Xem mẫu

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ QUỲNH TRANG

HIỆN TƢỢNG GIAO THOA THỂ LOẠI
TRONG SÁNG TÁC CỦA A.CHEKHOV
(Qua khảo sát kịch và truyện ngắn)

Chuyên ngành: VĂN HỌC NƢỚC NGOÀI
Mã số: 62.22.02.45

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn:
PGS.TS. ĐÀO TUẤN ẢNH
PGS.TS. NGUYỄN VĂN HẠNH

Hà Nội, 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu
trong luận án là trung thực, đảm bảo độ chuẩn xác cao nhất. Các tài liệu tham
khảo, trích dẫn có xuất xứ rõ ràng. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về công trình
nghiên cứu của mình.
Hà Nội, tháng 06 năm 2016
Tác giả

ê
Nguyễn Thị Quỳnh Trang

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ............................................. 7

1.1. Sơ lược những thành tựu của lí thuyết loại hình và thể loại văn học .................. 8
1.2. Tình hình nghiên cứu vấn đề giao thoa thể loại trong sáng tác Chekhov .......... 17
1.3. Đánh giá tổng quan ............................................................................................ 34
CHƢƠNG 2: NHỮNG TIỀN ĐỀ CÁCH TÂN VÀ GIAO THOA THỂ LOẠI TRONG
SÁNG TÁC A.CHEKHOV ............................................................................................... 36

2.1. “Kỉ nguyên Bạc” – thời đại mới của văn học nghệ thuật .................................. 36
2.2. Vị trí của A.Chekhov trong văn học “kỉ nguyên Bạc”....................................... 44
2.3. Truyền thống và tiếp biến trong văn học Nga thế kỉ XIX ................................. 50
CHƢƠNG 3: GIAO THOA THỂ LOẠI TRONG TRUYỆN NGẮN CHEKHOV ..... 67

3.1.Tính kịch trong truyện ngắn Chekhov ................................................................ 68
3.2. Yếu tố trữ tình trong truyện ngắn A.Chekhov .................................................. 86
CHƢƠNG 4: GIAO THOA THỂ LOẠI TRONG KỊCH CHEKHOV ...................... 105

4.1. Tính tự sự trong kịch Chekhov ........................................................................ 106
4.2. Tính trữ tình trong kịch Chekhov..................................................................... 128
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 149
NHỮNG CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA NGHIÊN CỨU SINH
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ...................................................................................... 152
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... 153

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Anton Pavlovich Chekhov (1860 – 1904) chỉ sống và hoạt động nghệ thuật
trong 44 năm nhưng ông đã để lại cho nhân loại một gia tài văn học đồ sộ với rất
nhiều kiệt tác. Hơn 600 truyện ngắn, nhiều truyện vừa và 11 vở kịch đã khơi mở
cho biết bao công trình khoa học, bài viết nghiên cứu khám phá thế giới nghệ thuật
đặc biệt được xây dựng bởi một tài năng độc đáo của nền văn học Nga cổ điển. Hơn
một thế kỷ đã qua sau ngày mất của nhà văn, văn phẩm của ông vẫn đang được tiếp
nhận nồng nhiệt ở khắp nơi trên thế giới bởi những đánh giá về con người và văn
chương A.Chekhov dường như chưa hoàn kết, sự khám phá về chúng vẫn là vô tận.
Không chỉ đóng vai trò là người khép lại một cách xuất sắc chủ nghĩa hiện thực Nga
cuối thế kỷ XIX, A.Chekhov được thừa nhận là một nhà cách tân vĩ đại trong lĩnh
vực truyện ngắn và kịch. Đằng sau lối diễn tả từ tốn, điềm tĩnh, khách quan những
“chuyện đời vặt vãnh”, khai thác những xung đột kịch bình dị, nguyên chất của
cuộc sống, ông đã bao quát nhiều vấn đề mang tính xã hội rộng lớn, sâu sắc. Kịch
và truyện ngắn của A.Chekhov đều nhận được những đánh giá trân trọng nhất, ông
đã trở thành “cả một trường đại học thực thụ” cho những người viết văn (lời của nhà
văn Baranov). Luận án chúng tôi dự định sẽ thực hiện xuất phát từ niềm đam mê và
mong muốn góp thêm một cách thức tiếp cận trước tác nghệ thuật của nhà văn vĩ
đại này.
1.2. Qua rất nhiều công trình nghiên cứu, bài viết của các học giả thế giới và
Việt Nam, chân dung A.Chekhov - bậc thầy truyện ngắn thế giới - đã được định
hình, sắc nét hơn rất nhiều so với A.Chekhov - nhà viết kịch. Thậm chí, nhiều độc
giả Việt Nam không biết đến chân dung thứ hai của ông, hoặc chưa thẩm thấu được
giá trị của những cách tân thiên tài ở một thể loại vốn đã rất kén người xem. Thống
nhất trong cùng một phong cách nghệ thuật, kịch và truyện ngắn A.Chekhov thường
được bàn luận, đánh giá trong tương quan so sánh. Giới nghiên cứu ở nước ngoài và
Việt Nam đã bước đầu chỉ ra sự giao thoa ảnh hưởng lẫn nhau giữa hai thể loại văn
học ở nhiều bình diện như: đề tài - chủ đề; nhân vật trung tâm; cốt truyện khung,
nhãn quan hiện thực, nghệ thuật phân tích tâm lí... càng làm nổi bật ưu thế và đóng
góp của mỗi thể loại trong văn nghiệp của Chekhov. Kịch, truyện của Chekhov (và
cả đời tư, quá trình sáng tạo của ông) còn được chuyển thể, “phóng tác” hay “nhại
lại” dựa trên sự vay mượn cốt truyện của Chekhov (như những sáng tác thuộc dòng
hậu hiện đại đã và đang làm: những vở kịch “được viết lại” vẫn dùng nhan đề cũ
1

như Hải âu, Cậu Vania, Vườn anh đào) trong những tác phẩm điện ảnh đặc sắc,
những vở kịch độc đáo (ví như: Antigone, Những cuốn sổ tay, Tiểu phẩm chưa kết
thúc dành cho đàn piano cơ khí…). Hơn thế, trong xu hướng giao hòa của văn học sân khấu - điện ảnh - vũ đạo, các tác phẩm của A.Chekhov còn được biểu hiện trong
những hình thức hoàn toàn mới như: Phòng 6 và Tu sĩ vận đồ đen được đạo diễn
người Nhật Dzio Kanamori dàn dựng thành vũ đạo; trong tiết mục của nhà hát vũ
kịch “Cổng thiên đường” từ Đài Loan, dòng ngôn ngữ múa mềm mại thuật lại những
hồi những đoạn trong vở kịch lừng danh Vườn anh đào của văn hào Nga. Đó chính là
những gợi ý để chúng tôi thực hiện đề tài khoa học này.
1.3. Trong tiến trình phát triển của nền văn học Nga, sáng tác của A.Chekhov
đóng vai trò “gạch nối”, “bản lề”, phản ánh sâu sắc những biến động mạnh mẽ về tư
tưởng và nghệ thuật trong buổi giao thời giữa hai thế kỷ. Bối cảnh xã hội lúc
Chekhov bước vào làng văn chính là sự trì trệ ngưng đọng, mệt mỏi của toàn bộ đời
sống xã hội, thời kì suy mạt, buổi hoàng hôn của chế độ phong kiến. Các nhà văn
hiện thực không còn niềm tin để thuyết giáo, không còn hăng hái để tìm tòi giải
pháp cách mạng, cạn kiệt về đề tài, nghèo nàn về tư tưởng. Nói như SaltykovShchedrin: “Biết viết gì đây? Ca ngợi những chiến công gì? Những chiến công
chẳng thấy bóng dáng đâu, thế vào đó là một cuộc sống bằng phẳng tẻ ngắt”
[123,75]. Nhưng Chekhov đã chọn chính cái ảm đạm, cái ngưng trệ, cái khó biểu
đạt nhất để kể, tái hiện. Kịch và truyện ngắn của ông (ở giai đoạn chín muồi) cùng
song hành phản ánh yêu cầu cấp thiết thay đổi tư duy hình tượng và ý thức thẩm mĩ
trong buổi giao thời văn học. Kỉ nguyên Bạc trong văn học Nga chắc chắn sẽ kém
phần rực rỡ và ấn tượng nếu khuyết thiếu sáng tác của nhà văn. Những chuyển dịch
đã được thực hiện một cách âm thầm (nhưng triệt để) từ trào lưu, trường phái đến
phương thức phản ánh, loại hình văn học... Dự cảm nhạy bén của một người dẫn
đầu đã giúp Chekhov tạo nên sự chuyển dịch đó ngay trong các tác phẩm nghệ thuật
của mình (biểu hiện ở sự thay đổi trong các giai đoạn sáng tạo), dịch chuyển trong
tính chất của từng thể loại (truyện ngắn trào phúng - truyện ngắn trữ tình, hài kịch bi kịch), dịch chuyển theo dòng chảy của các loại hình văn học (tự sự - kịch - trữ
tình). Những tìm tòi thử nghiệm để hoàn tất quá trình chuyển dịch đồng thời ghi
nhận sự xâm nhập, ảnh hưởng, thẩm thấu lẫn nhau giữa truyện và kịch đã tạo nên
phong cách nghệ thuật độc đáo của văn hào Chekhov.
1.4. Sự phân loại văn học là bước đầu tiên nhận thức các quy luật thể loại. Các
nhà nghiên cứu thống nhất chia loại ra các thể và xem thể như là một tiểu loại. Yếu
tố ổn định truyền thống cho ta những tiêu chí để phân biệt cái cốt lõi bất biến của
2

nguon tai.lieu . vn