Xem mẫu
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƯƠNG
PHẠM THỌ DƯỢC
THỰC TRẠNG NHIỄM HIV, BỆNH LAO AFB (+) VÀ ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CAN THIỆP
DỰ PHÒNG Ở NHÓM NGHIỆN CHÍCH MA TÚY TẠI TỈNH ĐẮK LẮK
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Bùi Đức Dương
2. PGS.TS. Nguyễn Thị Thu Yến
HÀ NỘI - 2014
2
ĐẶT VẤN ĐỀ
HIV/AIDS và bệnh lao là hai vấn đề y tế công cộng quan trọng đã và
đang được quan tâm trên toàn thế giới. Mặc dù hai bệnh này có tác nhân gây
bệnh, cơ chế lây truyền cũng như nhóm đối tượng nguy cơ khác nhau, nhưng
đã tác động tương tác làm tăng gánh nặng bệnh tật ở nhiều quốc gia trên thế
giới. HIV đã làm cho chiến lược phòng chống bệnh lao ở nhiều quốc gia bị
thất bại và ngược lại, bệnh lao là nguyên nhân chính gây tử vong ở nhóm
người nhiễm HIV [115].
Theo báo cáo của Tổ chức y tế thế giới (WHO) năm 2012 có khoảng
một phần ba trong số 34 triệu người nhiễm HIV trên toàn thế giới bị mắc lao
[115]. Năm 2011, ước tính 8,7 triệu người mắc bệnh lao và 1,1 triệu người
(13%) nhiễm HIV mắc lao mới; 1,4 triệu người tử vong vì bệnh lao, trong đó
ước tính 430.000 triệu người (24%) đồng nhiễm HIV [89], [113]. Bệnh lao
luôn đồng hành với tình trạng nhiễm HIV, là một trong những bệnh nhiễm
trùng cơ hội. Trên 30% số người nhiễm HIV có nguy cơ mắc bệnh lao cao 21
- 34 lần so với người không nhiễm HIV và gần 50% số người nhiễm
HIV/AIDS bị chết do lao [71], [115].
Việt Nam, mặc dù có những cam kết mạnh mẽ và triển khai các chương
trình dự phòng, nhưng sự lan truyền của HIV vẫn còn phức tạp, nhất là ở các
nhóm quần thể có hành vi nguy cơ cao. Số liệu thống kê của Bộ Y tế, kể từ
khi phát hiện trường hợp HIV đầu tiên năm 1990 cho đến 31/12/2012, số
trường hợp hiện còn sống: nhiễm HIV là 208.866, bệnh nhân AIDS là 59.839
và đã tử vong do AIDS là 62.183 trường hợp. Số liệu giám sát trọng điểm, tỷ
lệ nhiễm HIV trong nhóm nghiện chích ma túy là 13,4% (2011) và 11,6%
(2012), hiện vẫn là nhóm nguy cơ cao lây truyền HIV [8], [10], [14]. Bên
cạnh HIV, bệnh lao vẫn còn là gánh nặng về sức khỏe, y tế và xã hội. Theo số
liệu điều tra của Dự án phòng, chống lao quốc gia, trên 40% dân số Việt Nam
bị nhiễm lao. Việt Nam xếp thứ 12 trong 22 nước có số lượng bệnh nhân
(BN) lao cao nhất thế giới và thứ 14 trong 27 nước có lao đa kháng và siêu
3
kháng cao [89]. Hàng năm ước tính có thêm 180.000 BN lao, trong đó có
khoảng 6.000 BN lao đa kháng và khoảng 7.400 BN HIV/lao. Tuy nhiên
chúng ta mới chỉ phát hiện được khoảng 60% số BN ước tính trong khoảng
trên dưới 100.000 BN mỗi năm [3], [6].
Khu vực Tây Nguyên gồm tỉnh Đắc Nông, Đắk Lắk, Gia Lai và Kon
Tum năm 1993 phát hiện 5 trường hợp nhiễm HIV đầu tiên, đến 31/12/2012,
số trường hợp hiện nhiễm HIV là 3.395 trường hợp, bệnh nhân AIDS là 1.400
và 765 trường hợp đã tử vong do AIDS. Phân bố HIV trên nhóm NCMT là
38,2% (2011), 37,6% (2012) phân bố BN lao nhiễm HIV là 3,5% (2011),
3,4% (2012) [17], [37].
Đắk Lắk là một tỉnh miền núi cao nguyên trung phần, cũng hội đủ và
tiềm ẩn các đặc điểm về HIV và bệnh lao trên người nhiễm HIV. Lũy tích từ
1993 đến 31/12/2012 ghi nhận số trường hợp nhiễm HIV còn sống được báo
cáo là 1.520 người, trong đó 623 người chuyển sang AIDS và 351 người đã tử
vong do AIDS. Phân bố nhiễm HIV trên nhóm đối tượng NCMT là 43,55%,
BN lao là 3,1% [17], [35].
Các yếu tố liên quan tới nhiễm HIV và bệnh lao có sự tương tác qua lại
giữa 2 tình trạng bệnh này. Nhiễm HIV làm cơ thể bị suy giảm miễn dịch, suy
giảm miễn dịch dễ bị nhiễm và mắc bệnh lao [58], đặc biệt ở các đối tượng có
nguy cơ cao. Xác định được các yếu tố liên quan là cơ sở khoa học để đưa ra
bằng chứng cho công tác xây dựng kế hoạch dự phòng và khống chế đại dịch
HIV/AIDS cũng như bệnh lao phù hợp với bối cảnh của từng địa phương và
từng quốc gia. Để có được bức tranh tổng thể về hai vấn đề sức khỏe cộng
cộng, đồng thời với sự can thiệp chủ động, nhằm giảm thiểu tỷ lệ mắc và tử
vong, điều quan trọng là hiểu rõ các yếu tố nguy cơ của nhóm đối tượng có
hành vi nguy cơ cao để đưa ra các biện pháp ưu tiên trong công tác can thiệp
dự phòng và phòng chống.
Trên cơ sở những kiến thức khoa học về HIV và bệnh lao mà các chiến
lược phòng, chống cũng như mô hình can thiệp được áp dụng, nhưng kết quả
cũng còn hạn chế do nhiều nguyên nhân như nguồn nhân lực, vật lực và sự
4
khó khăn trong tiếp cận, cũng như đặc thù riêng của địa phương với nhiều dân
tộc và trình độ kinh tế còn thấp. Hơn nữa, khu vực Tây Nguyên chưa có
nghiên cứu nào về HIV/lao trên nhóm NCMT, do vậy nghiên cứu “Thực trạng
nhiễm HIV, bệnh lao AFB (+) và đánh giá hiệu quả can thiệp dự phòng ở
nhóm NCMT tại tỉnh Đắk Lắk” được tiến hành với 3 mục tiêu sau:
1. Xác định tỷ lệ nhiễm HIV và bệnh lao AFB (+) trong nhóm nghiện
chích ma túy ở tỉnh Đắk Lắk năm 2011.
2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến tình trạng đồng nhiễm HIV và lao
trên nhóm nghiện chích ma túy.
3. Đánh giá hiệu quả can thiệp dự phòng cộng đồng nhằm hạn chế tình
trạng nhiễm HIV và lao trên nhóm nghiện chích ma túy giai đoạn 2011-
2012
5
Chương 1
TỔNG QUAN
1. Thực trạng HIV/AIDS và bệnh lao
1.1. Thực trạng HIV/AIDS
1.1.1. Khái niệm về HIV/AIDS
HIV là chữ viết tắt của tiếng Anh “Human Immunodeficiency Virus”
có nghĩa là (vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người). HIV khi xâm nhập vào
cơ thể gọi là người nhiễm HIV, mã số phân loại quốc tế ICD-10 là B20B24
[3], [117], gây ra tình trạng ức chế miễn dịch thứ phát do mất các tế bào
lympho T CD4+ (hỗ trợ). Các tế bào T hỗ trợ này bình thường trợ giúp cho cả
đáp ứng miễn dịch dịch thể và miễn dịch tế bào [117].
AIDS là chữ viết tắt bằng tiếng Anh “Acquired Inmunodeficiency
syndrome” có nghĩa là hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người do
nhiễm HIV. AIDS không phải là một bệnh mà là một hội chứng, AIDS là giai
đoạn cuối của quá trình nhiễm HIV. Do hệ thống miễn dịch bị tổn thương, cơ
thể không tự bảo vệ trước những nhiễm trùng cơ hội hoặc biến đổi tế bào mà
một người bình thường có thể chống đỡ được [117].
1.1.2. Tác nhân gây bệnh
Hai loại HIV đã được biết, đó là HIV-1 và HIV-2. Trên thế giới HIV-1
là loại chiếm ưu thế, HIV-2 gặp chủ yếu ở Tây Phi. HIV-1 có thời gian ủ bệnh
ngắn, nguy cơ lây truyền cao hơn và bệnh diễn biến nặng hơn. Ở Việt Nam,
đã được xác định là nhóm vi rút HIV-1, chưa có ghi nhận sự hiện diện nhóm
HIV-2 [86].
Cấu trúc của HIV có đường kính 1/10.000nm được chia thành hai lớp
chính: Lớp vỏ là màng lipid, trên đó có gai nhú glycoprotein (GP), đặc biệt là
GP120 và GP41 có tính kháng nguyên cao. Lớp lõi có chứa một số thành
phần chính như: Protein lõi, men phiên mã ngược và ARN là vật liệu di
truyền của HIV [81].
...
- tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn