Xem mẫu

  1. LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là người Dân tộc thiểu số của VKSND cấp huyện ở tỉnh Thái Nguyên
  2. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo trong hơn 20 năm qua đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, đã đem lại cho đất nước một sự thay đổi cơ bản, toàn diện làm cho thế và lực của nước ta không ngừng lớn mạnh trên trường quốc tế. Trong những lĩnh vực đổi mới thì đổi mới hệ thống chính trị, trong đó đổi mới tổ chức hoạt động của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng góp phần ngày càng hoàn thiện c ơ cấu và cơ chế tổ chức hoạt động, chất lượng hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng được bảo đảm. Nhà nước thực hiện quản lý bằng pháp luật trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội ngày càng hiệu quả, tính pháp quyền ngày càng rõ rệt phù hợp với bối cảnh mới của đất nước thời đại. Nhất quán đường lối đổi mới tại Đại hội Đảng IX, tại Đại hội X Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiếp tục chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của dân, do dân, vì dân, thực hiện tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, đồng thời gắn việc thực hiện chủ trương này với việc thực hiện ba cuộc cải cách lớn về bộ máy nhà nước, gồm cải cách lập pháp, cải cách hành chính và cải cách tư pháp. Thực hiện cải cách tư pháp là nhằm “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, kiện toàn các cơ quan tư pháp theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả... lấy cải cách tổ chức và hoạt động xét xử làm trung tâm”. Thực hiện mục tiêu trên các hoạt động cải cách tư pháp đã diễn ra mạnh mẽ, trên tất cả các yếu tố cấu trúc của nền tư pháp, với nhiều chuyển biến tích cực, góp phần quan trọng giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần thực hiện công bằng xã hội, phục vụ tích cực vào công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân.
  3. Tuy nhiên, những kết quả đó mới chỉ là bước đầu, và mới chỉ tập trung vào giải quyết những vấn đề bức xúc nhất. Hoạt động tư pháp còn bộc lộ nhiều hạn chế. Đối với hoạt động kiểm sát các hoạt động tư pháp, trong đó có hoạt động kiểm sát xét xử (KSXX) sơ thẩm án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) còn có những hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, trong thực tế còn xảy ra tình trạng oan sai, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong xét xử, đội ngũ Kiểm sát viên (KSV), kiểm sát xét xử án hình sự còn nhiều yếu kém về nhận thức pháp luật, về năng lực trình độ, chưa phát huy được hết vai trò trách nhiệm khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao. Việc nghiên cứu hồ sơ, chuẩn bị tài liệu, nội dung đề cương, thẩm vấn tại phiên toà của KSV chưa được chú trọng. Hoạt động tranh tụng giữa KSV với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng chất lượng chưa cao. Những tồn tại nêu trên do nhiều nguyên nhân, cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, tổng kết thực tiễn để có các quan điểm, giải pháp tháo gỡ có tính đồng bộ, khả thi. Mặt khác, về phương diện lý luận, quan điểm của Đảng về những định hướng lớn đổi mới tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp, nhất là việc chuyển tổ chức Toà án theo đơn vị hành chính sang theo thẩm quyền xét xử, tiến tới Viện kiểm sát sẽ trở thành Viện Công tố, thực hiện chỉ đạo điều tra đã và đang đặt ra những vấn đề lý luận, đòi hỏi phải giải quyết để có những phương án cải cách mang tính khoa học và thực tiễn. Đối với VKSND cấp huyện ở tỉnh Thái Nguyên việc thực hiện cải cách tư pháp những năm qua đã có nhiều đổi mới, chất lượng công tác kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố trong giải quyết các vụ án hình sự, trong đó có các vụ án mà bị cáo là người dân tộc thiểu số (DTTS) ngày càng được bảo đảm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy Thái Nguyên với dân số hơn 1 triệu người, có 10 dân tộc cùng sinh sống (Kinh, Tày, Nùng, Dao, Cao Lan, Sán Chỉ, Sán chay, H'mông, Hoa), tình hình tội phạm hình sự vẫn đang diễn ra hết sức phức tạp, đối tượng phạm tội là người DTTS chiếm tỷ lệ cao, nhiều trường hợp phạm tội nghiêm trọng, như cướp tài sản, giết người, cố ý gây thương tích, hiếp dâm, cưỡng đoạt tài sản... ngày càng tăng. Chất lượng hoạt động KSXX án hình sự còn bộc lộ nhiều hạn chế, thiếu sót, nhất là trong hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự mà đối tượng
  4. phạm tội là người DTTS. Trước thực trạng và yêu cầu nghiên cứu lý luận trên, đề tài luận văn Thạc sĩ nghiên cứu "Cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là người Dân tộc thiểu số của VKSND cấp huyện ở tỉnh Thái Nguyên" là hết sức cần thiết và cấp bách đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong những năm gần đây, đặc biệt là từ khi có Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/1/2002 của Bộ Chính trị "về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp", vấn đề áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng pháp luật hình sự trong hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự nói riêng của ngành kiểm sát luôn là đề tài thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học pháp lý, và đã có nhiều công trình khoa học được công bố đến vấn đề này, đáng chú ý là các công trình sau: - VKSND tối cao "Những giải pháp xây dựng đội ngũ KSV cấp huyện đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay" (2002). Đề