Xem mẫu

  1. LỜI THƯA Hùng Vương là biểu tượng của Quốc Tổ nước ta, mà Hùng Vương có những mười tám(18) đời, mỗi đời lại có đôi, có ba, có bốn… Chi, (hay có thể nói ngược lại: Hùng Vương có mười tám (18) Chi, mỗi Chi lại có đôi, ba, bốn đời), mà cũng phải như vậy mới được. Vì thời kì lịch sử Hùng Vương kéo dài đến những hai sáu hai một (2621) năm. Nếu không gồm chứa nhiều Chi hoặc nhiều đời thì thực khó mà giải thích. Vậy, tóm lại Hùng Vương với mười tám (18) đời, là biểu tượng của Quốc Tổ nước ta. Ngày nay về mặt văn tự, ta không có gì để chứng minh, nhưng qua những Chi Chi và đặc biệt là qua những truyền thuyết, chúng ta có thể hình dung ra một thời kì các Vua Hùng ấy. Đó là một cái gì rất đẹp, rất khỏe, rất thơ và rất đạo. Đặc biệt là qua những chuyện cổ tích. Trong đó ẩn giấu những thông điệp của tổ tiên Hồng Lạc. Với tập Sử Thi này, chúng tôi đã cố gắng hết sức mình để giải mã các thông điệp nói trên để tỏ chút lòng hiếu kính. Mong quý bạn đọc chỉ bảo cho những điều sơ sót. Kính bút Hu ỳnh Uy Dũng TẠ ƠN QUỐC TỔ Một nhà văn nào đó có nói: nếu anh không có lòng biết ơn, anh không có gì cả. May thay, lành thay: Dân tộc Việt Nam chúng ta là một dân tộc biết ơn lắm! Biết ơn 1
  2. cuộc sống, biết ơn đất nước, biết ơn ông bà cha mẹ, biết ơn thầy cô- biết ơn tất cả. Và trong những điều biết ơn vô giá ấy, có niềm biết ơn Tổ Tiên Cội Nguồn. Đây không phải là lời nói suông, lời khen suông. Cứ đọc trong sách, cứ nhìn trong đời, chúng ta có thể bắt gặp lòng biết ơn này. Khắp nơi từ Bắc chí Nam, tận rừng sâu núi thẳm, tận ngõ hẻm hang cùng, đâu đâu cũng có bóng của những ngôi đền thờ Quốc Tổ, hầu hết do chính người dân tự nguyện dựng lên để thể hiện lòng biết ơn sâu sắc. Lòng biết ơn ấy mới quý giá làm sao! Nó giúp chúng ta lớn lên thành người. Nó ban cho chúng ta các đức tính tự hào, tự tin, tự trọng. Còn hơn thế nữa, nó giúp chúng ta giữ được nước, dựng được nhà. Và hôm nay chúng ta họp mặt nhau đây cũng là do công biết ơn ấy. Vì lòng biết ơn ấy để cùng lắng lòng niệm ơn các Vua Hùng, Quốc Tổ của chúng ta, đã dầy công gầy dựng nên nước non này. Cho chúng ta có cội mà nhớ, có nguồn mà thương, có Xã Tắc mà vững Âu Vàng, có Sơn Hà mà bon ngựa đá, có Quốc Tổ để chúng ta vinh hạnh làm người. Hôm nay chúng ta họp mặt ở đây. Một là để thêm một lần nữa trong những ngàn lần tưởng niệm công ơn dựng nước của các Vua Hùng, Quốc Tổ của chúng ta. Hai là để nhắc nhở nhau nỗ lực để giữ lấy nước mình, 2
  3. giữ lấy nền độc lập tự do của nước mình, giữ lấy hạnh phúc của dân mình. Giữ lấy và củng cố thêm, cho mỗi ngày thêm lớn, thêm cao, thêm rộng. Cùng với độc lập tự do và hạnh phúc, nhân phẩm của dân tộc ta ngày một thêm rộng lớn, như núi Trường Sơn như biển Thái Bình và như lịch sử huy hoàng trên bốn ngàn năm Đại Nam Văn Hiến. *Chi gọi là nhánh, là nhiều đời gọi là chi Mười tám chi ấy như sau: CHI CÀN Kinh Dương Vương, húy Lộc Tục, sinh năm Nhâm Ngọ (2919 TCN) lên ngôi năm 41 tuổi. Tại ngôi tất cả 86 năm, từ năm Nhâm Tuất (2879-TCN) đến năm Đinh Hợi (2794- TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời đại Tam Hoàng. CHI KHẢM Lạc Long Quân, húy Sùng Lãm, tức Hùng Hiền Vương, sinh năm Bính Thìn (2825-TCN) lên ngôi 3
  4. năm 33 tuổi. Chi này tại ngôi tất cả 269 năm, đều xưng là Hùng Hiền Vương. Từ năm Mậu Tý (2797- TCN) đến năm Bính Thân (2525-TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời Hoàng Đế ( Ngũ Đế). CHI CẤN Hùng Quốc Vương, húy Hùng Lân Lang, sinh năm Canh Ngọ (2570- TCN), lên ngôi khi 18 tuổi, các đời vua đều xưng là Hùng Quốc Vương, tại ngôi tất cả 272 năm. Từ năm Đinh Tỵ (2524- TCN). Ngang với Trung Quốc thời Đế Thuấn, Đế Nghiêu. CHI CHẤN Hùng Hoa Vương, húy Bửu Lang, lên ngôi năm Đinh Hợi (2252 TCN). Đều xưng là Hùng Hoa Vương, tại ngôi tất cả 342 năm từ năm Đinh Hợi (2254 TCN) đến năm Mậu Thìn (1913- TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời Đế Quýnh nhà Hạ CHI TỐN Hùng Hy Vương, húy Bảo Lang, sinh năm Tân Mùi (2030- TCN) lên ngôi khi 59 tuổi đều xưng là Hùng Hy Vương, tại ngôi tất cả 200 năm. Từ năm Kỷ Tỵ (1713- TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời Lý Qúy ( Kiệt ) nhà Hạ CHI LY Hùng Hồn Vương, húy Long Tiên Lang, sinh năm Tân Dậu (1740- TCN) lên ngôi khi 29 tuổi. Truyền 4
  5. hai đời vua, tại ngôi tất cả 81 năm, đều xưng là Hùng Hồn Vương. Từ năm Kỷ Sửu (1712- TCN) đến năm Kỷ Dậu (1632- TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời Đinh nhà Thương. CHI KHÔN Hùng Chiêu Vương, húy Quốc Lang, sinh năm Qúy Tỵ (1768- TCN) lên ngôi khi 18 tuổi. Truyền 5 đời vua đều xưng là Hùng Chiêu Vương, tại ngôi tất cả 200 năm, từ năm Canh Tuất (1631- TCN) đến năm Kỷ Tỵ (1432- TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời Tổ Ất nhà Thương. CHI ĐOÀI Hùng Vỹ Vương, húy Vân Lang, sinh năm Nhâm Thìn (1469- TCN) lên ngôi khi 39 tuổi, truyền 5 đời vua đều xưng là Hùng Vỹ Vương, tại ngôi tất cả 100 năm, từ năm Canh Ngọ (1431- TCN) đến năm Kỷ Dậu ( 1332- TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời Nam Canh nhà Thương. CHI GIÁP Hùng Định Vương, húy Chân Nhân Lang, sinh năm Bính Dần (1375- TCN) lên ngôi khi 45 tuổi. Truyền 3 đời vua đều xưng là Hùng Định Vương, tại ngôi tất cả 80 năm, từ năm Canh Tuất(1331-TCN) đến năm 5
  6. Kỷ Tỵ (1252- TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời Tổ Giáp nhà Ân. CHI ẤT Hùng Uy Vương, húy Hoàng Long Lang, sinh năm Giáp Ngọ (1287-TCN). Truyền 3 đời vua, tại ngôi tất cả 90 năm. Từ năm Canh Ngọ (1251-TCN) đến năm Kỷ Hợi (1162- TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời Tổ Giáp nhà Ân. CHI BÍNH Hùng Trinh Vương, húy Hưng Đức Lang sinh năm Canh Tuất (1211- TCN) lên ngôi khi 51 tuổi, truyền 4 đời vua đều xưng là Hùng Trinh Vương, tại ngôi tất cả 107 năm. Từ năm Canh Tý (1161- TCN) đến năm Bính Tuất (1055- TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời Thành Vương nhà Tây Chu. CHI ĐINH Hùng Vũ Vương, húy Đức Hiền Lang, sinh năm Bính Thân (1105- TCN) lên ngôi khi 52 tuổi, truyền 3 đời vua đều xưng là Hùng Vũ Vương, tại ngôi tất cả 86 năm. Từ năm Đinh Hợi (1054- TCN) đến năm Nhâm Tuất (965- TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời Lệ Vương nhà Tây Chu. CHI MẬU 6
