Xem mẫu

  1. LUẬN VĂN: Báo nông nghiệp trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
  2. Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài. Trước đổi mới (năm 1986), cả nước ta có trên 50% nông dân đói nghèo, nay đã không còn hộ đói, số hộ nghèo giảm xuống còn 16%. Đây là một trong những kết quả đạt được trong quá trình CNH, HĐN đất nước với sự góp sức của nông nghiệp, nông thôn, cùng với sự nỗ lực của các cấp, các ngành địa phương. Nông nghiệp, nông thôn và nông dân luôn giữ vai trò quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến đời sống kinh tế- xã hội của đất nước. Kể từ khi thành lập cho đến nay, Đảng ta luôn khẳng định vai trò, sức mạnh to lớn của nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Đặc biệt trong quá trình đổi mới, đường lối đúng đắn của Đảng về phát triển nông nghiệp, nông thôn đã thực sự phát huy vai trò và khơi dậy tiềm lực trong nhân dân. Tuy nhiên, phát triển nông nghiệp, nông thôn trong quá trình CNH, HĐH là công việc hết sức khó khăn, thử thách. Bởi nước ta tiến hành CNH, HĐH trong điều kiện nền kinh tế tăng trưởng không cao, trình độ dân trí thấp, cơ sở hạ tầng... không đảm bảo. Do đó tuyên truyền về CNH, HĐH trở thành yêu cầu chung của mọi cấp, mọi ngành trong cả nước, trong đó có sự đóng góp quan trọng của báo chí. Cùng với qúa trình CNH, HĐH đất nước, hầu hết các cơ quan báo chí từ trung ương đến địa phương đều tập trung phản ánh, tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với các chính sách phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá, chính trị, an ninh quốc phòng, đánh giá và rút ra bài học kinh nghiệm trên tất cả các lĩnh vực. Tìm hiểu vai trò của báo chí trong công tác tuyên truyền CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, có nhiều đề tài nghiên cứu của các nhà khoa học, sinh viên đã đề cập đến như: “Báo chí với sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn”, “Những vấn đề then chốt của việc phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH”... Nhưng dường như rất ít đề tài tập trung nghiên cứu vai trò của một tờ báo cụ thể trong công tác tuyên truyền CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Và để có cái nhìn toàn diện về sự biến đổi của nông thôn trong quá trình CNH, HĐH đất nước, nên tôi chọn đề tài: “Tìm hiểu báo Nông nghiệp Việt Nam trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn”. Đây là một trong số ít những tờ báo trong những năm qua đã làm tốt chức năng là diễn đàn xã hội vì sự phát triển của nông nghiệp và nâng cao dân trí nông thôn, được người dân đánh giá chất
  3. lượng. Đã từng bước đưa nghị quyết của Đảng, Nhà nước vào cuộc sống có hiệu quả, nhằm đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Qua tìm hiểu báo NNVN trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, tác giả muốn cung cấp một cái nhìn tương đối toàn diện về những biến động của quá trình đổi mới đang diễn ra ở nông thôn. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Nghiên cứu đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội... thông qua những bài báo tiêu biểu trên báo NNVN trong hai năm (2001-2002), để làm nổi bật vai trò, vị trí của tờ báo trong công tác tuyên truyền về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Đồng thời khoá luận có tham khảo, kế thừa một số bài viết về CNH, HĐH trong thời kỳ đổi mới, một số công trình nghiên cứu về đề tài Báo chí với sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn... 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. Qua việc nghiên cứu, tìm hiểu báo NNVN, là cơ hội tốt để tôi tiếp cận với phương pháp làm việc có khoa học, hệ thống, để học hỏi, tích luỹ kinh nghiệm, nghiệp vụ của người đi trước. Đồng thời đây là dịp để tôi có thể hiểu sâu rộng hơn sự biến đổi của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thông qua phản ánh của báo chí nói chung và báo NNVN nói riêng. Nghiên cứu, khảo sát, thống kê, phân loại nội dung, phân tích các đặc điểm về nội dung tác phẩm báo chí viết về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn trên các lĩnh vực: Thời sự- kinh tế, Văn hoá- xã hội, Khuyến nông- khoa học kỹ thuật và tiến bộ canh tác... Nghiên cứu hình thức thể hiện của tờ báo NNVN: Thể loại, Makét, Chuyên trang, chuyên mục... gắn liền với việc đề xuất ý kiến, kiến nghị về nội dung và hình thức thể hiện của báo NNVN. 4. Phương pháp nghiên cứu. Sưu tầm, khảo sát, thống kê số liệu thu thập được. Phân tích, đánh giá và bám sát đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước và Bộ NN& PTNT về chính sách đối với nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Để thấy được vai trò, vị trí của công tác tuyên truyền của báo chí nói chung và báo NNVN nói riêng trong thời kỳ đổi mới. Qua đó thấy rõ được những đóng góp của tờ báo đối với sự nghiệp CNH-HĐH nông nghiệp - nông thôn, đồng thời chỉ ra các khuyết điểm, hạn chế trong cách thể hiện cũng như nội dung phản ánh để từng bước đưa tờ báo gần với người nông dân hơn, bám sát hơn nữa chủ trương, chính sách của Đảng và ngày một hoàn thiện vai trò, nhiệm vụ của mình trong đời sống xã hội.
  4. Chương 1 lịch sử hình thành và phát triển của báo Nông nghiệp Việt Nam 1. lịch sử hình thành và phát triển của báo Nông nghiệp Việt Nam. Tiền thân của báo là tờ “Tấc đất”, ra đời năm 1946 trong hoàn cảnh đất nước đang trong tình trạng đói kém triền miên. Năm 1947, “Tấc đất” đổi thành “Toàn dân canh tác” nhằm cổ vũ, hướng dẫn nông dân sản xuất nông nghiệp, tự túc nguồn lương thực- thực phẩm, và hàng tiêu dùng trong cả nước. Đến năm 1949 báo có tên “Canh nông tập san”, nhằm giới thiệu chủ trương, biện pháp lớn về nông nghiệp và những kết quả thực nghiệm, nghiên cứu khoa học- kỹ thuật của ngành. Hoà bình lập lại, cùng thời điểm thành lập Bộ Nông Lâm, tờ báo có khổ A2. Năm 1962 sau khi tách Bộ Nông Lâm thành Bộ Nông nghiệp và Bộ Lâm nghiệp, theo chỉ thị của đồng chí Nguyễn Chí Thanh- Uỷ viên Bộ Chính trị kiêm Trưởng Ban Nông nghiệp Trung ương, báo gấp thành quyển 13x19cm với măng séc “Tạp chí Khoa học kỹ thuật nông nghiệp”, phát hành mỗi tháng 2 kỳ. Chủ yếu giành cho nông dân, xã viên. Năm 1968, tờ “Tạp chí Khoa học kỹ thụât nông nghiệp” lại được mở ra thành khổ báo như hiện nay là 42x 29cm, 8 trang và mỗi tháng 2 kỳ. Ngày 30.5.1987 Bộ Nông nghiệp và Công nghệ thực phẩm ra quyết định số 89 NN- CNTP/ QĐ, cho phép thành lập cơ quan báo Nông nghiệp Việt Nam và Tạp chí Khoa học kỹ thuật nông nghiệp trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Công nghịêp thực phẩm gọi là “Báo Nông nghiệp Việt Nam”, trên cơ sở hợp nhất báo Lương thực (Bộ lương thực cũ), báo Nông nghiệp và Tạp chí Khoa học kỹ thuật nông nghiệp (Bộ Nông nghiệp cũ). Lúc này số ngày phát hành được thu hẹp còn 10 ngày/1 kỳ, khổ 42x 29 cm với 8 trang. Năm 1998 số kỳ ra báo tăng lên 1 tuần 2 kỳ, 16 trang, có thêm tạp chí “Kiến thức gia đình” (phát hành năm 1995). Một năm sau tăng lên 3 kỳ 1 tuần, rồi năm 2000- 2001 báo tăng lên 4 kỳ và có thêm phụ san Dân tộc và Miền núi, phát hành vào thứ 4 hàng tuần. Ngày 1.4.2002 báo phát hành 5 kỳ. Báo in ở 2 miền; Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, năm sau báo mở rộng địa bàn in ở Đà Nẵng. Báo Nông nghiệp được đánh giá là tờ báo có số lượng phát hành ổn định, trước năm 2001 số báo phát hành khoảng 3 vạn và vẫn giữ vững cho đến bây giờ.
  5. 2. Chức năng, nhiệm vụ của báo Nông nghiệp Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. 2. 1. Báo chí với công tác tuyên truyền công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Nước ta là một nước nông nghiệp, trên 65% lao động xã hội và khoảng 80% dân cư sống ở nông thôn, bởi thế nông nghiệp Việt Nam “Là một trong hai ngành sản xuất vật chất chủ yếu của xã hội, sản phẩm của nông nghiệp là nhu cầu tối cơ bản của con người” [1, 193]. Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định: “Việt Nam là một đất nước sống về nông nghiệp. Nền kinh tế của ta lấy nông nghiệp làm gốc, nông dân giàu thì nước ta giàu, nông nghiệp thịnh thì nước ta thịnh”. Vì vậy nông nghiệp luôn là trọng tâm được đề cập đến trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của nước ta, là cơ sở để phát triển các ngành kinh tế khác, cho nên muốn qúa trình CNH, HĐH đất nước diễn ra thuận lợi và nhanh chóng thì phải cải tạo và phát triển nông nghiệp, nông thôn. Từ những năm 1990, Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Với chủ trương đúng đắn đó, nền kinh tế nước ta đã thu được hiệu quả cao, làm thay đổi căn bản bộ mặt nông thôn, đời sống của đại bộ phận dân cư Việt Nam. Từ chỗ thiếu ăn, chúng ta đã giải quyết được vấn đề lương thực trong nước, tăng số lượng xuất khẩu lương thực, mức đóng góp của nông nghiệp lên tới 27%, giảm được tỷ lệ thất nghiệp, xóa đói giảm nghèo, đưa khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp, nâng cao nhận thức và văn hoá cho người dân. Đánh giá vị trí của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, các nghị quyết TW Đảng đều đánh giá vị trí hàng đầu của nông nghiệp trong tiến trình xây dựng đất nước và đổi mới nền kinh tế. Hội nghị trung ương lần 5 khoá VII khẳng định: “Phát triển toàn diện nông nghiệp và kinh tế- xã hội nông thôn, coi đó là nhiệm vụ cấp bách để thực hiện CNH, HĐH nông thôn”. Chỉ thị 100 của Ban bí thư TW Đảng, các Nghị quyết của Đảng và chính sách của Nhà nước đều nhấn mạnh đến vai trò của nông nghiệp, nông thôn. Gần đây, báo cáo Chính trị tại Đại hội IX của Đảng đã nhấn mạnh: “Tăng cường sự chỉ đạo và các nguồn lực cần thiết cho CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Tiếp tục phát triển và đưa nông- lâm- ngư nghiệp lên một trình độ mới bằng việc ứng dụng những tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới cơ cấu cây trồng, vật nuôi... Đầu tư nhiều hơn cho phát triển hạ tầng kinh tế và xã hôi ở nông thôn, phát triển công nghiệp dịch vụ, các ngành nghề đa dạng, nhất là công nghiệp chế biến, cơ khí phục vụ
  6. nông nghiệp, các làng nghề; chuyển một bộ phận quan trọng lao động nông nghiệp sang khu vực công nghiệp, dịch vụ, tạo nhiều việc làm; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện đời sống nông dân và dân cư ở nông thôn”. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là lĩnh vực rộng lớn, bao trùm nhiều mặt của đời sống kinh tế- xã hội. Và để tiến hành thành công công cuộc xây dựng nông thôn trong thời kỳ đổi mới thì công tác tuyên truyền luôn được Đảng ta coi trọng hàng đầu, trong đó báo chí được coi là lực lượng xung kích và có hiệu quả nhất. Thông qua nhiều hình thức, báo chí đã góp phần quan trọng trong việc thông tin, chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, thâm canh, cổ vũ và biểu dương kịp thời và nhân rộng mô hình, hình thành trong phát triển nông nghiệp, nông thôn. Tại Đại hội lần VI, Hội nhà báo Việt Nam đồng chí Nguyễn Đức Bình- Uỷ viên Bộ chính trị đã đánh giá vai trò của báo chí: “Không thể hình dung được sự đổi mới mà không có sự tham gia của báo chí. Không thể hình dung công cuộc dân chủ hoá đời sống xã hội mà không có vai trò của báo chí. Không thể hình dung sự phát triển của đời sống văn hoá tinh thần xã hội, sự nâng cao dân trí mà không có vai trò của báo chí”. Với chức năng: Là người tuyên truyền, tổ chức và cổ vũ tập thể đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, báo chí phải truyền bá sâu rộng đường lối chính sách đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn, làm cho toàn Đảng, toàn dân nhất trí cao, tự giác, chủ động thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH nông thôn bằng những chương trình, kế hoạch cụ thể. Phải hướng dẫn cụ thể cách làm, cách chuyển đổi cơ cấu cây, con, cơ cấu kinh tế, lao động cho từng hộ, xã huyện, tỉnh. Bên cạnh đó là người cổ vũ tập thể, báo chí luôn phải bám sát thực tiễn, phát hiện và cổ vũ các nhân tố mới, các điển hình kinh tế, tổng kết các kinh nghiệm hay phổ biến nhằm nhân rộng các điển hình, tạo thành phong trào thi đua trong cả nước. Thực hiện thắng lợi sự nghiệp đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp và kinh tế nông thôn Việt Nam. Báo “Nông nghiệp Việt Nam” là một tờ báo chuyên sâu cung cấp cho nông dân những kiến thức xung quanh nghề nông (thổ nhưỡng, khí hậu, quá trình sinh học của từng giống cây, giống con mới), những kiến thức để đưa công nghiệp và dịch vụ về với nông thôn. Cung cấp đầy đủ kiến thức và hướng dẫn các hình thức hợp tác xã, liên kết của nông dân trong thôn, ấp, xã... Phản ánh kịp thời những tâm tư nguyện vọng, sáng kiến và ý chí của nông dân trong sự nghiệp chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
  7. Tuy nhiên để tuyên truyền nông nghiệp, nông thôn và nông dân có hiệu quả thì báo không thể tuyên truyền một cách đơn điệu,chung chung. Mà cần phải có sự chọn lọc, đa dạng thông tin, kết hợp nhiều thể loại báo chí khác nhau, mở rộng chuyên mục, chuyên trang. Hiện nay ở hầu hết các tỉnh đều có báo của riêng mình, đây là tờ báo hoạt động có hiệu quả, gần gũi với người dân và phản ánh chân thực đời sống người dân. Nhưng báo địa phương có mặt hạn chế là chỉ phản ánh riêng ở một địa phương, nội dung không phong phú và bị bó hẹp bởi không gian địa lý. Báo “Nông nghiệp Việt Nam” là một trong số ít những tờ báo giành cho người nông dân từ khi ra đời đến nay đã khắc phục được nhược điểm trên. Nội dung mà tờ báo đề cập đa dạng và ở nhiều phương diện, gần gũi và hữu ích đối với mọi người dân. Tờ báo đã và đang làm tốt chức năng là diễn đàn xã hội vì sự phát triển nông nghiệp và nâng cao dân trí nông thôn trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. 2. 2. Công tác tuyên truyền của báo Nông nghiệp Việt Nam. Là tờ báo giành cho nông dân, lấy đối tượng nông dân làm hàng đầu, hoạt động với mục đích tôn chỉ vì sự nghiệp nông nghiệp, nâng cao dân trí nông thôn. Trải qua 58 năm hoạt động, báo NNVN đã cung cấp cho độc giả mà chủ yếu là bà con nông dân những kiến thức bổ ích về nông nghiệp- nông thôn, những đường lối chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, Bộ Nông nghiệp về nông nghiệp và phản ánh đa dạng đời sống nông dân trong cả nước qua các thời kỳ. Ngay khi có phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, ngày 3.9.1945 do Bác Hồ làm chủ toạ, trong tình hình hết sức cấp bách, Bác trình bày với các Bộ trưởng những nhiệm vụ trước mắt phải lo là “nhân dân đang đói”. Bác nhấn mạnh vai trò của báo chí trong việc phát triển nông nghiệp, trong công tác tuyên truyền và phổ biến kiến thức cho nông dân. Ngay sau đó Bác là người tiên phong trong phong trào viết về nông nghiệp, nông thôn và nông dân với hai bài: “Gửi nông gia Việt Nam”, số ra ngày 7.12.1945. Bài viết của Người đã trở thành tôn chỉ, mục đích của báo giành cho nông dân. Qua bài viết, Người chỉ ra rằng; “Loài người ai cũng “dĩ thực vi tiên” (nghĩa là trước tiên phải ăn); nước ta thì “ dĩ nông vi bản” (nghĩa là nghề nông làm gốc). Dân muốn ăn no thì phải giồng giọt nhiều. Nước muốn giàu mạnh thì phải phát triển nông nghiệp. Vậy chúng ta không nên bỏ hoang một tấc đất nào hết. Chúng ta phải quý một tấc đất như một tấc vàng...”; Tiếp đến bài báo thứ hai Bác phân tích; “Hợp tác xã là gì? Nói tóm lại, hợp tác xã là hợp vốn, hợp sức với nhau. Vốn nhiều, sức mạnh thì khó
  8. nhọc ít mà lợi nhiều. Vì vậy hợp tác xã nông nghiệp là một tổ chức có lợi to cho nhà nông. Nó là một cách đấu tranh có hiệu quả nhất để giúp vào việc xây dựng nước nhà. Hợp tác xã giúp cho nhà nông đật đến mục đích, đã ích nước thì lại lợi nhà...”. Hiểu rõ lời dăn dạy của Bác, báo “Tấc đất” ngay sau khi ra đời (năm 1946), đã đảm nhiệm chức năng tuyên truyền chống giặc đói với phong trào “tấc đất tấc vàng”, phát động chiến dịch tăng gia sản xuất trong toàn dân sau khi đánh giá tình hình hiện tại của đất nước. Giới thiệu các tiến bộ khoa học kỹ thuật áp dụng trong nông nghiệp, nhất là các giống cây ngắn ngày như ngô, khoai lang và rau màu khác, báo cũng đăng nhiều bài nêu gương tăng gia sản xuất giỏi. Mục đích của báo lúc này, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Canh nông kiêm chủ nhiệm báo “Tấc đất” Nguyễn Xuân Yêm là nhanh chóng diệt giặc đói bằng mọi giá để đưa người dân thoát khỏi tình trạng đói kém. Từ năm 1954 báo mang tên “Nông nghiệp Việt Nam”, ngoài chức năng phổ biến kiến thức cho người dân nông thôn, báo còn góp phần xây dựng mô hình HTX nông nghiệp cấp thấp, cấp cao, cải tiến quản lý HTX nông nghiệp và nâng cao hơn nữa đời sống người dân ngay sau khi kết thúc chiến tranh ở miền Bắc, bước vào xây dựng CNXH và chi viện cho miền Nam. Công tác tuyên truyền của báo “Nông nghiệp” thể hiện trên bài “Cùng bạn đọc thân mến” (10.10.1987), của Phó thủ tướng Nguyễn Công Tạn, trước là Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm. Bài báo nêu lên Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về Nông nghiệp, Lương thực, Công nghệ thực phẩm, cùng những chủ trương, chính sách của Ngành Nông nghiệp, trao đổi kinh nghiệm các điển hình tiên tiến, đấu tranh chống lại biểu hiện tiêu cực trong ngành. Hiện nay, báo “Nông nghiệp Việt Nam” đang phát huy vai trò của mình trong việc tuyên truyền, hướng dẫn thực hiện chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng và văn hóa nông thôn. Phổ biến đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước đến từng nhà nhằm phát triển kinh tế- văn hoá- xã hội, phát triển nông nghiệp- nông thôn và nâng cao nhận thức của người dân trong phong trào đóng góp ý kiến, nguyện vọng của mình để hoàn chỉnh hơn nữa hệ thống quản lý nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bên cạnh đó báo còn cung cấp những thông tin ứng dụng khoa học kỹ thuật trong và ngoài nước vào sản xuất kinh doanh và đời sống người dân. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý khoa học, xây dựng nông thôn mới. Góp phần tiến tới hoàn thiện hệ thống CNH, HĐH Đảng, Nhà nước đã đề ra trong những năm tiếp theo. Báo “Nông
  9. nghiệp” luôn bám sát thực tế của nông nghiệp và nông thôn, kịp thời phản ánh tâm t ư nguyện vọng của nhân dân. Trong giai đoạn hiện nay, báo đang làm tốt chức năng của mình trong tuyền truyền CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, thực sự trở thành người bạn đồng hành của bà con nông dân trong việc ứng dụng, phổ biến kiến thức khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp, nêu gương những điển hình kinh tế. Một mặt báo “Nông nghiệp” đề cập đến đời sống văn hoá ở nông thôn, cung cấp cho độc giả cái nhìn toàn diện về đời sống tinh thần- vật chất của người dân. Chương 2, tác giả sẽ đi sâu tìm hiểu nội dung mà báo “Nông nghiệp Việt Nam” đề cập qua 2 năm (2001- 2002), để làm nổi bật công tác tuyên truyền công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn của tờ báo.