tài khoa học cấp Bộ do Vụ Tổ chức cán bộ chủ trì đề tài đã làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về đội ngũ KSV xác định những nguyên nhân, tồn tại, đề ra biện pháp khắc phục nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ KSV cấp huyện, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay. - Trịnh Khắc Triệu, "Nâng cao trách nhiệm của KSV trong việc thực hành quyền công tố tại các phiên toà xét xử án hình sự", Tạp chí Kiểm sát số 08 năm 2002. Bài viết đã nghiên cứu làm rõ hoạt động thực hành quyền công tố của KSV tại phiên toà, những vấn đề KSV cần thực hiện tốt trong kiểm sát tại các phiên toà xét xử án hình sự. - Vũ Mộc, "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn đổi mới thủ tục tranh luận tại phiên toà" (2004) đề tài cấp Bộ, Viện Khoa học VKSND tối cao chủ trì đề tài làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn vận dụng tranh tụng tại phiên toà, đề xuất một số giải pháp nhằm đổi mới tranh tụng tại phiên toà hình sự theo tinh thần Nghị quyết 08/NQTW của Bộ Chính trị khoá IX. - Dương Thanh Biểu, "Tranh luận của KSV tại phiên toà hình sự, những vấn đề lý luận và thực tiễn", Tạp chí Kiểm sát số 24 năm 2005. Bài viết đã tập trung trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực trạng hoạt động tranh luận của KSV tại phiên toà hình sự và đề xuất phương hướng nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tranh luận của KSV tại
  5. phiên toà hình sự. Luận văn đã phân tích những vấn đề lý luận về tố tụng hình sự trong bảo đảm quyền con người, trong đó có những vấn đề lý luận liên quan đến vai trò của KSV qua thực hiện quyền công tố và KSXX để bảo vệ có hiệu quả quyền con người của bị can, bị cáo. - Nguyễn Mạnh Hà, "Trách nhiệm của Kiểm sát viên VKSND trong thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay", Luận văn Thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2008). Luận văn đã xây dựng khái niệm trách nhiệm của KSV, những yêu cầu đối với KSV trong thực hiện trách nhiệm thực hành quyền công tố và KSXX trong các phiên toà hình sự, các giải pháp bảo đảm trách nhiệm đó theo yêu cầu cải cách tư pháp. - Nguyễn Đức Phúc, "Đảm bảo quyền con người trong tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay" Luận văn Thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2004. Ngoài ra còn nhiều công trình nghiên cứu được công bố trên các tạp chí chuyên ngành, các sách chuyên khảo của các nhà khoa học pháp lý nghiên cứu những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài của luận văn. Tuy nhiên có thể thấy cho đến nay chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách có hệ thống, đầy đủ dưới góc độ lý luận chung về nhà nước và pháp luật hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự đối với bị cáo là người DTTS, nhất là lại ở một tỉnh có nhiều DTTS như tỉnh Thái Nguyên hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn - Mục đích: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là người DTTS của VKSND cấp huyện ở tỉnh Thái Nguyên, từ đó đề xuất các luận chứng các quan điểm, giải pháp bảo đảm hoạt động đó đáp ứng những yêu cầu đặt ra hiện nay. - Nhiệm vụ: Phù hợp với mục đích trên luận văn có các nhiệm vụ sau + Phân tích cơ sở lý luận hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là người DTTS, như khái niệm, đặc điểm và những yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là người DTTS.
  6. + Xác định các yêu cầu và điều kiện bảo đảm cho hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là người DTTS của VKSND cấp huyện ở tỉnh Thái Nguyên đáp ứng các yêu cầu đặt ra hiện nay. + Khảo sát thực tiễn hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là người DTTS của VKSND cấp huyện ở tỉnh Thái Nguyên, thông qua hoạt động của KSV ở các giai đoạn chuẩn bị xét xử; giai đoạn xét xử và giai đoạn kết thúc phiên toà, xác định những nguyên nhân của những ưu điểm và tồn tại cần khắc phục. + Đề xuất luận chứng, quan điểm, và giải pháp nhằm bảo đảm hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự đối với bị cáo là người DTTS của VKSND cấp huyện ở tỉnh Thái Nguyên đáp ứng yêu cầu hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của các quan điểm, giải pháp bảo đảm hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là người DTTS theo BLHS, BLTTHS Việt Nam. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là người DTTS của VKSND cấp huyện ở tỉnh Thái Nguyên, và chỉ giới hạn ở giai đoạn xét xử (gồm: các hoạt động trước, trong và sau xét xử). Về thời gian, trong khoảng thời gian 5 năm (2004 - 2008), cả về phương diện lý luận và thực tiễn đều cho thấy hoạt động KSXX và hoạt động thực hành quyền công tố của KSV tại phiên toà hình sự có quan hệ chặt chẽ với nhau không thể tách rời. Vì lẽ đó, luận văn trong nhiều vấn đề không thể không đề cập đến việc thực hành quyền công tố của KSV nhất là những vấn đề trực tiếp liên quan đến KSXX án hình sự. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn - Cơ sở lý luận Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, các quan điểm mang tính lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nhà nước và pháp luật trong thời kỳ đổi mới, về cải cách tư pháp và chính sách dân tộc. Luận văn cũng dựa trên cơ sở lý luận của các bộ môn khoa
  7. học pháp lý chuyên ngành, trực tiếp là bộ môn lý luận chung về nhà nước và pháp luật, khoa học luật hình sự, tố tụng hình sự Việt Nam. - Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp luận của triết học Mác - Lênin, trực tiếp sử dụng các phương pháp phân tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số các phương pháp của các bộ môn khoa học khác, như phương pháp của lý thuyết hệ thống, phương pháp của khoa học thống kê, phương pháp xã hội học. Các phương pháp của triết học Mác-Lênin có ý nghĩa phương pháp luận, được luận văn sử dụng đồng thời để giải quyết các nhiệm vụ được đặt ra: phương pháp của khoa học thống kê, xã hội học, được sử dụng chủ yếu trong khảo sát tình hình phạm tội và đánh giá thực trạng, phương pháp lý thuyết hệ thống bảo đảm tính toàn diện, nhất quán, sự cân đối và liên thông giữa các nội dung của luận văn. 6. Những điểm mới về mặt khoa học của luận văn Từ kết quả đạt được luận văn có những điểm mới về mặt khoa học sau: - Phân tích làm nổi bật các đặc điểm của hoạt động KSXX án hình sự đối với bị cáo là người DTTS. - Xác định các yếu tố ảnh hưởng, những yêu cầu, điều kiện bảo đảm hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là người DTTS ở Việt Nam hiện nay. - Đánh giá thực trạng hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là người DTTS của VKSND cấp huyện ở tỉnh Thái Nguyên, rút ra những hạn chế và nguyên nhân dẫn đến hạn chế đó hiện nay. - Luận chứng và đề xuất các quan điểm, giải pháp bảo đảm hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là người DTTS của VKSND cấp huyện ở tỉnh Thái Nguyên đáp ứng yêu cầu đặt ra hiện nay. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên những cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là người DTTS của VKSND cấp huyện ở tỉnh Thái Nguyên. Do vậy kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần phát triển cơ sở lý luận
  8. nhằm bảo đảm cho hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với các bị cáo là người DTTS, có giá trị tham khảo trực tiếp cho VKSND tỉnh Thái Nguyên. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy tại các cơ sở đào tạo, nghiên cứu luật ở tỉnh Thái Nguyên cũng như các cơ sở đào tạo, nghiên cứu khác trên phạm vi cả nước. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương, 6 tiết. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT XÉT XỬ ÁN HÌNH SỰ SƠ THẨM ĐỐI VỚI BỊ CÁO LÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM 1.1. HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT XÉT XỬ ÁN HÌNH SỰ VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT XÉT XỬ SƠ THẨM ÁN HÌNH SỰ ĐỐI VỚI BỊ CÁO LÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ 1.1.1. Khái niệm hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự Hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự là hoạt động kế tiếp hoạt động kiểm sát điều tra, là quá trình kiểm tra lại các kết quả của hoạt động điều tra và hoạt động kiểm sát điều tra, nhằm bảo vệ quan điểm truy tố của VKSND. Hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự được bắt đầu khi hồ sơ vụ án được chuyển đến Toà án nhân dân, TAND quyết định đưa vụ án ra xét xử tại phiên toà, VKS thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Toà án và thực hành quyền công tố nhà nước tại phiên toà. Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố là loại hình hoạt động đặc trưng của VKSND được Hiến pháp và pháp luật qui định. Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam và Điều 16 Luật Tổ chức VKSND (năm 2002) qui định: “Trong hoạt động kiểm sát xét xử các vụ án hình sự VKSND có trách nhiệm thực hành quyền công tố đảm bảo việc truy tố đúng người, đúng
  9. tội, đúng pháp luật và kiểm sát việc xét xử các vụ án hình sự, nhằm bảo đảm xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời" [17]. Như vậy, trong giai đoạn kiểm sát xét xử án hình sự, VKSND thực hiện đồng thời hai hoạt động là thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân. Hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử là truy tố người có hành vi phạm tội ra trước Toà án nhân dân, còn hoạt động kiểm sát xét xử là bảo đảm việc thực hiện theo pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng thực hiện nghiêm chỉnh, thống nhất theo đúng qui định của pháp luật và đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Để làm rõ khái niệm hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự, cần làm rõ một số vấn đề sau: - Hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự là một trong các hoạt động kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND.Theo qui định tại Điều 137 Hiến pháp 1992 (sửa đổi 2001), chức năng của VKSND đã được điều chỉnh, theo đó là VKSND không thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính - kinh tế - xã hội mà chỉ tập trung thực hiện chức năng "thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp". Luật Tổ chức VKSND (năm 2002) qui định kiểm sát hoạt động tư pháp gồm: + Hoạt động kiểm sát điều tra. + Hoạt động kiểm sát xét xử. + Hoạt động kiểm sát thi hành án. + Hoạt động kiểm sát tạm giam, tạm giữ, cải tạo phạm nhân. Như vậy, kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự là chức năng hiến định của VKSND, có nội dung giám sát mọi hoạt động của các cơ quan tư pháp trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, nhằm đảm bảo cho pháp luật tố tụng hình sự được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất [18, tr.62]. Khác với hoạt động thực hành quyền công tố nhà nước, kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự của VKSND không chỉ được tiến hành trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử mà còn được tiến hành ở cả giai đoạn thi hành án, trong đó hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự có mục đích là nhằm phát hiện kịp thời những vi
  10. phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng để bảo đảm việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh và kịp thời. - Đối tượng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử sơ thẩm án hình sự là kiểm sát việc tuân thủ pháp luật nghiêm chỉnh và thống nhất của cơ quan tiến hành tố tụng (Toà án nhân dân), của người tiến hành tố tụng (thẩm phán, thư ký, hội thẩm nhân dân), và những người tham gia tố tụng gồm: (bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, người bào chữa, người giám định, người phiên dịch). Trong quá trình kiểm sát, VKSND ngoài việc xem xét TAND có tuân thủ chấp hành các qui định của BLTTHS (năm 2003) như: các qui định về thủ tục tố tụng ở giai đoạn chuẩn bị xét xử, các qui định tố tụng chung tại phiên toà như: xét hỏi, tranh luận, nghị án... mà còn xem xét việc áp dụng pháp luật hình sự và đường lối xử lý của Toà án có đảm bảo đúng pháp luật qui định hay không, nếu có vi phạm, thì tiến hành kiến nghị, kháng nghị nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng. BLTTHS (năm 2003) qui định trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự có các trình tự thủ tục như: Xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, và việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Ở những giai đoạn xét xử khác nhau thì nhiệm vụ quyền hạn và nội dung kiểm sát xét xử của VKSND có những đặc điểm khác nhau, bởi do tính chất pháp lý của từng hình thức phiên toà qui định. - Phạm vi hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự Phạm vi hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự đang là một vấn đề có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự chỉ bắt đầu khi Toà án có quyết định đưa vụ án ra xét xử, tức là khi Toà án xác định một vụ án đã có đủ điều kiện để đưa ra xét xử. Điều đó có nghĩa ở giai đoạn chuẩn bị xét xử Toà án có thể đình chỉ vụ án hoặc VKS có thể rút quyết định truy tố, và đó không thuộc phạm vi kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự. Có ý kiến lại cho rằng theo quy định tại Điều 17 Luật Tổ chức VKSND (năm 2002) thì hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự chỉ bắt đầu khi TAND bắt đầu mở phiên toà xét xử, vì lúc này VKS mới có điều kiện thực hiện hoạt động buộc tội đối với bị cáo và đồng thời kiểm sát các hoạt động
  11. của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng... một cách công khai. Như vậy theo ý kiến này, phạm vi hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự còn hẹp hơn ý kiến ban đầu, mặc dù vậy các ý kiến ấy điều cho thấy có sự hợp lý ở một góc độ nhất định. Để xác định chính xác phạm vi của hoạt động Kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự đòi hỏi phải nhìn nhận một cách đầy đủ và toàn diện trên cơ sở các qui định của Hiến pháp, pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND. Theo qui định của BLTTHS xác định giai đoạn quyết định việc truy tố nằm trong giai đoạn hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án hình sự, khi cơ quan điều tra, kết thúc điều tra bằng bản kết luận và chuyển hồ sơ cho VKS đề nghị truy tố, VKS xét thấy có đủ dấu hiệu phạm tội thì truy tố bị can ra TAND bằng bản cáo trạng, hành vi pháp lý đó đã kết thúc giai đoạn hoạt động kiểm sát điều tra, mở ra một giai đoạn tố tụng tiếp theo, đó là giai đoạn hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự. Như vậy theo các qui định này, có thể xác định phạm vi của hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự được bắt đầu từ khi Toà án có thẩm quyền nhận và thụ lý hồ sơ vụ án kèm theo quyết định truy tố của VKSND và kết thúc khi bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật. Việc xác định giới hạn như trên chỉ hiểu là tương đối, bởi lẽ hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND có thể bị chấm dứt ngay trong quá trình xét xử khi có căn cứ qui định tại Điều 105 BLTTHS "khởi tố theo yêu cầu người bị hại" khi người bị hại rút yêu cầu khởi tố trước khi mở phiên toà, thì Toà án phải ra quyết định đình chỉ vụ án, hoặc khi VKS ra quyết định rút quyết định truy tố, hoặc khi bản án, quyết định của TAND có kháng cáo hoặc bị kháng nghị theo trình tự phúc thẩm. Quan điểm về phạm vi hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật như đã nêu trên, được Điều 2 Qui chế thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự (năm 2008) và Điều 3 Qui chế thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự ban hành năm 2007 thể hiện rõ với các nội dung:
  12. - Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự bắt đầu từ khi phát hiện có dấu hiệu phạm tội xảy ra đến khi kết thúc việc điều tra. - Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử án hình sự được bắt đầu từ khi chuyển bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn cùng với hồ sơ vụ án sang TAND để xét xử và kết thúc khi bản án và quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật không bị kháng cáo, kháng nghị. - Theo qui định của BLTTHS (năm 2003) hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự có một số vấn đề cần chú ý sau: Về thẩm quyền thực hiện hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự. Tại Điều 170 BLTTHS qui định,TAND cấp huyện được xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng, trừ một số tội phạm khác theo qui định. TAND cấp tỉnh được xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm không thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền của TAND cấp dưới mà cấp trên lấy lên để xét xử. Như vậy, qua sự phân tích trên chúng ta có thể hiểu: Hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự là việc VKSND sử dụng quyền năng pháp lý do pháp luật qui định để kiểm tra, giám sát tính hợp pháp, tính có căn cứ, đúng pháp luật những hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, nhằm bảo đảm việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời. Hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự theo quan niệm đó được thực hiện trong cả giai đoạn chuẩn bị xét xử, giai đoạn xét xử công khai và giai đoạn sau khi xét xử xong vụ án. 1.1.2. Đặc điểm của hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự đối với bị cáo là người dân tộc thiểu số Hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự đối với bị cáo là người DTTS có những đặc điểm chung của hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự, đồng thời còn có những đặc điểm riêng, được qui định chủ yếu do bị cáo là người DTTS cụ thể như sau:
  13. 1.1.2.1. Các đặc điểm chung của hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự Theo qui định của BLTTHS, quá trình tiến hành tố tụng hình sự bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau gồm: giai đoạn khởi tố điều tra, giai đoạn truy tố và giai đoạn xét xử các vụ án hình sự, các giai đoạn này đều thực hiện mục đích xử lý nghiêm minh đối với người phạm tội, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích pháp hợp của công dân. Các giai đoạn tố tụng nêu trên tuy tương đối độc lập nhưng có mối quan hệ khăng khít với nhau tạo thành một hoạt động thống nhất. Giai đoạn trước là tiền đề cần thiết cho việc thực hiện nhiệm vụ của giai đoạn sau và ngược lại, giai đoạn sau là sự kiểm nghiệm kết quả khách quan đúng đắn của giai đoạn trước, mỗi giai đoạn tố tụng ấy đều có một ý nghĩa quan trọng và mang tính đặc thù riêng trong pháp luật tố tụng hình sự. Trong các giai đoạn tố tụng hình sự, giai đoạn xét xử được xác định là giai đoạn quan trọng nhất, nó mang tính quyết định đối với vụ án, điều này được khẳng định tại Điều 9 BLTTHS (năm 2003) với nội dung "không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật" [19]. Hoạt động tố tụng hình sự luôn có ba chức năng: gồm chức năng buộc tội, chức năng bào chữa, chức năng xét xử. Chức năng tố tụng buộc tội thực chất là hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Ở Việt Nam, Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam qui định: VKSND là cơ quan duy nhất thay mặt Nhà nước thực hiện chức năng buộc tội, có trách nhiệm và có quyền đưa ra lời cáo buộc đối với người phạm tội và bảo vệ sự buộc tội đó tại phiên toà, nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý nghiêm minh, kịp thời, không bỏ lọt tội phạm, lọt người phạm tội và không làm oan người vô tội. Những hoạt động đó được diễn ra tại phiên toà xét xử sơ thẩm hình sự, bởi đây là xét xử lần đầu, do TAND có thẩm quyền tiến hành theo qui định của pháp luật, tuy nhiên không phải mọi trường hợp xét xử sơ thẩm đều là xét xử lần đầu. Trong thực tiễn có các trường hợp Toà án có thẩm quyền xét xử đã ra quyết định huỷ án để điều tra hoặc xét xử lại dựa trên qui định pháp luật cụ thể là: theo các Điều 250 BLTTHS (Toà án cấp phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại), Điều 287 BLTTHS (Hội đồng giám đốc thẩm huỷ bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra hoặc xét xử lại), Điều 300 BLTTHS (Hội đồng tái thẩm quyết định huỷ bản án hoặc
  14. quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại vụ án) thì việc xét xử sơ thẩm trong các trường hợp này không thể được coi là xét xử lần đầu. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự trong các trường hợp trên theo BLTTHS qui định chủ yếu thuộc về TAND cấp huyện, một số vụ án thuộc về TAND cấp tỉnh và tương đương. Với quan niệm trên, hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự có những đặc điểm sau: Một là: Kiểm sát xét xử tại phiên toà sơ thẩm là buộc tội bị cáo, bảo vệ cáo trạng, đấu tranh cho quan điểm pháp chế thống nhất tại phiên toà. VKSND, nhân danh Nhà nước thực hiện quyền lực để truy tố người phạm tội ra trước TAND và bảo vệ sự buộc tội đó tại phiên toà xét xử sơ thẩm án hình sự. Hai là: Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử s ơ thẩm án hình sự của Toà án nhân dân, chỉ duy nhất thuộc về VKSND được thực hiện trên cơ sở các qui định cụ thể của Hiến pháp và pháp luật hình sự, Tố tụng hình sự và Luật Tổ chức VKSND, hoạt động đó được tiến hành thông qua hoạt động của KSV được giao nhiệm vụ kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự. Trong quá trình xét xử các vụ án hình sự theo trình tự sơ thẩm, sự tuân thủ pháp luật của HĐXX và những người tham gia tố tụng là đối tượng của hoạt động kiểm sát. Căn cứ vào các qui định của pháp luật, KSV thực hiện nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình xét xử vụ án, nhằm bảo đảm xét xử của TAND được đúng ngư- ời, đúng tội, đúng pháp luật, bảo đảm cho tất cả các chủ thể trong các quan hệ pháp luật phát sinh trong quá trình xét xử đều thực hiện được đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo qui định của pháp luật và đều bình đẳng trước pháp luật. Mặt khác, hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự còn đảm bảo mọi trường hợp oan sai đều phải được giải quyết kịp thời, có những biện pháp khắc phục nhanh chóng những thiệt hại có thể xảy ra đúng theo Nghị quyết số 388/NQ/ Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá X ngày 17 tháng 3 năm 2003 qui định về "bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra". Ba là: Về nội dung hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự gồm:
  15. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc chuẩn bị xét xử. Chuẩn bị xét xử là việc chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đưa một vụ án ra xét xử theo đúng qui định của pháp luật, thực hiện tốt việc chuẩn bị xét xử sẽ nâng cao chất lượng xét xử vụ án, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử các cơ quan tiến hành tố tụng (Toà án nhân dân, VKSND) và những người tiến hành tố tụng (thẩm phán, hội thẩm nhân dân, thư ký, KSV, phải tiến hành các hoạt động nhất định, tuỳ theo chức năng tố tụng của mình theo pháp luật qui định. Đối với thẩm phán đư ợc phân công chủ toạ phiên toà , trong giai đoạn này phải tiến hành các hoạt động như: nghiên cứu hồ sơ vụ án, giải quyết việc áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn, các yêu cầu, khiếu nại của những người tham gia tố tụng, đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án nếu có các căn cứ theo luật định và tiến hành các công việc cần thiết khác cho việc mở phiên toà. Đối với KSV khi được phân công thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vụ án hình sự thì việc kiểm sát các hoạt động chuẩn bị xét xử của Toà án là một trong những nhiệm vụ quan trọng. Hoạt động này được bắt đầu từ khi Toà án nhận được hồ sơ vụ án và kết thúc khi vụ án được đưa ra xét xử tại phiên toà. Căn cứ vào Qui chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, ban hành kèm theo Quyết định số 960 ngày 17 tháng 9 năm 2007 của VKSND tối cao, thì trong giai đoạn này KSV phải kiểm sát việc tuân theo pháp luật các việc sau: Đó là về kiểm sát thẩm quyền xét xử, việc chuyển vụ án, về thời gian chuẩn bị xét xử, việc ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án, việc giao các quyết định này cho bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ và người bào chữa chậm nhất là mười ngày trước khi mở phiên toà theo Điều 182 BLTTHS. Khi thực hiện những công việc trên, KSV có quyền yêu cầu Toà án khắc phục vi phạm hoặc báo cáo Viện trưởng VKSND cùng cấp đề xuất việc kiến nghị Toà án khắc phục những vi phạm trong khi chuẩn bị xét xử, hoặc đề xuất kháng nghị các quyết định của Toà án cấp sơ thẩm khi có vi phạm nghiêm trọng BLTTHS. Thông thường ngay từ khi kiểm sát việc khởi tố vụ án, KSV đã phải xác định ngay thẩm quyền tiến hành tố tụng của VKSND và tương ứng là thẩm quyền của cơ quan điều
  16. tra và Toà án nhân dân. Sau khi kết thúc giai đoạn truy tố, VKS chuyển hồ sơ sang Toà án có thẩm quyền theo qui định. Tuy nhiên nhiều khi việc xác định chính xác thẩm quyền tố tụng nói chung và thẩm quyền xét xử nói riêng cũng rất phức tạp, nhiều trường hợp không xác định được ngay bởi có thể còn có các quan điểm khác nhau xung quanh việc Toà án nào là cơ quan có thẩm quyền xét xử vụ án. Do vậy, trong thực tiễn còn có những trường hợp xảy ra việc khi nhận hồ sơ, thụ lý vụ án mà không thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án cấp mình mà phải chuyển hồ sơ cho TAND khác giải quyết theo thẩm quyền.Trong trường hợp này theo qui định tại Điều 174 BLTTHS trong thời hạn hai ngày kể từ ngày Toà án ra quyết định chuyển vụ án, Toà án có trách nhiệm thông báo cho VKSND cùng cấp biết. Khi nhận được thông báo về việc chuyển vụ án, KSV phải kiểm tra lại hồ sơ vụ án, kiểm tra lại các căn cứ xác định thẩm quyền việc chuyển vụ án theo thẩm quyền xét xử có đúng pháp luật qui định hay không, đồng thời kiểm sát việc quyết định chuyển vụ án đã được gửi tới bị can, bị cáo và những người có liên quan. Trong giai đoạn kiểm sát thời hạn chuẩn bị xét xử đây là khoảng thời gian luật định để TAND tiến hành các hoạt động chuẩn bị cần thiết cho việc xét xử, thời hạn chuẩn bị xét xử cũng là thời hạn để thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà ra một trong các quyết định cần thiết để đưa một vụ án ra xét xử. Tuỳ theo tính chất của tội phạm là ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng mà thời hạn ra một trong các quyết định như: đình chỉ vụ án, tạm đình chỉ vụ án, trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc quyết định đưa vụ án ra xét xử cũng khác nhau. Vì vậy KSV, kiểm sát thời hạn chuẩn bị xét xử phải xác định chính xác thời điểm bắt đầu chuẩn bị xét xử, nhất là đối với những trường hợp bị can tại ngoại, phải kiểm sát việc tống đạt cáo trạng cho bị can và việc chuyển hồ sơ sang Toà án. Điều 176 BLTTHS quy định trong vòng 15 ngày kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử Toà án phải mở phiên toà, trong trường hợp có lý do chính đáng thì Toà án có thể mở phiên toà trong thời hạn 30 ngày. Khi kiểm sát thời hạn chuẩn bị xét xử của Toà án KSV không chỉ có trách nhiệm kiểm tra xem thời gian ra các quyết định có đúng theo qui định tại Điều 176 BLTTHS hay không mà còn phải đôn đốc thẩm phán, chủ toạ phiên toà tuân thủ thời hạn chuẩn bị xét xử để hoạt động được tiến hành nhanh chóng, đúng thời hạn luật định.
