Xem mẫu

PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Với mục tiêu xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng chú trọng hoàn thiện và hài hòa hóa các thành phần kinh tế. Trong Cương lĩnh Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp 2013, Đảng luôn khẳng định kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, thành phần kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng. Tuy doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là một bộ phận của thành phần kinh tế nhà nước, nhưng cũng như các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác đều phải hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật. Theo Điều 51 và Điều 52 Hiến pháp 2013, nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Nhà nước luôn xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, điều tiết nền kinh tế trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường, thực hiện phân công, phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước nhằm đảm bảo tính thống nhất của nền kinh tế quốc dân. Vào tháng 04 năm 2001, Đại hội Đảng lần thứ IX đã thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 – 2010, trong đó đã xác định rõ “Vai trò chủ đạo kinh tế nhà nước được tăng cường, chi phối các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế; DNNN được đổi mới, phát triển, sản xuất, kinh doanh có hiệu quả”[34]. Sau 10 năm thực hiện, tháng 12 năm 2011, Hội nghị báo cáo tổng kết việc thực hiện Chiến lược này đã được tổ chức tại Hà Nội. Theo Báo cáo của Ban Chỉ đạo thì kết quả đạt được là DNNN giảm về số lượng, nhưng doanh nghiệp trong những ngành, lĩnh vực quan trọng thì quy mô vốn tăng lên, hiệu quả hoạt động tốt hơn, cơ bản thực hiện được vai trò nòng cốt của kinh tế nhà nước, làm công cụ vật chất để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và tạo nền tảng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhìn chung, kết quả đổi mới và phát triển doanh nghiệp mang tính tích cực và khả quan. Hiện đã có 4.750 DNNN đã được sắp xếp lại[67]. Riêng tại Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), việc sắp xếp, đổi mới DNNN được thực hiện chủ yếu theo hai hình thức, (1) Đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư: thực hiện cổ phần hóa các DNNN, tạo điều kiện cho doanh nghiệp và người lao động hoàn toàn tự chủ trong cơ chế năng động, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Hiệu quả của việc cổ phần hóa các doanh nghiệp tại TP.HCM trong thời gian qua đã làm nguồn thu ngân sách nhà nước tăng 40% và thu nhập lao động tăng trên 24%; (2) Nhà nước quản lý trực tiếp vốn thông qua đại diện chủ sở hữu vốn: mô hình được thực hiện từ 432 doanh nghiệp năm 1997, đến nay sau khi hoàn thành việc sắp xếp, chuyển đổi mô hình, số doanh nghiệp do UBND TP.HCM làm chủ sở hữu 100% vốn nhà nước chỉ còn 107 Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (Công ty TNHH MTV) nắm giữ 57.756 tỷ đồng, trong đó có 17 tổng công ty và công ty lớn, nắm giữ khoảng 51.554 tỷ đồng và hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con, đã phát huy được thế chủ động và nâng cao năng lực, hiệu quả sản xuất kinh doanh của đơn vị. Theo Dự thảo Văn kiện Đại hội lần thứ XII (2016 – 2021) của Đảng, việc tái cơ cấu DNNN cũng đã đạt được những thành tựu nhất định. Sau khi cơ cấu lại, một bộ phận DNNN cơ bản thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao; tập trung hơn vào những lĩnh vực then chốt, quốc phòng, an ninh, cung ứng hàng hóa và dịch vụ công thiết yếu, quản lý nhà nước được tăng cường. Hệ thống pháp luật về DNNN được hoàn thiện. Xác định rõ quyền, trách nhiệm của chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp và công khai, minh bạch hoạt động của DNNN. Cổ phần hóa và thoái vốn đầu tư ngoài ngành theo cơ chế thị trường được đẩy mạnh. Năng lực quản trị, tiềm lực tài chính và hiệu quả sản xuất kinh doanh của DNNN được nâng lên; vốn nhà nước được bảo toàn và phát triển; giá trị tài sản tăng; tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu trong giới hạn quy định. Các doanh nghiệp sau cổ phần hóa đều đạt hiệu quả sản xuất kinh doanh tốt hơn. Tuy nhiên, Dự thảo Văn kiện cũng xác định là DNNN hoạt động kém hiệu quả, chưa thể hiện được vai trò lực lượng nòng cốt của kinh tế Nhà nước. Tái cơ cấu DNNN, cổ phần hóa, thoái vốn ở một số doanh nghiệp chưa đạt tiến độ. Tỉ lệ vốn được cổ phần hóa còn thấp. Quản trị doanh nghiệp đổi mới còn chậm; kiểm tra, giám sát nội bộ còn hạn chế. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhiều DNNN thấp, chưa tương xứng với tài sản và nguồn lực, thất thoát, lãng phí còn lớn. Nhiều nhà nghiên cứu cũng nhấn mạnh rằng vấn đề quản lý vốn nhà nước tại các DNNN còn nhiều bất cập như đối với đầu tư khu vực nhà nước chiếm tỷ trọng cao nhưng không tập trung mà bố trí dàn trải, nhiều công trình đầu tư không đồng bộ và mục đích đầu tư không phù hợp với mục đích sử dụng nên hiệu quả sử dụng vốn rất thấp[35]. Bên cạnh đó, một số tập đoàn, tổng công ty đã thành lập các công ty con và đầu tư vào những lĩnh vực ngoài nhiệm vụ chính được giao nhưng kiểm soát thiếu chặt chẽ làm phân tán nguồn lực, ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp; tổ chức thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN tuy đã rõ hơn nhưng vẫn còn nhiều lúng túng và quản lý kém hiệu quả... Do đó, nhà nước cần có một cơ chế quản lý vốn để tránh tình trạng này. Ngoài ra, cũng cần có các giải pháp để giúp các DNNN, đặc biệt là các Tổng công ty, các Công ty TNHH MTV đang nắm giữ 100% vốn nhà nước và hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con quản lý thật hiệu quả vốn nhà nước nhằm nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh trong cơ chế thị trường. Bên cạnh những vấn đề về quản lý vốn nhà nước mang tính chất thực tiễn như trên, vấn đề lý luận cũng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Trong thời gian qua, khung pháp lý về hoạt động cũng như cơ chế, hệ thống giám sát tài chính doanh nghiệp luôn được nhà nước quan tâm và hoàn thiện, sao cho cơ chế giám sát tài chính cũng như chính sách hỗ trợ doanh nghiệp phù hợp với điều kiện của Việt Nam và thông lệ quốc tế. Phương thức quản lý vốn nhà nước cũng được đổi mới từ quản lý hành chính sang quan hệ đầu tư, kinh doanh vốn. Trong mối quan hệ giữa chủ sở hữu vốn và người điều hành doanh nghiệp, pháp luật cũng xác định rõ mức độ và giới hạn giữa hai bên trong mối quan hệ này sao cho tăng cường thêm tính tự chủ của doanh nghiệp có vốn nhà nước[61]. Nhiều nhà nghiên cứu, nhà lập pháp đã đặc biệt quan tâm đến cơ sở lý luận trong việc quản lý vốn như việc xác định khái niệm vốn, khái niệm DNNN, cơ chế kiểm tra, giám sát về quản lý vốn tại các DNNN cũng như mô hình tổ chức thực hiện chức năng sở hữu đối với DNNN và vốn nhà nước tại các doanh nghiệp. Vấn đề này được đặt ra bởi lẽ trên thực tế còn rất nhiều bất cập. Chính vì những thực tế như trên mà tác giả đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “Quản lý hiệu quả vốn tại các Doanh nghiệp nhà nước – từ thực tiễn Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên của Thành phố Hồ Chí Minh” để làm luận án tiến sỹ. Công trình nghiên cứu này sẽ nghiên cứu về cả quy định của pháp luật và thực trạng quản lý vốn các DNNN, nhất là các các Công ty TNHH MTV đang nắm giữ 100% vốn nhà nước trực thuộc UBND TP.HCM, để tìm ra những giải pháp hữu hiệu nhất trong việc quản lý vốn nhà nước. 2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu của đề tài Liên quan đến vấn đề quản lý vốn nhà nước, đã có nhiều công trình nghiên cứu với nhiều cách tiếp cận khác nhau. Nhìn từ góc độ quản lý hành