  7. Hùng Việt Vương, húy Tuấn Lang, sinh năm Kỷ Hợi (982- TCN), lên ngôi khi 23 tuổi, truyền năm đời vua, đều xưng là Hùng Việt Vương, tại ngôi tất cả 115 năm. Từ năm Qúy Hợi (968- TCN) đến năm Đinh Mùi (853- TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời Lệ Vương nhà Tây Chu. CHI KỶ Hùng Anh Vương, húy Viên Lang, sinh năm Đinh Mão (894- TCN) lên ngôi khi 42 tuổi, truyền 4 đời vua đều xưng là Hùng Anh Vương, tại ngôi tất cả 99 năm. Từ năm (853 đến 755- TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời Bình Vương nhà Đông Chu. CHI CANH Hùng Triệu Vương, húy Cảnh Chiêu Lang, sinh năm Qúy Sửu (748- TCN), lên ngôi khi 35 tuổi, truyền 3 đời vua đều xưng là Hùng Triệu Vương, tại ngôi tất cả 94 năm. Từ năm Đinh Hợi (754- TCN) đến năm Canh Thân (661- TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời Huệ Vương nhà Đông Chu. CHI TÂN Hùng Tạo Vương, húy Đức Lang Quân, sinh năm Kỷ Tỵ (712- TCN). Truyền 3 đời vua, tại ngôi tất cả 92 năm. Từ năm Tân Dậu (660- TCN) đến năm Nhâm 7
  8. Thìn (569- TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời Linh Vương nhà Đông Chu. CHI NHÂM Hùng Nghi Vương, húy Bảo Quang Lang, sinh năm Ất Dậu (576- TCN), lên ngôi khi 9 tuổi, truyền 4 đời vua đều xưng là Hùng Nghị Vương, tại ngôi tất cả 160 năm. Từ năm Qúy Tỵ (568- TCN) đến năm Nhâm Thân (409- TCN). Ngang với Trung Quốc vào thời Uy Liệt Vương nhà Đông Chu. CHI QUÝ Hùng Duệ Vương, húy Huệ Lang sinh năm Canh Thân (421- TCN) lên ngôi khi 14 tuổi, truyền 3 đời vua, tại ngôi tất cả 150 năm. Từ năm Qúy Dậu (408- TCN) đến năm Qúy Mão (258- TCN). Ngang với năm thứ 17 đời Uy Liệt Vương, đến năm thứ 56 đời Noãn Vương nhà Đông Chu Trung Quốc. Điều siêu việt nhất dân tộc Việt Ấy phiến Tâm tha thiết cội nguồn Bánh Dày tròn Bánh Chưng vuông Công cha nghĩa mẹ đời khôn báo đền. Mười tháng ba ngay thiêng Quốc Tổ Ngày giỗ thiêng Quốc Tổ Hùng Vương Triệu lòng nghi ngút khói hương 8
  9. Tỏa mây lành khắp Hùng Sơn bạt ngàn. Ấy là chốn từ đàng cẩm tú Thuộc Phong Châu- Vĩnh Phú quê mình (10) Nơi hồn Quốc Tổ quang vinh Nơi hồn Quốc Tổ hiển linh vạn đời. Từ đàng ấy chia ngôi ba bậc Hạ, Trung rồi, Thượng thật phân minh Khởi đầu Đền Giếng xinh xinh Nơi nghìn năm thoảng bóng hình Tiên Nga. Hai công chúa ngọc ngà kiều diễm Là Tiên Dung rồi đến Ngọc Hoa Hai “Tiên” từng “tắm ao nhà” Để cho “Giếng Ngọc” trổ tòa thiên nhiên. (20) Qua Đền Giếng bước lên Đền Hạ Vượt hai trăm bậc đá rừng xanh Theo lời truyền thuyết lừng danh Mẹ Tiên trăm trứng hạ sanh Con Rồng. Đền Hạ tọa lạc lưng chừng núi Có ngôi chùa mở lối Tam Quan Gác chuông vọng tiếng chuông vàng Ngàn năm hồn Mẹ ngân vang điệu huyền. Từ Đền Hạ, thêm trăm sáu tám (168) Những bậc thang hùng tráng vươn mây (30) 9
  10. Lên Đền Trung – chính nơi này Các Vua Hùng đã dựng gầy triều cang. Chốn Lang Liêu bao ngàn năm trước Đã từng phen lập được kỳ công Một kỳ công đẹp lạ lùng “Kỳ công thực phẩm” bánh Chưng bánh Dày. Một dấu ấn của ngày mở nước Nó vuông tròn như một bài thơ Hiếu trung nhân nghĩa dựng cờ Kỷ cương Âu Lạc rạng tờ sử xanh. (40) Từ Đền Trung vượt nhanh trăm bậc Tới Đền Hùng cao nhất Hùng Sơn Gọi là Đền Thượng – nơi thường Diễn ra những lễ tạ ơn đất trời. Như thể Vua Hùng đời thứ sáu Khi giặc Ân cuồng khấu nghênh ngang Tiến vào bờ cõi Văn Lang Hùng Vương đã lập đàn tràng nơi đây. Để xin đấng cao dày phù trợ Cho thần dân giúp giữ biên cương. (50) Thế rồi: Phù Đổng Thiên Vương Cho ngàn năm mãi sáng gương anh hùng Từ Đền Thượng trùng trùng điệp điệp 10
  11. Trăm ngọn đồi y hệt đàn voi Cùng quay về một hướng thôi Y như quy phục ngôi trời Hùng Vương Ôi cả một giang sơn hùng vĩ Một giang sơn tú lệ vô ngần Một giang sơn của thiên thần Một giang sơn của nhất chân Đồng Bào (60) Cõi phúc địa mưa rào cam vũ Miền Nam Thiên Nhất Trụ Tâm Linh Mười tám đời vương trị bình Và mười tám chiếc nan xinh quạt ngà Trên Đền Thượng gấm hoa, không chỉ Có lăng thờ chư vị tiên hiền Mà còn một cột đá thiêng An Dương Vương đã dựng lên một thời Một cột đá vời vời vậy đó Nguyện giữ gìn nghiệp cả cha ông (70) Giữ xã tắc giữ non sông Để thiên thu rạng kỳ công Vua Hùng Ngoài Đền Chính nơi Hùng Sơn nọ Huyện Phong Châu- Phú Thọ ngày nay Khắp nơi trên nước non này Bốn phương nam bắc đông tây chốn nào 11
  12. Hễ có mặt đồng bào Lạc Việt Ắt có Đền chư liệt Hùng Vương Ngoài ra, khắp chốn tha phương Khắp năm châu, còn cơ man Việt Kiều (80) Dẫu xa nước vẫn yêu dấu nước Yêu nước sao quên được Hùng Vương Và từ trăm nẻo tha phương Vẫn về quê tổ, xin “Chân Hương” về Ôi! Những tấm lòng quê đẹp thế Nói cùng ta “Điều Bể Non” này Còn mảnh đất hiếu tình đây Thì tương lai Việt còn ngày vẻ vang Lòng yêu tổ, lần trang sử tổ Kinh Dương Vương vốn họ Hồng Bàng (90) Sinh trai là Lạc Long Quân Cưới Âu Cơ ấy Cha Rồng Mẹ Tiên Và kết quả mối duyên thần thoại Là trăm con thiên tải nhất thì Dòng Bách Việt giống Long Nhi Nửa thì theo mẹ nửa thì theo cha Và Hùng Vương chính là con trưởng Theo cha đi về chốn phương Nam Dựng gầy cõi nước Văn Lang Mười tám đời một ngai vàng Hùng Vương (100) 12
  13. Phong Châu mở triều cương Quốc Tổ Chia nước mười lăm bộ như sau Văn Lang- Bạch Hạc- Phong Châu Ấy kinh đô buổi ban đầu Nam Thiên Rồi Phúc Lộc – Châu Diên – hai bộ Nay thuộc về đất của Sơn Tây Tân Hưng – Hưng Hóa ngày nay. Vũ Định ấy thuộc ngày rày Thái Nguyên Vũ Hạnh – thuộc Bắc Ninh hiện tại Lục Hải – bây giờ gọi Lạng Sơn (110) Dương Tuyền – nay thuộc Hải Dương. Ninh Hải – thuộc Quảng Yên đương thời này Giao Chỉ trước – nay là Hà Nội Hưng Yên – Nam Định với Ninh Bình Cửu Chân – nay gọi xứ Thanh. Hoài Hoan – xứ Nghệ địa danh anh hào Cửu Đức - ấy đường vào Nghệ Tĩnh Việt Thường – Quảng hai tỉnh Trị, Bình Quảng Bình – Quảng Trị trăm xinh. Muôn xưa xinh đẹp bóng hình Văn Lang (120) Các Vua Hùng giỏi dang việc nước Mười tám đời sau trước vẻ vang Con trai vua gọi Quan Lang. Con gái vua gọi là nàng Mỵ Nương 13
  14. Dòng giống Việt can trường thiên bẩm Lại thêm tình nghĩa nặng thiên thu Cứ nghe thần thoại nghìn xưa. Đủ hay cái đẹp cái thơ của đời Cõi Âu Lạc rạng ngời Văn Hiến Nghĩa Tiên Rồng thể hiện âm dương (130) Một dương thể hiện kiên cường. Một âm thể hiện khiêm nhường nhã nhu Dương thể hiện thần thông du hí Ơi! con Rồng bất chiến vĩ kia Âm thể hiện đức thuận tùy. Ơi! nàng tiên của nhu mì đảm đang Ơi cái nghĩa đá vàng non biển Nghĩa vuông tròn bất biến tùy duyên Nghĩa cha Rồng, nghĩa mẹ Tiên. Nghìn năm Văn Hiến đẹp duyên Tiên Rồng (140) Những pho sử Vua Hùng thần thoại Mỗi pho là mỗi dải sông Ngân Mỗi chương một đóa Tường Vân. Mỗi trang là một điệu vần trái sim Đói lòng ăn trái sim nửa trái Một cõi lòng vạn đại dung thân Trở về nguồn cội tiên nhân. 14
  15. Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân … bao đời Kinh Dương Vương mở đời tự chủ Dựng gầy ngôi cửu ngũ Văn Lang (150) Chi Càn trải mấy đời Vương. So ngang thời đại Bắc phương: Tam Hoàng Tám sáu (86) năm Chi Càn dựng nước Đến Lạc Long Quân, tức Hùng Hiền Chuyển qua Chi Khảm nối truyền. Từ Mậu Tí đến Bính Thân nhớ chăng? Là hai sáu chín (269) năm bình trị Sánh ngang đời Ngũ Đế Trung Hoa Rồi sang Chi Cấn nguy nga. Hùng Quốc Vương tên húy là Hùng Lân (160) Với hai bảy hai (272) năm thống trị Kể từ năm Đinh Tỵ - so ra Ngang đời Đế Thuấn Trung Hoa Vua, tôi trung dựng Sơn Hà Lạc Long Qua Chi Chấn ngôi Rồng chuyển hệ Sang Hùng Hoa Vương, húy Bửu Lang Từ Đinh Hợi, một thời gian Ba bốn hai (342) năm sang năm Mậu Thìn Trung Quốc Sử: niên biên nhà Hạ Chi Tốn: truyền nghiệp cả Bảo Lang (170) 15
  16. Hùng Hy Vương: một đăng quang Hai trăm (200) năm khéo vẻ vang Tiên Rồng Chi Ly: ấy Vua Hùng thứ sáu Hùng Hồn Vương: Tân Dậu tuổi người Hồn Vương truyền được hai đời So Trung Quốc sử vào đời nhà Thương Chi Khôn: Hùng Chiêu Vương kế vị Hai trăm (200) năm ngự trị ngai rồng Năm đời vua, một non sông. Mang chung vương hiệu ấy: Hùng Chiêu Vương Chi Đoài: Hùng Vỹ Vương trị nước (181) Năm đời vua chung một hồng danh Trăm năm (100) vận nước Thái Bình. Canh Ngọ - Kỷ Dậu thêm xinh Việt Thường Chi Giáp: Hùng Định Vương cũng gọi Ba đời Vua bằng mỗi tên này Tám mươi (80) năm thoảng mây bay So Trung Quốc sử ngày rày nhà Ân Chi Ất: Hùng Uy Vương kế vị Chín mươi (90) năm, nối trị ba đời (190) Chi Bính: Trinh Vương lên ngôi Trăm lẻ bảy (107) năm, với bốn đời chung tên Chi Đinh: tính từ niên Đinh Hợi 16
  17. Tám sáu (86) năm cũng mỗi tên này Hùng Vũ Vương nối nghiệp dầy So Trung Quốc sử: ngày rày Tây Chu Chi Mậu: ấy triều vua Hùng Việt Trăm mười lăm (115) năm đẹp hùng tâm Năm đời chung dựng mùa xuân So Trung Quốc sử: ngang tầm Lệ Vương (200) Chi Kỷ: Hùng Anh Vương trị nước Chín chín (99) năm truyền được bốn đời So Trung Quốc sử ấy thời Bình Vương dựng nghiệp mở đời Đông Chu. Chi Canh: ấy đời vua Hùng Triệu Ba đời vua chung một hiệu này Chín bốn ( 94) năm kể từ ngày Từ Đinh Hợi tới ngày rày Canh Thân Chi Tân: ấy đời Vương Hùng Tạo Ba đời vua lãnh đạo Sơn Hà (210) Chín hai ( 92) năm dựng nước nhà So Trung Quốc sử vẫn là Đông Chu Chi Nhâm : ấy đời vua Hùng Nghi Bốn đời vua ngự trị Văn Lang Trăm sáu mươi (160) năm đá vàng Vũ công văn nghiệp mở trang sử hồng 17
  18. Chi Qúy: ấy thuộc dòng Hùng Duệ Lên ngôi từ năm Qúy Dậu kia Đến năm Qúy Mão vị chi Một trăm năm chục (150) năm quy ba đời (220) So Trung Quốc sử thời ngang với Hai đời vua thuộc mỗi Đông Chu Tổng cộng Mười Tám Chi Vua Hai mươi sáu thế kỷ thừa hai mốt ( 2621) năm Như vậy, họ Hồng Bàng khai sáng Không chỉ là mười tám đời vương Mà là mười tám chi Vương Mỗi chi lại có nhiều vương nối đời Ôi! pho sử tuyệt vời Âu Lạc Pho sử thi sinh hoạt giống nòi (230) Dẫu văn tự mất đi rồi Nhưng còn di chỉ vẫn ngời ánh dương Những hiện vật Đông Sơn Ngọc Lũ Những lưỡi rìu lưỡi búa vân vân… Những muôn xưa tiếng Trống Đồng Đã ngân nga khắp núi sông Việt Thường Nói lên những bước đường khôi vĩ Tiến lên chân thiện mỹ huy hoàng Trong dẻo thơm hạt lúa vàng Trong xinh thắm của y trang con người. (240) 18
  19. Trong ấm đẹp của ngôi nhà ở Lại trong phong vân của bài thơ Câu hò điệu hát hò lơ Lại trong tiếng sáo lửng lơ non ngàn Lại trong khúc múa đàn xinh khỏe Chở chuyên tròn nghĩa mẹ tình cha Tình non nghĩa nước bao la Lại trong pho cổ tích hoa gấm vàng Những cổ tích chiến công Phù Đổng Gọi nôm là Thánh Gióng anh nhi (250) “ Ngày xưa có chàng Trương Chi Trang cổ tích đẹp vần thi tình người Chuyện Tấm Cám mở trời nhân nghĩa Chuyện nghĩa nhân ăn khế trả vàng Thạch Sanh với một cây đàn Cây rìu để đẵn, cây đàn để ngân Đàn những cái bất nhân bất nghĩa Nhân những điều trí tuệ từ bi Ơi cây đàn của lương tri Ngàn năm đồng vọng tư duy Lạc Hồng (260) Lại còn nữa: Chử Đồng Tử với Nàng Tiên Dung vời vợi tình yêu Dù cho rào giậu bao nhiêu Cũng khôn ngăn đắp tình yêu con người 19
  20. Còn nữa: chuyện nắm xôi huyền thoại Chuyện Thằng Bờm có cái quạt mo Chuyện Trầu Cau đẹp bài thơ Chuyện Sơn Tinh, Thủy Tinh… như cuộc đời Cơ man chuyện ngời ngời cổ tích Lại ngời ngời lai lịch thiên lương (270) Trời sinh dân nước Việt Thường Lại cho trọn vẹn sắc hương của lòng Đẹp nhất chuyện Tiên Rồng dã sử Là chuyện trăm trứng nở trăm con Ôi sao quan niệm vuông tròn Như ôm bốn biển năm non vào lòng Thiên hạ vạn vật đồng nhất thể Điều những nhà “vạn thể” lập ngôn Việt Nam từ thuở Hùng Vương Đã trao thông điệp trong nguồn tích xưa (280) Này: trăm trứng nở từ một mẹ Có khác chi “nhất thể đại đồng” Một lòng mẹ cõi phương đông Chở chuyên trăm trứng tiên rồng âm dương Từ nhất bổn tỏa muôn phù phẩm Lại từ muôn phù phẩm quy nguyên Những lời chư vị thánh hiền 20
nguon tai.lieu . vn