  10. Chương 2 NộI DUNG thể hiện của BáO NôNG NGHIệP trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn (Khảo sát năm 2001- 2002) Báo “Nông nghiệp Việt Nam” có tôn chỉ mục đích rõ ràng là; vì sự phát triển nông nghiệp và nâng cao dân trí nông thôn. Đối tượng của tờ báo là đại đa số người dân lao động, tập trung ở vùng quê nông thôn và trình độ dân trí chưa cao so với các vùng khác. Vì vậy tuyên truyền về nông nghiệp, nông thôn, nông dân trên Nông nghiệp Việt Nam luôn phải đảm bảo tính định hướng của Đảng, Nhà nước, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đảm bảo tính gần gũi, để dân có thể hiểu và tiếp nhận thông tin có hiệu quả nhất. Bên cạnh đó, để công tác tuyên truyền sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn có hiệu quả, tờ báo luôn cập nhật thông tin, phản ánh đa dạng, nhiều mặt, tạo ra một bức tranh hoàn chình về sự biến đổi của nông thôn trong quá trình đổi mới. Qua khảo sát 2 năm 2001- 2002, nội dung chính của tờ báo “Nông nghiệp Việt Nam” trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn gồm các vấn đề sau: * Thời sự, kinh tế nông nghiệp, nông thôn. * Văn hóa, xã hội nông thôn và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng. * Khuyến nông, khoa học kỹ thuật và tiến bộ trong canh tác. * Các vấn đề bạn đọc. 1. thời sự, kinh tế nông nghiệp, nông thôn. 1.1. phản ánh Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. 1.1.1. Những thành tựu trong chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Những năm qua, công cuộc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn đã làm thay đổi căn bản đời sống xã hội ở các vùng nông thôn. Thu nhập bình quân trong dân tăng đáng kể, đời sống văn hoá, xã hội được nâng cao, cơ sở vật chất, giáo dục và y tế đảm bảo. Kết quả này được phản ánh khá rõ nét trong bài “Hấp dẫn Tân Trường” (Số 1+2.2002) của Nguyễn Lễ. Bài viết là những ghi nhận về sự đổi thay của xã Tân Trường, Bến Cát, Bình Dương trong quá trình áp dụng giống cây trồng phù hợp, điển hình là cây xoài cát Hoà Lộc, xoài Bưởi, sầu riêng, nhãn tiêu da bò... Đời sống người dân nhờ đó
  11. được cải biện rõ rệt. Xây dựng được đường dây điện trung thế dài 6km, hoàn thiện trên 5km đường đá đỏ, 2km đường nội vùng nông thôn và trên 10km kênh mương thuỷ lợi, với tổng số vốn đầu tư là 460.5 triệu đồng. Đường sá đã được mở rộng, nối liền từ HTX đến quốc lộ 13. Tân Trường đã xoá đi sự cách biệt trong đời sống cộng đồng giữa vùng sâu vùng xa với thị trấn, thị xã. Giải quyết được công ăn việc làm cho 150 lao động nông thôn, thu nhập ổn định từ 500- 700 ngàn đồng/ tháng. Ngoài ra, những bài “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế miền núi. Đưa cá lên... rừng” (22.1.2002) của tác giả Nghiêm Thị Hằng, “Tháp Mười: dưa hấu mang lại nguồn thu lớn”- Lê Thị Diền (28.6.2001)... là những bài phản ánh khá rõ nét sự đổi thay của đời sống nông thôn từ khi các tỉnh, địa phương trong cả nước áp dụng chiến lược chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn. Điển hình là tại Yên Bái, “nhờ áp dụng chương trình chuyển dịch cơ cấu, đến nay diện tích nuôi thả cá là 21.000 ha và đạt 2.300 tấn, giá trị thuỷ sản đạt 28,5 tỷ đồng. Giá trị thuỷ sản trong chăn nuôi năm 1995 là 2,4% đến 2001 đã lên đến 12,8%. Số hộ nghèo năm 2000 là 19,2% còn 16,9% năm 2001” ( bài Chuyển dịch cơ cấu kinh tế miền núi. Đưa cá lên… rừng). Từ những thành tựu trên, mục tiêu từ nay đến năm 2020, phấn đấu đưa nước ta thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hoá đang diễn ra thuận lợi. Trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn thì mô hình đươc coi là có hiệu là kinh tế VAC. Kinh tế VAC ra đời cách đây gần 20 năm và giá trị của nó về nhiều mặt đã được khẳng. Trong những năm qua, bằng sự cố gắng nỗ lực không ngừng, báo NNVN đã thực sự trở thành người bạn đường của kinh tế VAC trong việc tuyên truyền những ưu điểm trong mô hình kinh tế này, giới thiệu những cách làm sáng tạo, hiệu quả cao của trang trại VAC. Thực tế cho thấy rằng, qua sự phản ánh của báo thì mô hình VAC đã được phát triển và nhân rộng ở khắp các vùng nông thôn. Các bài: “Chuyển dịch cơ cấu vùng ĐBSH. Những mảnh đất thu bạc tỷ” (Trần Cao. 21.1.2002), “Kinh tế trang trại, tín hiệu của nền sản xuất hàng hoá lớn” (8.2.2002)... là những bài viết tiêu biểu về vấn đề này. Trong bài “Kinh tế trang trại, tín hiệu của nền sản xuất hàng hoá lớn”, tác giả Duy Chiến đánh giá: “Kinh tế trang trại đã đi tiên phong thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trên lĩnh vực nông lâm thuỷ sản”. Tính ưu việt của kinh tế trang trại thể hiện ở nhiều mặt: Khai thác và sử dụng có hiệu quả tiềm năng đất đai, lao động, tiền vốn. Có khoảng 300.000 lao động ở nông thôn đã có việc làm ở trang trại đồng thời kinh tế trang
  12. trại còn là hình mẫu tổ chức sản xuất và quản lý kinh tế ở nông thôn theo cơ chế thị trường. Số liệu thống kê trong bài báo “Kinh tế trang trại, tín hiệu của nền sản xuất hàng hóa lớn” cho chúng ta thấy thành quả mà mô hình VAC đem lại. (Đơn vị: Triệu đồng) Vùng Vốn sản xuất bình Thu nhập bình quân/trang quân/trang trại trại Cả nước 93,96 37,98 Đồng bằng sông Hồng 122,14 42,06 Đồng bằng sông Cửu Long 59,92 35,95 Đồng bằng Nam Bộ 211,18 54,04 Tây Nguyên 190,59 53,95 Nhờ quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế, trong đó có mô hình kinh tế trang trại “đã khai thác tốt tiềm năng đất đai, lao động, kinh tế và sản phẩm nông nghiệp”. Trong bài “Kinh tế trang trại- Bước đột phá của Bình Dương” (8.2.2001), tác giả Ngọc Lễ đã nhận xét: “Chăn nuôi chưa hẳn là cứu cánh của người nghèo nhưng đó đã là phương cách làm giàu của nhiều người dân”. Vì thế mà năm 1996, tỷ lệ đói nghèo ở Bình Dương là 14,17% thìa năm 2000 giảm xuống còn 2,8%. Đời sống nông dân đã dần khấm khá và có của ăn của để, không còn phải chịu cảnh đói rét thất thường. Cơ sở hạ tầng cũng được nâng cấp, đầu tư thích đáng. Nông dân không còn chịu cảnh đói thông tin, bênh tật được hạn chế, đẩy lùi... Hiệu quả mà mô hình kinh tế VAC đem lại là tín hiệu vui không chỉ với người nông dân, mà còn khẳng định sự đúng đắn trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở nước ta trong thời kỳ đổi mới. Cùng với cả nước, ngành Thuỷ sản cũng đã bước vào cuộc với sức đầu tư lớn từ nhiều nguồn khác nhau; Nghề nuôi trồng thuỷ sản được xem là mô hình ứng dụng vào thực tiễn mang lại hiệu quả cao. Năm 2001, kim ngạch xuất khẩu của ngành thuỷ sản đạt 1,8 tỷ USD, trở thành cường quốc xuất khẩu thủy sản đứng thứ hai trong khu vực và đứng thứ 7 trên phạm vi toàn cầu. Và để đẩy mạnh hơn nữa hiệu quả của ngành thuỷ sản, đã có nhiều chính sách ưu đãi của Nhà nước và Bộ NN- PTNT đối với ngành kinh tế mũi nhọn này. 23 tỷ đồng
  13. đã được đầu tư cho khuyến ngư, trong đó vốn đầu tư cho địa phương là 10 tỷ đồng (bài: “Năm 2001 đầu tư 23 tỷ đồng cho khuyến ngư” (S32.2001), “140 dự án trong chương trình phát triển thuỷ sản được phê duyệt; các dự án chuyển tiếp được triển khai. Chương trình phát triển thuỷ sản được Trung ương hỗ trợ 340 tỷ đồng”. (“Thuỷ sản Việt Nam đang... khát vốn”- Nghiêm Thị Hằng 7.1.2002). Đây là sự đầu tư thích đáng cho một ngành kinh tế mũi nhọn, thành viên mạnh của nền kinh tế nước nhà. Đánh giá những thành quả mà thuỷ sản Việt Nam đạt được kể từ khi đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tác giả Kim Châu trong bài: “Thuỷ sản Việt Nam, bước chân dài qua hai thế kỷ” (22-301.2001) đã nhận xét: “Hiện nay thuỷ sản Việt Nam đã có uy tín trên thị trường gần 60 nước. Thuỷ sản Việt Nam không chỉ giữ vững được thị trường EU mà đã bước chân sang các thị trường khó tính như Nhật Bản, Hoa Kỳ”. Những kết quả thu được đã khẳng định đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước, Bộ Nông nghiệp là hoàn toàn đúng đắn, hợp với nguyện vọng của quần chúng nhân dân, là yêu cầu thiết yếu của nông nghiệp, nông thôn. Muốn CHN, HĐH đất nước, trước tiên phải đổi mới từ nông nghiệp, nông thôn. Nghị quyết TW5 khóa IX cũng đã chỉ rõ; “Dựa vào nội lực là chính, đồng thời tranh thủ tối đa các nguồn lực từ bên ngoài, phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế”. Vì vậy, chúng ta phải dựa vào chính nguồn lực sẵn có, đó chính là tiềm năng kinh tế nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Với chức năng, nhiệm vụ của mình, báo Nông nghiệp đã kịp thời cung cấp thông tin kinh tế, thời sự trong đa dạng và nhiều chiều. Qua những bài báo được đăng tải, người nông dân đã thực sự hiểu lợi ích khi tham gia phát triển kinh tế theo mô hình mới, biết cách thức tổ, làm ăn sao cho có hiệu quả. 1.1.2. Những vấn đề vướng mắc. Trong quá trình chuyển đổi kinh tế nông thôn ở một số nơi còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong giải quyết giống, khoa học kỹ thuật và đầu ra. Các cấp, các ngành có trách nhiệm tại địa phương chưa quan tâm xác đáng và điều chỉnh kế hoạch cho hợp lý. Việc chỉ đạo thông tin đến từng địa bàn dân cư gặp nhiều trở ngại, thiếu nhất quán và hành động dứt khoát do hạn chế về trình độ hiểu biết của người dân và cản trở do đói nghèo, lũ lụt... Báo NNVN đã có những bài báo phản ánh kịp thời về những vấn đề còn tồn đọng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, từ đó đề ra một số biện pháp cụ thể, có tính khả thi, đó là các bài: “Vụ đông xuân ở ĐBSCL: sẽ lặp lại điệp khúc “được
  14. mùa, rớt giá”?”- Hùng Anh (9.2.2001), “Giải quyết sự cố “ngô lai không hạt” ở Ninh Thuận như thế nào”- ĐQ (12.4.2001), “Suy nghĩ về phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá ở TX Bắc Giang”- Đỗ Thành Nam (5.3.2002), “Kỳ Anh sau cơn đại hoạ”- Võ Thanh Mai (22.5.2001)... Tìm hiểu thực trạng thiếu giống cây trồng, vật nuôi ở miền Trung- Tây Nguyên qua bài; “Lúa lai ở miền Trung- Tây Nguyên. Vẫn chưa có sự đột phá” (12.9.2002), tác giả Minh Trung cho rằng; “Nguyên nhân của vấn đề này là các tỉnh trong vùng phải đối mặt với sự khan hiếm giống bố mẹ gay gắt. Các địa phương phải phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn hỗ trợ của Bộ NN- PTNT hoặc tìm kiếm rất hạn chế qua khâu trung gian nhập khẩu từ Trung Quốc”. Còn tại Bắc Kạn, tìm hiểu nguyên nhân vì sao cây nguyên liệu chết nhiều, tác giả Văn Cao chỉ ra; Những người hướng dẫn kỹ thuật thiết kế và chỉ đạo triển khai chưa tốt. Việc phối hợp giữa người dân trồng rừng và lãnh đạo địa phương chưa chặt chẽ”. (“Bắc Kạn. Cây nguyên liệu giấy chết nhiều”. 23. 9.2002). Trong bài; “Cần một chiến lược quốc gia cho cây ca cao Việt Nam” tác giả Minh Trung nêu lên thực trạng: “Khi cây cà phê đang rớt giá thì Nhà nước cần phải có động thái mở rộng diện tích trồng ca cao lên cao”. nhưng thực tế thì “ Ca cao Việt Nam gần như bị bỏ ngỏ, chưa có địa phương nào quy hoach, đầu tư”. Trong khi đó nhìn nhận từ thực tế thì “Viện nghiên cứu Ca cao Mỹ (ACRI) dự báo trong 10 năm tới, nhu cầu tiêu thụ ca cao sẽ tăng liên tục, bình quân 4 năm; trong khi đó lượng ca cao thế giới chỉ đáp ứng 3 triệu tấn/ năm, chiếm 1,5 % năm, do đó cầu sẽ vượt quá cung”. Vì thiếu thông tin, chậm nắm bắt nhu cầu thị trường nên mặt hàng ca cao vẫn chưa trở thành thế mạnh trong xuất khẩu nông sản của Việt Nam. Cho nên đã đến lúc “phải ý thức được tầm quan trọng của Công nghệ Thông tin và nhanh chóng ứng dụng chúng vào sản xuất và tiêu thụ sản phẩm”. Có như vậy mới từng bước hội nhập và cạnh tranh thắng lợi trên thị trường thế giới trong kỷ nguyên toàn cầu hoá. Phát triển sản xuất luôn phải gắn với thị trường, tìm được đầu ra, vì vậy công tác sản xuất nông nghiệp luôn phải được xây dựng cùng với công tác tiêu thụ và thường xuyên nắm bắt thông tin về thị trường. Dù vậy thì do không cập nhật thông tin kịp thời nên vấn đề này vẫn còn bỏ ngỏ. Nhận thức tầm quan trọng của công nghệ thông tin trong nông nghiệp, Trong bài “Cần coi trọng ứng dụng Công nghệ Thông tin trong lĩnh vực Nông nghiệp” (26.2.2002). Tác giả Hữu Hoà nêu lên thực tế; “ở nước ta công nghệ
  15. thông tin chưa được các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp coi trọng”. Và mặc dù Bộ NN- PTNT đã xây dựng trang web nhằm giới thiệu 1 cách khái quát về nền nông nghiệp Việt Nam song việc xử lý những thông tin để phổ biến đến nông dân, giúp họ có định hướng trong sản xuất thì còn hạn chế, người dân vẫn phải chịu cảnh đói thông tin và chịu nhiều thiệt thòi. Một vấn đề đặt ra đối với quá trình chuyển đổi kinh tế ở nông thôn là đòi hỏi nguồn lao động đa dạng và có trình độ tay nghề cao. Tuy nhiên thực trạng còn tồn tại ở hầu hết các địa phương là sự thiếu hụt lực lượng lao động , và trình độ tay nghề không cao, do đó ảnh hưởng đến chất lượng và năng suất công việc. Để đi tìm nguyên nhân, Trong bài “Nan giải tình trạng thiếu lao động ở các trang trại” (26.4.2001), tác giả Đỗ Quyên phản ánh một thực tế: Đó là các lao động có trình độ đổ về thành phố kiếm việc, không nặm mà với công việc đồng áng. Các chủ trang trại thuê lao động phần lớn không có chế độ bảo hiểm mang tính lâu dài, không có hợp đồng bài bản, chỉ giao kèo bằng miệng, trả công theo thoả thuận. Bên cạnh đó “một số sinh viên mới tốt nghiệp được các chủ trang trại tuyển dụng làm việc, nhưng chỉ trong thời gian ngắn thì bỏ việc, lên thành phố vì lương thấp, chủ trang trại đòi hỏi phải làm việc hết mình...”. Bên cạnh những bài ghi nhận những thành tựu đã đạt được trong ứng dụng chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở nông thôn, tờ báo còn phản ánh những vấn đề thời sự còn tồn đọng trong quá trình đổi mới kinh tế. Những thông tin đó đã giúp Bộ Nông nghiệp và các cấp, các ngành địa phương kịp thời rút kinh nghiệm. Điều chỉnh các hoạt động phát triển kinh tế địa phương cho phù hợp, tránh tình trạng đi theo vết xe cũ. 1.2. Đầu tư vốn, Xây dựng cơ sở hạ tầng Mục tiêu CNH, HĐH nông thôn là phát triển nông nghiệp và nâng cao đời sống người nông dân gắn với quy chế dân chủ ở nông thôn. Nghị quyết 06 NQ/ TƯ, ngày 10.11.1998 của Bộ Chính trị, có nhấn mạnh: “Từng bước tăng dần đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn, trước hết, tập trung đầu tư xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng (đường, thuỷ lợi, điện, trường học, trạm xá...) ở nông thôn, chú ý các vùng cao, vùng sâu, vùng xa...”. Trong hai năm (2001- 2002), báo “Nông nghiệp Việt Nam” cùng với cả nước đã phát động chương trình tuyên truyền về nông nghiệp, nông thôn, phản ánh công cuộc xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, nâng cao đời sống người nông dân. Những kết quả