  17. Về thẩm quyền trong kiểm sát việc chuẩn bị xét xử, VKSND có quyền yêu cầu TAND cùng cấp chuyển hồ sơ những vụ án sẽ xét xử theo thủ tục sơ thẩm để tiến hành kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự, quyền yêu cầu Toà án xét xử sơ thẩm đưa vụ án hình sự ra xét xử đúng thời hạn pháp luật qui định. Theo Điều 16 Luật Tổ chức VKS (năm 2002) VKSND, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng, áp dụng những biện pháp do bộ luật này qui định để loại trừ vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân này, đồng thời nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan, không lọt tội phạm. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử trong giai đoạn này, KSV ngoài việc thực hiện các hoạt động kiểm sát, còn thực hành quyền công tố tại phiên toà, buộc tội bị cáo, bảo vệ cáo trạng, đấu tranh cho quan điểm pháp chế thống nhất tại phiên toà. Theo qui định tại Điều 16 Luật Tổ chức VKSND (năm 2002) và các Điều 206, 207, 208, 217, 221 BLTTHS, tại phiên toà xét xử vụ án hình sự theo thủ tục sơ thẩm, sau phần thủ tục phiên toà, KSV đọc cáo trạng, trình bày những ý kiến bổ sung cáo trạng của VKS nếu có, trình bày quan điểm của VKS về việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội của bị cáo, đề nghị Toà án xét xử vụ án đúng qui định của pháp luật. Trình tự xét hỏi được thực hiện theo Điều 207 BLTTHS sau khi Hội đồng xét hỏi, KSV tiến hành thẩm vấn, xét hỏi bị cáo, người bị hại, những người có liên quan đến vụ án, khi kết thúc phần thẩm vấn, KSV trình bày bản luận tội và tiến hành tranh luận tại phiên toà, kết luận của KSV có thể đề nghị TAND kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung cáo trạng, hoặc kết luận về một tội danh khác nhẹ hơn. Trường hợp qua xét xử công khai tại phiên toà nếu xét thấy không có căn cứ để chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo thì KSV rút toàn bộ quyết định truy tố và đề nghị HĐXX căn cứ khoản 2 Điều 107 BLTTHS, tuyên bố hành vi không cấu thành tội phạm, KSV phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những quyết định của mình và có quyền thực hiện những biện pháp theo pháp luật qui định để thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động xét xử tại phiên toà sơ thẩm.
  18. Trong trường hợp phát hiện có vi phạm thì KSV có quyền kiến nghị với TAND cùng cấp khắc phục, đồng thời qua kiểm sát các hoạt động trên KSV kiến nghị với các cơ quan hữu quan, tổ chức, khắc phục những vi phạm và áp dụng những biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật. Điều 18 Luật Tổ chức VKSND (năm 2002) qui định, trong quá trình thực hiện kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự phát hiện HĐXX có những vi phạm pháp luật thì KSV yêu cầu HĐXX khắc phục và sửa chữa kịp thời, cũng trong hoạt động kiểm sát xét xử, nếu phát hiện các cơ quan, tổ chức xã hội thiếu sót trong việc quản lý, làm phát sinh vi phạm và tội phạm, thì VKS thực hiện quyền kiến nghị với các cơ quan, các tổ chức xã hội, có những biện pháp khắc phục sửa chữa những thiếu sót, trong việc quản lý chỉ đạo điều hành để loại bỏ nguyên nhân, điều kiện phạm tội và vi phạm pháp luật. Như phần mở đầu đã phân tích, trong giai đoạn KSXX án hình sự, KSV đồng thời thực hiện cả hai chức năng thực hành quyền công tố và KSXX. Trên thực tế đây là hai nhiệm vụ thống nhất và quan hệ chặt chẽ với nhau, thực hành quyền công tố tốt sẽ giúp cho KSV kiểm sát xét xử tốt vụ án và ngược lại. Bốn là: Trong hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự, VKSND có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án và quyết định của TAND chưa có hiệu lực pháp luật, khi phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng BLHS, BLTTHS. Căn cứ Điều 19 Luật Tổ chức VKSND (năm 2002) và các Điều 232, Điều 233, 234, 239 BLTTHS, sau khi kết thúc việc xét xử công khai thì TAND ra một bản án, quyết định. Trong trường hợp bản án, quyết định của Toà án đã tuyên có vi phạm và vi phạm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật về định tội danh, lượng hình phạt, hoặc HĐXX khi tiến hành tố tụng vi phạm pháp luật thì VKSND cùng cấp ra quyết định kháng nghị phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm và kháng nghị trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày Toà án ra quyết định đối với vụ án. Những bản án, quyết định của Toà án có vi phạm nhưng không nghiêm trọng, hậu quả xảy ra không đáng kể, có thể khắc phục được thì VKSND kiến nghị yêu cầu TAND khắc phục sửa chữa. Trong hoạt động xét xử án hình sự, VKSND thực hiện các quyền hạn và nhiệm vụ nhằm bảo đảm phát hiện kịp thời những vi phạm, tội phạm, phát hiện những nguyên nhân và điều kiện phạm tội.
  19. Trong quá trình thực hiện hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự, KSV phải chú trọng thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ và quyền hạn theo luật định nhằm bảo đảm tính thống nhất của pháp chế XHCN trong hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự, đặc biệt là cấp huyện hiện nay đã được tăng thẩm quyền theo Điều 170 BLTTHS. 1.1.2.2. Đặc điểm riêng của hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự đối với bị cáo là người dân tộc thiểu số Cộng đồng dân tộc Việt Nam gồm 54 dân tộc anh em được hình thành trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước. Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác -Lênin, t- ư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, Đảng ta luôn coi trọng vấn đề dân tộc và đề ra đường lối chính sách dân tộc đúng đắn tạo sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần xây dựng đất nước Việt Nam XHCN. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng định: "vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam" [7]. Quan điểm và định hướng dân tộc của Đảng đã được thể chế hoá trong Hiến pháp và pháp luật. Điều 5 Hiến pháp Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam xác định: "Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam, Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục tập quán truyền thống văn hoá tốt đẹp của mình". Nhà nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào DTTS. Trong BLTTHS qui định "Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự là tiếng Việt" [19]. Điều này có nghĩa là người tham gia tố tụng có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình. Tại Điều 10 Luật Trợ giúp pháp lý qui định: "người được trợ giúp pháp lý, là người DTTS thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn". Mặc dù quyền bình đẳng giữa các dân tộc và chính sách t ương trợ giúp đỡ đồng bào DTTS được Đảng, Nhà nước chỉ đạo thực hiện kiên quyết song thực tế đến nay cuộc sống và sinh hoạt của đồng bào DTTS còn chịu sự chi phối mạnh mẽ của rất nhiều yếu tố khác nhau, bởi đa phần họ cư trú ở vùng rừng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó
  20. khăn, địa hình phức tạp với nhiều nhóm địa phương, xa trung tâm văn hoá, phương tiện đi lại khó khăn, vẫn còn có những dân tộc sống du canh, du cư, trình độ văn hoá thấp thậm chí còn không biết chữ, các phương tiện thông tin đại chúng như đài phát thanh, truyền hình, báo chí, phim ảnh, văn hoá văn nghệ nhìn chung ít được tiếp cận, công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật của các cơ quan chức năng không được thường xuyên, chất lượng hạn chế. Trong đời sống và sinh hoạt của đồng bào dân tộc luật tục vừa là một hiện tượng văn hoá phản ánh bản sắc văn hoá của dân tộc đồng thời vừa là qui tắc ứng xử phổ biến truyền thống trong quan hệ con người với con người, con người với cộng đồng, thêm vào đó tín ngưỡng, tôn giáo cũng tác động rất mạnh mẽ đối với đời sống của họ. Không ít những hành vi được xử theo luật tục, tín ngưỡng, trái với yêu cầu của pháp luật. Vì lẽ đó, bên cạnh việc thực hiện chính sách ưu tiên, ưu đãi, nhằm phát triển nâng cao đời sống kinh tế, văn hoá của đồng bào dân tộc, đặc biệt là đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải quan tâm công tác giáo dục vận động đồng bào, giúp đỡ các DTTS ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn từ bỏ những tập tục lạc hậu, xây dựng đời sống văn hoá mới phù hợp với đạo đức truyền thống, pháp luật, đồng thời tuyên truyền giáo dục pháp luật để mọi người dân hiểu và tự giác thực hiện bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất. Tuy nhiên, cùng với quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật trong đồng bào DTTS còn xảy ra nhiều, nhất là ở các vùng Tây Bắc, Việt Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ. Những đối tượng tội phạm là người DTTS có những đặc điểm riêng như sau: - Do trình độ văn hoá thấp, nhận thức rất hạn chế, hạn chế trong quan hệ xã hội, trong giao tiếp, bản chất thật thà. - Cuộc sống không ổn định, đa phần đời sống khó khăn và chịu ảnh hưởng nặng nề của các luật tục, tập quán lạc hậu. - Không hiểu biết pháp luật nói chung, nhất là không biết rõ được hành vi phạm tội là hành vi mà pháp luật hình sự nghiêm cấm.
nguon tai.lieu . vn