh khỏi “vấp phải” những vấn đề chung một cách không tự giác. Mà mù quáng vấp phải những vấn đề đó trong từng trường hợp riêng, thì có nghĩa là đưa chính sách của mình đến chỗ có những sự dao động tồi tệ nhất và mất hẳn tính nguyên tắc. 1 Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình Quốc gia các bộ môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình Triết học Mác-Lênin, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 1999, tr. 244 – 245; Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Khoa Triết học, Hỏi – Đáp triết học Mác-Lênin, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 1999, tr. 105-106.
  16. Bài học thứ tư, vì trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định, “cái đơn nhất”, “cái đặc thù” có thể trở thành “cái chung”, “cái phổ biến”; ngược lại, “cái chung”, “cái phổ biến” có thể trở thành “cái đơn nhất”, “cái đặc thù”. Trong hoạt động thực tiễn, sự vật mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay lập tức, bao giờ nó cũng nảy sinh từ những yếu tố mới như là những cái đơn nhất. Nếu yếu tố ấy phù hợp với quy luật phát triển khách quan thì chúng sẽ mở rộng dần phạm vi tồn tại, tức là cái mà lúc đầu chỉ là đơn nhất sẽ từng bước chuyển hóa thành “cái chung”, “cái phổ biến”…làm cho sự vật cũ thay đổi từ bản chất bên trong đưa đến sự ra đời của sự vật mới. Chính vì cái đơn nhất có ý nghĩa quan trọng như vậy nên trong quá trình nhận thức và hành động, người ta không những phải nắm vững cái mới, mặc dù nó chỉ là cái đơn nhất, mà còn phải nắm vững cả những điều kiện đáp ứng cho nhu cầu tồn tại và phát triển của những cái mới, để chủ động tạo ra những điều kiện đó nhằm thúc đẩy sự hình thành cái mới nhanh chóng hơn và ngược lại. Bài học thứ năm, như đã đề cập, “cái đơn nhất” là phạm trù phản ánh những nét đặc trưng riêng có của một sự vật, quy định tính chất cụ thể của sự vật đó. Không nắm vững những nét đặc trưng đó thì chủ thể nhận thức không thể hiểu đối tượng một cách đầy đủ như một chỉnh thể hiện thực. Chính vì vậy, để nhận thức sâu sắc, thấu đáo một đối tượng nào đó, người ta không thể thỏa mãn và dừng lại ở những mặt hay thuộc tính chung , cho dù những mặt hay thuộc tính đó quy định bản chất của đối tượng, trái lại còn cần phải nắm vững cả những nét đặc trưng riêng có như là yếu tố “đơn nhất”. Chẳng hạn, để hiểu sâu sắc về CNTB Nhật Bản thì không thể dừng lại ở những thuộc tính chung của CNTB hiện đại mà phải hiểu cả những yếu tố riêng có của CNTB Nhật Bản. Một số khái niệm, nội dung chủ yếu và những bài học đã được tổng kết nêu trên về mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, cái phổ biến và cái đặc thù và cái đơn nhất là những nền tảng quan trọng trong phương pháp tiếp cận của đề tài. Nó chính là công cụ, là phương tiện để giúp cho việc thực hiện đề tài này. 1.1.2 Mối quan hệ giữa cái phổ biến và cái đặc thù về con đường đi lên CNXH Từ những khái niệm và mối quan hệ giữa cái phổ biến và cái đặc thù đã nêu ở trên, có thể hiểu cái phổ biến về con đường đi lên CNXH đó là những nguyên lý, những
  17. quan điểm có tính bền vững của chủ nghĩa Mác-Lênin trong định hướng về xây dựng CNXH. Còn cái đặc thù về con đường đi lên CNXH được hiểu là sự vận dụng và phát triển mang tính sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin vào những hoàn cảnh, điều kiện cụ thể để từ đó làm nên tính đa dạng về các mô hình khác nhau của CNXH. Trong thực tế, tính thống nhất, phổ biến của CNXH tồn tại và thể hiện thông qua các hiện tượng lịch sử cụ thể. Bởi nếu chúng ta quan niệm CNXH là sự thống nhất nội tại về bản chất của các biểu hiện của hiện thực thì hình thức tồn tại của nó được gọi là dạng thức. Vì tính đa dạng của CNXH là những dạng thức thực hiện cụ thể của CNXH. Trên phương diện này, chủ nghĩa Mác đã tạo ra một môi trường rộng lớn cho sự sáng tạo và sự kiếm tìm những phương án phát triển khác nhau của CNXH. Chính Lênin đã từng nói, bước quá độ lên CNXH làm nảy sinh những hình thức quá độ hết sức đa dạng. Chính sự phát triển của những cái riêng, cái đặc thù của các xã hội cụ thể làm phong phú, sâu sắc cái chung, cái phổ biến, làm cho cái chung, cái phổ biến có sức sống hiện thực và do đó, tính thống nhất không rơi vào trừu tượng, chung chung. Bởi từ trước đến nay, không thể có CNXH vô hình nằm ngoài quốc gia, dân tộc, mà nó được sinh thành và phát triển trong lòng mỗi quốc gia, dân tộc phù hợp và được quy định bởi đặc điểm và hoàn cảnh của quốc gia đó. Lênin cũng đã từng nói rằng, mỗi nước cần phải nắm vững những gì là đặc điểm dân tộc, những gì là đặc trưng của dân tộc trong giải quyết các nhiệm vụ cách mạng XHCN của mình. Nguyên tắc cơ bản của CNXH và tính đặc trưng chung của nó không tách rời thực tiễn cụ thể và tính đặc thù của CNXH. Tính đặc thù mà chúng ta chỉ ra là tính phổ biến của CNXH được thiết lập cụ thể trong từng giai đoạn khác nhau, ở các quốc gia, dân tộc khác nhau, là nguyên tắc cơ bản của CNXH được vận dụng sáng tạo và thực tế biểu hiện trong từng điều kiện lịch sử khác nhau. Mọi CNXH hiện thực, cụ thể đều là đặc sắc, đều là sự kết hợp giữa tính phổ biến, bản chất và hiện thực. Chính vì thế, tính đặc thù và thực tiễn cụ thể của CNXH càng làm phong phú thêm tính hiện thực trực tiếp, tạo ra mô hình phát triển với hình thái cụ thể và đa dạng. Có thể khẳng định rằng, các quốc gia, dân tộc khác nhau, với những truyền thống lịch sử văn hóa và trình độ phát triển văn minh khác nhau tất yếu phải tiến hành cách mạng XHCN với những cách làm khác nhau, đặc điểm và đặc thù xây dựng đường lối cũng khác nhau. Hơn thế, trong các giai
  18. đoạn của tiến trình phát triển sẽ biểu hiện rõ những đặc trưng và sự khác biệt về tính giai đoạn. Mặt thống nhất giữa cụ thể và lịch sử của tính phổ biến và tính đặc thù của CNXH là nhằm thỏa mãn yêu cầu cơ bản của chế độ XHCN. Kiên định trước sau như một vấn đề này mới làm cho quy luật phổ biến phát triển xã hội và đặc điểm tình hình trong nước, tính tất yếu lịch sử và tính chủ động lịch sử của quần chúng kết hợp tốt được với nhau. Đi ngược yêu cầu cơ bản đó, CNXH sẽ chệch hướng và đi đến thất bại. Vì vậy, để nhận thức đúng đắn và nắm chắc mối quan hệ thống nhất, biện chứng giữa tính phổ biến và tính đặc thù của CNXH, tất yếu phải loại bỏ hai khuynh hướng sai lầm dưới đây: Một là, cường điệu tính phổ biến và coi nhẹ tính đặc thù. Có không ít người chỉ nhấn mạnh tính phổ biến, đến những quy luật chung và xem đó là “phương thuốc” có thể chữa được “bách bệnh”, coi việc giải quyết được vấn đề này là có thể giải quyết được tất cả các vấn đề khác, không thấy được tính đặc thù của CNXH, phiến diện, cường điệu tính phổ biến. Bản thân điều đó đã làm mất đi tính lý luận khoa học, làm cho nó tự mất đi vai trò chỉ đạo thực tiễn. Sai lầm này thường được biểu hiện ra không chỉ trong nhận thức mà còn cả trong thực tiễn hành động. Về mặt nhận thức, đó là do sự lẫn lộn bản chất của CNXH với mô hình có tính khuôn mẫu của CNXH. Trong một thời gian dài, chúng ta tuyệt đối hóa mô hình CNXH Liên Xô hình thành trong điều kiện lịch sử riêng biệt làm bản chất của CNXH, coi đó là khuôn mẫu, là giá trị phổ biến, là thước đo có tính chuẩn mực về sự phát triển của CNXH. Trong những năm 30 của thế kỷ XX, Quốc tế Cộng sản từng ra sức phổ biến kiểu mẫu Liên Xô và lấy đó để phân biệt cách mạng và phản cách mạng. Lúc ấy, trong quan niệm của rất nhiều người, CNXH tức là Liên Xô, Liên Xô tức là CNXH, nếu rời khỏi kiểu mẫu Liên Xô tức là xa rời CNXH. Thế là cơ chế kinh tế kế hoạch, thể chế chính trị lấy Đảng thay cho chính quyền và tập quyền ở Trung ương đến cao độ cũng như cách làm bài xích tiền tệ và hàng hóa, phủ định tác dụng của cơ chế thị trường đối với việc phát triển kinh tế, v.v., nhất loạt rập khuôn Liên Xô, từ đó hình thành một nhận thức hết sức sai lầm về bản chất của CNXH1. 1 Hội thảo khoa học Trung-Việt, Chủ nghĩa xã hội, cái phổ biến và cái đặc thù, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2000, tr 235
  19. Hai là, xa rời tính phổ biến, mù quáng thổi phồng tính đặc thù, coi nhẹ vai trò của nguyên lý phổ biến, thậm chí phủ nhận và đi ngược lại nguyên tắc cơ bản của CNXH, làm cho CNXH mất phương hướng, thậm chí đổ vỡ. Kinh nghiệm và bài học của phong trào XHCN đã nhiều lần chứng minh luận điểm đó. Thực tiễn vận động của phong trào CNXH hiện thực đã chứng minh rằng những chính đảng hoặc nhà nước nào kiên trì kết hợp nguyên lý cơ bản của CNXH khoa học với tình hình thực tế cụ thể của nước mình, không ngừng phát triển CNXH khoa học một cách tự giác theo sự biến đổi của thực tiễn, thì công cuộc xây dựng CNXH sẽ liên tục giành được thắng lợi. Trái lại, một khi coi CNXH khoa học là giáo điều bất biến, bê nguyên xi những kết luận mà những người sáng lập ra chủ nghĩa Mác đã đúc rút được qua phân tích các quốc gia TBCN vào những nước có nền kinh tế, văn hóa lạc hậu, xa rời thực chất tinh thần của CNXH khoa học sẽ làm cho CNXH bị trắc trở, tổn thất; hoặc mượn cớ thời đại và tình hình có biến đổi, nhận định chủ nghĩa Mác đã lỗi thời, vứt bỏ những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác cũng sẽ không xây dựng thành công CNXH. Tất cả các nước đi lên CNXH, dù có mang những đặc điểm riêng cũng vẫn phải tuân theo những quy luật chung. Nhưng không thể từ đó mà suy diễn ra cái riêng, cái đặc thù trong tính đa dạng, chỉ là biểu hiện đơn thuần, một chiều của cái chung, cái phổ biến. Bởi bản chất của CNXH không phải là một cái gì khác của tồn tại, mà ngay từ đầu đã là một tồn tại được quy định và sự phát triển của nó là sự phát triển của tính quy định này…, bởi vì mọi tính quy định đều là sự thống nhất của cái phổ biến và cái đặc thù. Tình trạng tuyệt đối hóa mô hình chung, từ đó không chịu tìm tòi những đặc điểm, đặc thù riêng của nước mình đi lên CNXH cũng có nguyên nhân từ sự suy diễn sai lệch này. Do