chính công, Luận án tiến sĩ “Quản lý nhà nước đối với tổng công ty 90-91 theo hướng hình thành tập đoàn kinh tế” của Lê Hồng Tịnh năm 2010 đã nghiên cứu được bản chất, vị trí, vai trò của các tổng công ty 90-91, các tập đoàn kinh tế trong nền kinh tế thị trường; đã đánh giá được thực trạng hoạt động của các tổng công ty 90-91, các tập đoàn kinh tế và việc quản lý nhà nước đối với các tổng công ty 90-91 theo hướng hình thành tập đoàn kinh tế tại Việt Nam; đã đưa ra các kiến nghị về phương hướng và hệ thống giải pháp nhằm thực hiện hoàn thiện quản lý nhà nước đối với các tổng công ty 90-91 theo hướng hình thành tập đoàn kinh tế tại Việt Nam. Tuy nhiên, ở đề tài nghiên cứu này, tác giả luận án chưa đề cập đến tính đặc thù trong hoạt động quản lý vốn nhà nước tại các tổng công ty nhà nước, các tập đoàn kinh tế nhà nước, được gọi chung là DNNN; các giải pháp cụ thể để nâng cao hiệu quả quản lý vốn nhà nước tại các tổng công ty nhà nước, các tập đoàn kinh tế nhà nước, các DNNN. Luận án tiến sĩ của Nguyễn Xuân Nam về đề tài “Đổi mới cơ chế quản lý vốn và tài sản đối với các tổng công ty 91 phát triển theo mô hình tập đoàn kinh doanh ở Việt Nam” năm 2005 cũng đã tiến hành đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp đổi mới cơ chế quản lý vốn và tài sản đối với các tổng công ty 91 phát triển theo mô hình tập đoàn kinh doanh ở Việt Nam. Điểm tương đồng của công trình nghiên cứu trên với đề án này là cùng nghiên cứu về vấn đề quản lý vốn trong phạm vi DNNN nhưng chỉ ở một góc nhìn hẹp về chủ thể bị quản lý và cơ chế quản lý mà chưa có nghiên cứu bao quát về vấn đề quản lý vốn của loại hình DNNN. Ngoài hai luận án cơ bản trên, còn khá nhiều công trình liên quan như Luận văn của Nguyễn Hồng Thắng về đề tài “Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa DNNN (nghiên cứu vận dụng tại Nhà máy Len Hà Đông)”, năm 2010. Những thành công của đề tài này là làm rõ được những vấn đề lý luận cơ bản về doanh nghiệp sau cổ phần hóa DNNN, vốn nhà nước và quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp sau cổ phần hóa. Luận văn cũng đã đánh giá đúng thực trạng quản lý vốn DNNN trong thời gian qua ở Việt Nam. Tuy nhiên, có thể nhận thấy rằng tác giả luận văn chủ yếu chỉ đưa ra các giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp sau cổ phần hóa, chưa đặt vấn đề về quản lý vốn nhà nước của các DNNN, mà tại đó Nhà nước vẫn nắm giữ 100% vốn nhà nước; đồng thời, các giải pháp đề xuất của luận văn cũng chỉ vận dụng tại một doanh nghiệp điển hình, chưa nghiên cứu bao quát ở phạm vi lớn hơn và toàn diện hơn về việc quản lý vốn trong loại hình DNNN. Ngoài các công trình cụ thể nêu trên, liên quan đến đề tài này còn có các công trình nghiên cứu liên quan khác. Có thể phân nhóm các công trình này thành hai dạng: 1) Quản lý nhà nước về DNNN và 2) Quản lý vốn nhà nước trong các loại hình doanh nghiệp (bao gồm cả cơ chế quản lý vốn). Đối với nhóm thứ nhất, các chủ đề tập trung vào các đối tượng chủ yếu là DNNN, ví dụ như “Xây dựng và phát triển tập đoàn kinh tế ở Việt Nam”[2], “Quản lý nhà nước về kinh tế”[8], “Những nền tảng cơ bản của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” [7]; “Cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước - Một số khía cạnh lý luận cần được nhận thức đúng” [9]; “Bảo đảm tính tự chủ kinh doanh của DNNN theo cơ chế thị trường nước ta hiện nay”[6]; “Một số giải pháp tiếp tục chuyển đổi DNNN theo Luật Doanh nghiệp mới” [4]; “Báo cáo nghiên cứu mô hình tổ chức thực hiện chức năng, quyền hạn, nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với DNNN: Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam”[40]; “Báo cáo nghiên cứu mô hình quản lý DNNN: Được và chưa được, các giải pháp kiến nghị sửa đổi”[40]. ... - tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn