Xem mẫu

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

LÊ THỊ THÚY HẰNG

NGUYÊN LÍ ĐỐI THOẠI
TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN 2010

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

HUẾ - NĂM 2016

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

LÊ THỊ THÚY HẰNG

NGUYÊN LÍ ĐỐI THOẠI
TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN 2010

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 62 22 01 21

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS. TS NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP
2. PGS. TS BÙI THANH TRUYỀN

HUẾ - NĂM 2016

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng cảm ơn PGS. TS Nguyễn Đăng Điệp, PGS. TS Bùi Thanh
Truyền đã tận tình chỉ dạy, hướng dẫn, đóng góp những ý kiến quý báu giúp tôi hoàn
thành luận án trong điều kiện tốt nhất.
Xin chân thành cảm ơn lãnh đạo Khoa Xã hội & Nhân văn, lãnh đạo Trường
Đại học Phú Xuân Huế, lãnh đạo Khoa Ngữ văn, Phòng Sau Đại học, Trường Đại học
Khoa học, Đại học Huế đã quan tâm, tạo mọi điều kiện cho tôi trong suốt quá trình
thực hiện luận án.
Xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến gia đình, quý thầy cô, bạn bè, đồng
nghiệp, những người đã luôn động viên, khuyến khích, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian
thực hiện luận án.
Tác giả

Lê Thị Thúy Hằng

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1. Nguyên lí đối thoại manh nha xuất hiện từ rất lâu trong đời sống cũng như
trong nghệ thuật. Mặc dù mức độ không nhiều nhưng chúng ta bắt gặp trong đối thoại
Socrate, những phản ứng lại các trào lưu, chủ nghĩa nghệ thuật phương Tây… Song,
với tư cách là một lí thuyết văn học, phải đến Mikhail Bakhtin (1895 - 1975), tinh thần
đối thoại mới trở nên tự giác, riết róng. Sự xuất hiện các công trình lí luận của ông
những năm 20 thế kỷ XX thu hút quan tâm trong giới nghiên cứu khoa học và trí thức
Liên Xô nói riêng, thế giới nói chung. Ở Việt Nam, lí thuyết M. Bakhtin đánh dấu qua
nhiều công trình dịch thuật có giá trị và bắt đầu ảnh hưởng, thẩm thấu từ những năm
cuối thế kỷ XX, thập niên đầu thế kỷ XXI trong giới nghiên cứu, phê bình và sáng tác.
2. Căn nguyên làm nên ma lực của M. Bakhtin nằm ở hệ hình tư duy dựa trên
nền tảng triết học nhân bản liên chủ thể. Triết học liên chủ thể của ông xem đối thoại
là phạm trù nền. Đối thoại là bản chất của ý thức, bản chất của tư duy con người. Phát
triển tinh thần này, khi nghiên cứu khoa học văn học, nhà nghiên cứu đặc biệt chú ý
đến tính đối thoại thể loại tiểu thuyết. Thực tế chứng minh lí thuyết Bakhtin ảnh hưởng
suốt thế kỷ XX, bước sang thế kỷ XXI vẫn còn nguyên hấp lực và đâu đó hàm chứa
những điều bất khả giải. Luận thuyết của nhà triết học, mỹ học và nghiên cứu văn học
khi mới xuất hiện có thể gây phản ứng như cách người ta không chấp nhận tư tưởng
vượt ngưỡng so với thời đại. Tuy nhiên, đó là điều đã xảy ra và đã được ghi nhận. Vì
vậy, cho đến nay, nếu Bakhtin đủ căn cứ gọi những cuộc đối thoại kiểu Socrate là tiểu
thuyết thời Cổ đại thì ông chính là người cấp cho tiểu thuyết hiện đại căn cốt của lí
thuyết đối thoại qua khảo sát Dostoievsky và Rabelais. Bởi ở đó, nhà lí luận nhận ra ý
nghĩa giải phóng và giải - vật - hóa con người ở hình thức nghệ thuật, tìm ra “con
người trong con người” một cách triệt để nhất, thông qua đối thoại. Tư duy đối thoại
thực sự trở nên quen thuộc với đời sống văn học. Cuộc “vượt biên” lí thuyết đối thoại
Bakhtin bắt gặp trong tiểu thuyết Việt Nam từ sau năm 1986.
3. Không khí dân chủ của Đại hội VI (1986) giúp cho văn học Việt Nam phát
triển trên tinh thần đổi mới tư duy và nhìn thẳng vào sự thật. Tiểu thuyết được dịp tỏ
rõ chức năng hàng đầu, sứ mệnh của mình là xét lại, nhận thức lại, đánh giá lại tất cả.
1

Tinh thần nhận thức lại tạo tiền đề cho tiếng nói đa thanh, đa âm sắc, đa giọng điệu.
Những nhà văn luôn thể hiện ý thức nhận thức lại qua đối thoại: Phạm Thị Hoài, Bảo
Ninh, Hồ Anh Thái, Võ Thị Hảo, Tạ Duy Anh, Thuận, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn
Xuân Khánh, Nguyễn Việt Hà, Đỗ Phấn… Mỗi tác phẩm là cuộc đối thoại của tác giả
với tư tưởng thời đại và tạo điều kiện cho những tư tưởng này đối thoại với nhau. Cái
mới nảy sinh qua chính vấn đề đem ra tranh luận, tư biện để tìm ra căn cốt con người
trong cuộc hiện sinh nhọc nhằn. Việc giải mã nguyên lí đối thoại là cách để hình dung,
tìm hiểu sự vận động của/trong hệ hình tư duy tiểu thuyết Việt Nam đương đại so với
mô thức truyền thống, đồng thời khẳng định sự vượt thoát trong ý hướng tính văn
chương của tiểu thuyết nhằm làm mới thể loại.
4. Vận dụng lí thuyết đối thoại của M. Bakhtin, đề tài Nguyên lí đối thoại trong
tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2010 của luận án hướng đến soi chiếu, khám phá
những giá trị cách tân tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới trên tinh thần nhận thức
lại. Ý thức rời xa khỏi lối mòn là dấu hiệu khởi động cho cuộc hành trình đưa tiểu
thuyết Việt Nam thoát khỏi mô thức truyền thống để bước vào quỹ đạo chung của văn
chương thế giới - một hình thức liên chủ thể sáng tạo. Đó là lí do chúng tôi lựa chọn và
thực hiện đề tài này.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài Nguyên lí đối thoại trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2010 hướng
đến các mục tiêu cơ bản:
Thứ nhất, luận án hệ thống lại lí thuyết đối thoại của các nhà nghiên cứu, chủ
yếu là Bakhtin. Chúng tôi cố gắng chỉ ra vấn đề còn tranh cãi, tìm tiếng nói đồng thuận
nhằm xây dựng cơ sở lí luận về đối thoại. Điều này cần thiết cho việc vận dụng nghiên
cứu nguyên lí đối thoại trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
Thứ hai, mục tiêu chính yếu của luận án là khám phá nguyên lí đối thoại trong
tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 trên bình diện ý thức nghệ thuật và cách thức tổ chức
trần thuật. Ngoài ra, chúng tôi cũng quan tâm đến các vấn đề quan trọng liên quan như
làm rõ sự xuất hiện, vận hành của đối thoại trong tương quan tiếp biến với tiểu thuyết
trước 1986. Từ đó, luận án nhận định, đối thoại trên tinh thần nhận thức lại trở thành
nguyên lí phổ quát của tiểu thuyết Việt Nam đương đại, góp phần khẳng định những
cách tân nhằm đánh giá đúng bước tiến thể loại trong diễn trình hội nhập.
2

nguon tai.lieu . vn