đó, hiển nhiên là hai mặt tác động lẫn nhau, quy định và chế ước lẫn nhau trong mối liên hệ nội tại hữu cơ. Tính phổ biến (hay như một số tài liệu khác gọi là tính thống nhất) làm cho CNXH dù biểu hiện phong phú dưới những hình thức khác nhau muôn màu muôn vẻ, song vẫn liên kết chặt chẽ với nhau; và ngược lại, tính đặc thù trong sự thể hiện khiến cho CNXH vận động một cách linh hoạt, phong phú những vẫn trên cơ sở tuân theo những quy luật, nguyên lý chung có tính phổ biến và không ngừng củng cố tính phổ biến. Chính nhờ vậy mà chúng ta hiểu được ngày càng khoa học và cụ thể hơn sự thống nhất của tất cả các dạng thức của CNXH với tính quy định đặc thù của chúng;
  20. và ngày càng thấu triệt hơn, hiểu toàn vẹn và sâu hơn sự đa dạng và các hình thức tồn tại của CNXH. Do đó, tính phổ biến của CNXH và tính đặc thù của các hình thức biểu hiện được phác họa ngày càng rõ rệt hơn. Bởi vậy, giống như C.Mác đã từng nói, chia cắt hay tách rời giữa tính phổ biến và tính đặc thù của CNXH là một điều tệ hại. Song thổi phồng hoặc hạ thấp một trong hai vấn đề trên cũng tệ hại không kém. Phép biện chứng chỉ rõ, không thể lấy tính phổ biến để làm tan biến hoặc hòa đồng tính đa dạng được thể hiện ra thành những cái đặc thù, cũng như không thể lấy cái bản sắc, cái riêng trong tính đa dạng đối lập với cái phổ biến, cái chung. Vì vậy, khi xét mối quan hệ biện chứng giữa cái phổ biến và cái đặc thù phải chú ý thỏa đáng mặt bản chất, quy luật chung, đồng thời cần dựa vào điều kiện lịch sử cụ thể, xuất phát từ tình hình cụ thể. Bởi CNXH không chỉ là một lý thuyết mà còn là một phong trào hiện thực vận động trên cơ sở khoa học. Do vậy, hiện thực đó bao giờ cũng là một cái cụ thể, tức là một sự thống nhất trong tính đa dạng; mặt khác, hiện thực đó luôn bị chi phối bởi những quy luật, bản chất chung, không có hình thù và không có sự phân biệt. Cho nên nếu chỉ nhấn mạnh đến tính phổ biến mà quên đi tính đặc thù thì là một sự ưu tiên sai lệch, nguy hiểm và ngược lại, quá nhấn mạnh tính đặc thù mà coi nhẹ tính phổ biến cũng là một sự ưu tiên sai lệch nguy hiểm không kém. CNXH hiện đại, cũng như thế giới hiện nay chứa đựng rất nhiều vấn đề với vô vàn các mối quan hệ đan xen giữa cái chung và cái riêng, cái phổ biến và cái đặc thù. Đặc biệt, xu hướng toàn cầu hóa kinh tế đang phát triển làm cho thế giới phụ thuộc nhau hơn, đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức và yêu cầu mới đối với tính phổ biến và tính đặc thù của CNXH. Do vậy, phải không ngừng chuẩn hóa các quy luật chung, những bản chất chung phù hợp với sự biến đổi của thế giới hiện đại. Nhưng dưới sự tác động sâu rộng và mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, của kinh tế tri thức, sự phân công và hợp tác quốc tế ngày càng tăng lại là môi trường, là mảnh đất thuận lợi cho những biến thể trong sự phát triển của CNXH nảy sinh đến mức xa lạ với những bản chất chung, xa rời những quy luật chung của sự nghiệp xây dựng CNXH. Do vậy, trong quá trình vận dụng các quy luật phổ biến của CNXH, các quốc gia phải đặc biệt chú ý đến những đặc điểm vốn có của mỗi quốc gia dân tộc mình, đồng thời phải luôn ghi nhớ rằng “những đặc điểm đó chỉ có thể thuộc về những cái gì không phải là chủ yếu nhất” mà thôi.
nguon tai.lieu . vn