  16. đạt được trong qúa trình xây dựng một nông thôn mới được phản ánh rõ nét qua từng số báo. Tác giả Duy Chiến trong bài “Đi tìm lộ trình tất yếu của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn” (S1+2, 1.1.2002) đã có những ghi nhận: “Sản xuất nông nghiệp phát triển với tốc độ cao, trên 4,3% trong suốt 10 năm qua. Công nghiệp chế biến tăng 12- 14%. Điện khí hoá 100% số huyện, 81% số xã và 72% số hộ. 95% số xã đã có đường ô tô đến trung tâm. 85% số xã có điện thoại, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 20% năm 1995 còn 10- 11% năm 2000”. Đây là những ghi nhận ban đầu về những thành quả đã đạt được từ khi chuyển đối cơ cấu kinh tế nông thôn. Từ thành quả này, chúng ta có đủ cơ sở để khẳng đinh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là chiến lược phát triển đúng đắn và có hiệu quả. Nâng cao đời sống của người dân ở nông thôn là trách nhiệm chung của toàn Đảng, toàn dân. Bên cạnh việc đầu tư để phát triển kinh tế, Đảng cũng chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng, có chế độ, chính sách ưu đãi đối với từng vùng, miền trong từng địa phương. Mỗi năm, các nguồn vốn cả nước đã đầu tư cho khu vực nông thôn khoảng 250 triệu USD. 2235 xã nghèo vùng đặc biệt khó khăn đã được Nhà nước đầu tư cho cơ sở hạ tầng và các chương trình lồng ghép khác mỗi năm khoảng 150 triệu USD. Khi nói về tương lai nông thôn, Phó Thủ tướng Nguyễn Công Tạn cho rằng; Phải làm cho nông dân hạnh phúc khi họ sống ở nông thôn. Hạnh phúc, ấy là nông dân có nơi ăn chốn ở đàng hoàng, con cái được học hành, được vui chơi, giải trí... Tương lai của nông thôn nước ta là phát triển theo hướng công nghiệp cùng với phát triển các dịch vụ. Phó Thủ tướng nhấn mạnh: “Nông thôn không chỉ cần có điện, đường, trường, trạm xá mà còn cần có nơi vui chơi thể thao”. (“Cần có chính sách đào tạo nguồn nhân lực cho nông thôn, giúp qui hoạch xây dựng và phát triển nông thôn...” Ngô Giang. Số 84. 2001). Chú trọng đầu tư vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng, nâng cao đời sống ở nông thôn đang được từng địa phương triển khai và thu được hiệu quả. Thực tế những năm qua, vấn đề đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn đã được Đảng, Nhà nước cũng như các cấp, các ngành quan tâm toàn diện cả về cơ chế, chính sách và nguồn lực tài chính. Số vốn đầu tư từ ngân sách trung ương dành cho nông nghiệp, nông thôn không ngừng tăng lên và tập trung chủ yếu vào xây dựng, nâng cấp các công trình thuỷ lợi, hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn. Tại Khánh Hoà 70 tỷ đồng do Ngân hàng Phát triển châu á và Chính phủ Việt Nam đầu tư để phát triển y tế nông thôn, củng cố công tác dự phòng, giáo dục truyền thông y tế cộng đồng. (“Khánh Hoà; Xây dựng dự án phát triển y tế nông thôn”- Lai
  17. Thành. 18.1.2001). Còn ở An Giang, 400 căn nhà cho người nghèo được xây dựng, chuẩn bị cho Tết Nhâm Ngọ, với số tiền là 1,2 tỷ đồng (“An Giang: Cất mới hơn 400 căn nhà cho người nghèo”- Phan Trọng Ân. (14.2.2002). Năm 2002, có 2.300 lượt hộ gia đình ở Bà Rịa- Vũng Tàu được vay vốn làm ăn, giảm được 2.000 hộ nghèo. Công tác kiên cố kênh mương ở Hưng Yên cũng đã thực hiện được tại 37 xã. Những công trình này khi được đưa vào sử dụng sẽ phục vụ cấp nước cho một diện tích khá lớn ruộng đồng mà trước đây thường xuyên bị hạn hán. (“Hưng Yên: Kiên cố hoá kênh mương ở 37 xã”- Vũ Minh Việt. 8.2.2001). Nhưng hiện nay, kết cấu cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống dân cư ở một số vùng nông thôn còn thấp, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, cư dân sống ở vùng ven biển, vùng sông nước, nổi cộm là vấn đề nhà ở. Cả nước còn khoảng 2,6 triệu hộ, với 13 triệu nhân khẩu thuộc diện đói; 1.040.000 hộ còn ở nhà tạm làm bằng tranh tre, nứa, lá. “Nạn thiếu nhà ở, hoặc nhà ở quá chật, tạm bợ, sơ sài ở vùng ven biển là khá phổ biến”. “Cần lưu tâm đến nhà ở cho dân vùng ven biển”- Vũ Đăng Hiến (17.9.2002). Và tình trạng gia tăng bệnh tật do thiếu nước sạch, thiếu cơ sở y tế ở hầu hết các địa phương đang trở thành vấn đề nóng bỏng. “Thiếu nước sạch nên tình trạng bệnh tật của cư dân nông thôn vùng bán đảo Gò Công đang ở mức báo động. Theo thống kê chưa đầy đủ của ngành y tế các địa phương, hiện tại bệnh đau mắt, tiêu chảy, rối loạn tiêu hoá chiếm 40- 60% tổng số ca nhập viện...” (“ĐBSCL trước nguy cơ hạn hán”- Nhóm PV ĐBSCL. 25.2.2002). Còn tại Cà Mau, mặc dù “Hiện nay, tại Cà Mau, ngoài 19.000 giếng- bơm lắc tay do Nhà nước đầu tư, dân đã tự khoan 15.000 giếng. Kiên Giang đầu tư xây dựng 15.000 công trình nước sạch, nhưng hộ sử dụng nước sạch cũng chỉ khoảng 53%”. (“Nước sạch đắt hơn dầu?”- Hoà Nghị. 15.2.2001). Đã đến lúc cần phải có những biện pháp ngăn chặn hoặc hạn chế tối đa mức ô nhiễm nguồn nước sạch. ứng dụng công nghệ, xây dựng hệ thống kênh mương... là yêu cầu cấp thiết nhất để nâng cao đời sống người dân. Và cách làm ở Củ Chi, Mĩ Khánh chính là một tiến bộ mới, đảm bảo an toàn vệ sinh môi trường, tận dụng được nguồn chất thải phụ vụ sinh hoạt. Tại đây, “Đã từng bước xây dựng hầm Biôga xử lý nguồn chất thải từ động vật và con người. áp dụng phương pháp quản lý dịch hại tổng hợp IPM vào các hoạt động công tác, trồng trọt, hướng dẫn, thu gom rác”. Chính vì thế mà 100% người dân được sử dụng nước sạch. (“Một chương trình đang làm thay đổi tập quán người dân nông thôn”- Hữu Thống. 20.8.2002). Đây
  18. là việc làm hữu hiệu nhờ việc người dân đã biết nhận thức tầm quan trọng của việc giữ gìn môi trường bên cạnh việc khai thác và phát triển kinh tế. Qua cách là m hiệu quả ở Củ Chi, người dân vùng nông thôn học tập và ứng dụng công nghệ phục vụ và nâng cao đời sống. 1.3. Thực hiện quy chế dân chủ ở nông thôn. Quy chế dân chủ ở cơ sở của Đảng, Nhà nước là một chủ trương lớn, nhằm phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong công cuộc xây dựng đất nước. Vì vậy, có thể khẳng định rằng, một trong những nhiệm vụ chính trị trọng tâm hiện nay là phải củng cố, hoàn thiện chính quyền cơ sở, nâng cao dân trí và thực hành tốt dân chủ từ cơ sở, đảm bảo cho nhân dân phát huy quyền làm chủ, sáng tạo, giữ vững ổn định chính trị- xã hội, hăng hái sản xuất và đưa tiến bộ khoa học- công nghệ vào thực tiễn. Thực hiện dân chủ ở cơ sở không chỉ là nhiệm vụ cấp bách trước mặt, mà còn là nhiệm vụ lâu dài, mang tính chiến lược của cách mạng nước ta. Thực tế những năm qua, cùng với đổi mới kinh tế thì việc mở rộng quy chế dân chủ, phát huy nội lực từ trong dân đã đưa đất nước ta thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, đi tới ổn định và phát triển, tiền đề để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đến nay, 90% số xã, phường, thị trấn đã triển khai, xây dựng và thực hiện quy chế. Tìm hiểu vấn đề này, tác giả Đặng Vũ có bài viết “Phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Mục tiêu, động lực của sự nghiệp đổi mới” (26.3.2002). Tác giả khẳng định: “Dân chủ vừa là mục tiêu, động lực đảm bảo sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Nội dung cơ bản của dân chủ là quyền làm chủ của nhân dân, quyền lực thuộc về nhân dân, tự do, bình đẳng về quyền lợi, nghĩa vụ trong xã hội. Thước đo hay tiêu chí dân chủ của cộng đồng xã hội được thông qua quyền làm chủ của công dân”. Còn trong bài; “An Phú chuyển mình” (10.1.2002), tác giả Ngọc Thạch đã đánh giá tầm quan trọng của việc thực hiện quy chế dân chủ ở An Phú- Thủ Thừa- Long An: “Với việc đưa quy chế dân chủ vào đời sống nhân dân cũng như vấn đề vận dụng tốt quy chế dân chủ trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội, xã An Phú đã tìm được cho mình một con đường vững chắc để hoàn thành công cuộc xoá đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới trong thời kỳ CNH, HĐH”. Thực hiện quy chế dân chủ ở nông thôn trong thời kỳ mới gặp nhiều khó kh ăn, bởi trình độ hiểu biết của người dân chưa đồng đều và sâu rộng. Dân cư tập trung ở nhiều vùng miền nên việc đưa quy chế vào cuộc sống không phải là điều dễ dàng. Bên cạnh đó,
  19. có một số cán bộ lợi dụng chức vụ để tư lợi, tham ô lãng phí và cửa quyền, chiếm dụng đất đai, kinh phí của nhân dân... Báo Nông nghiệp tập trung phản ánh những vụ việc, vấn đề nhỏ lẻ tồn tại ở nhiều vùng nông thôn, nhưng đã góp phần giải quyết những khúc mắc và đem lại công bằng cho người dân. Đó là các bài viết như: “UBND xã Minh Khai lợi dụng cổ phần hoá, bán đường điện cho tư nhân gây thất thoát hàng trăm triệu đồng” (Trần Ninh Thuỵ 18.3.2002), “ Cán bộ Ban quản lý khu BTTN đập ngập nước Bến Tre có phá rừng” (Nguyễn Đức. 19.9.2002), “Mượn danh nông dân thành lập HTX với mưi đồ chiếm đoạt tài sản”- Thái Sinh (21.8.2002)... Qua những bài phản ánh trên người nông dân đã ý thức được vai trò, trách nhiệm của mình trong việc xây dựng một chính quyền trong sạch, vững mạnh, đấu tranh chống lại những âm mưu thủ đoạn của kẻ xấu. Chú trọng phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn đi đôi với nâng cấp cơ sở hạ tầng, từng bước nâng cao đời sống người nông dân. Thực hiện quy chế dân chủ, chính sách chủ trương của Đảng, Nhà nước, Bộ Nông nghiệp được cụ thể hoá trong từng hành động, hướng đi của địa phương và thu được hiệu quả khả quan. Thông tin thời sự, kinh tế tập trung trên báo Nông nghiệp Việt Nam đã đăng tải những tin, bài ứng với chương trình trọng tâm. Với những thông tin thời sự- kinh tế đa dạng và phong phú, báo Nông nghiệp Việt Nam đã cung cấp cập nhật thông tin cho người dân hiểu và nắm bắt kịp thời, giúp cho chương trình phát triển kinh tế nông thôn sớm đi vào hoàn thiện, góp phần xây dựng nền nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH. 2. Văn hoá, xã hội nông thôn và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng. 2.1. Văn hoá- xã hội Công cuộc đổi mới đất nước đang làm thay đổi toàn diện đời sống kinh tế- xã hội đất nước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, đời sống vật chất của con người được đảm bảo. Cùng với quá trình đó, bộ mặt xã hội nông thôn ngày càng biến đổi rõ nét dưới tác động của nền kinh tế thị trường. Đời sống xã hội vùng nông thôn có những nét mới, tích cực, bên cạnh đó còn có những vấn đề còn tồn tại cần được giải quyết. Vấn đề đặt ra là phải chọn lọc, giữ gìn và phát huy được những giá trị truyền thống tốt đẹp lâu đời còn phù hợp ở nông thôn, đồng thời phải chủ động tiếp nhận có chọn lọc nếp sống, tác phong công nghiệp và giá trị văn hoá tiến bộ, để tạo ra một bộ mặt nông thôn mới tiên tiến, toàn diện và hiện đại. Nội dung đăng tải mang tính đinh hướng và giáo dục sâu sắc, dù có khi
nguon tai.lieu . vn