Xem mẫu

  1. Loại hình học hiện đại Khuynh hướng định lượng* Ngành loại hình học định lượng được nảy sinh trên cơ sở một thực tế mà chúng ta đã thấy: trong ngôn ngữ thường thường hay có hiện t ượng song song tồn tại của nhiều đặc điểm thuộc loạihình khác nhau. Chẳng hạn, trong tiếng Nga làm một ngôn ngữ khuất chiết, tổng hợp, vẫn có những yếu tố chắp dính (nh ư -СЯ thêm vào sau động từ), những yếu tố phân tích (như БУДУ ở dạng tương lai, vị hoàn thành thể); trong tiếng Đức – cũng là một ngôn ngữ khuất chiết – vẫn có những yếu tố hỗn nhập: bổ ngữ và trạng ngữ do thực từ đảm nhiệm có thể chen vào giữa dạng nhân xưng của động từ và tiền tố của nó, hoặc chen vào giữa hai bộ phận của một dạng thức phức hợp của động từ. Ví dụ: Die Sitzung findete sich gestern abend in Winterpalast statt: "Cuộc họp tiến hành tối hôm qua ở tại Cung điện mùa đông". Động từ "tiến hành" vốn có nguyên dạng là stattfinden sich, ở đây tiền tố STATT được đưa xuống cuối câu, giữa dạng findete sich và statt chen các t ừ khác vào. Trái lại, trong một ngôn ngữ đơn lập như tiếng Hán lại có thể có cả những yếu tố chắp dính (như phụ tố môn (門) dùng để chỉ số nhiều cho danh từ) hoặc những yếu tố hỗn nhập (như hiện tượng chen mệnh đề phụ chỉ điều kiện vào giữa hai bộ phận của một liên từ, liên từ này vốn là phương thức dùng để dạng thức hoá mệnh đề đó). Nhưng trước tình hình thực tế trên đây ta không thể đi đến kết luận rằng mỗi ngôn ngữ là một mớ pha tạp. Nghiên cứu kĩ chúng ta sẽ thấy rằng trong hệ thống của ngôn ngữ, mỗi hiện t ượng đều có một chỗ đứng, một vai tr ò nhất định. Đối với ngành loại hình học hiện đại, điều cần thiết chính là phải cố gắng
  2. chỉ ra đâu là hiện tượng chính, hiện t ượng có vai trò quyết định đối với hệ thống. Vậy phải tìm hiểu chỗ đứng, vai trò c ủa từng hiện t ượng một; phải xét xem mỗi hiện tượng đó có mức độ phổ biến và có khả năng sản sinh như thế nào, để so sánh, tìm ra mối tương quan, tìm ra cái tỉ lệ giữa chúng. Gần đây, một phương pháp được đề ra để giải đáp yêu cầu đó: phương pháp định lượng của J. Greenberg. Cách làm ở phương thức này như sau: chọn một văn bản có độ dài là 100 từ (lấy con số 100 là để dễ tính toán, chứ độ dài càng lớn thì kết luận càng chính xác) rồi đếm xem thử trong văn bản đó mỗi loại đơn vị, mỗi loại hiện tượng ngữ pháp đã xuất hiện mấy lần. sau đó là bước tính các chỉ số. J. Greenberg đã đề xuất những cách tính số nh ư sau: 1. Chỉ số tổng hợp M/W = tỉ lệ số l ượng hình vị (Morphemes) và số lượng từ (Words). Greenberg phân tích văn bản thành những đoạn căn cứ vào khả năng có thể có những chỗ nghỉ nơi ở giữa các đoạn đó. Mỗi đoạn nh ư vậy có thể gồm một hay một vài từ; và trong mỗi từ thì cũng có thể có một hay vài hình vị. Hình tố được xác định theo ph ương pháp ô vuông màchúng ta đã quen thuộc. Khi thay thế, cần chú ý đến điều kiện phảigiữ nguyên cấu trúc ngữ pháp của toàn tổng thể, và điều kiện khônglàm mất ý nghĩa của bộ phận đ ược thay thế. Nếu đơn vị đã dược dùng độc lập thì có thể tách ra mà không cần dùng đến phương pháp ô vuông.Việc chia thành hình tố phải tiến hành đến cùng, vì vậy nên sau khichia xong mà còn th ừa lại một bộ phận thì bộ phận đó cũng được xem là hình t ố, có điều là hình tố không có sức sản sinh, nên không thểáp dụng phương pháp ô vuông đối với nó một cách triệt để.
  3. Đối với từ thì Greenberg quan niệm như sau: đây làđoạn tạo thành một khối, trong lòng đoạn này không thể chen gì vàođược (một cách tự do), nếu có hình tố chen vào được, thì số lượnghình tố này phải hữu hạn, có thể lập thành danh sách được. 2. Chỉ số chắp dính A/J = tỉ lệ giữasố l ượng các cấu trúc chắp dính (Agglutinative structures) và số lượngcác "hình biên". Hình biên tức là đường biên giới giữa các hình tốtrong một từ. Số l ượng hình biên trong m ột văn bản bao giờ cũng bằngsố l ượng hình tố trừ số lượng từ. Trước khi đi đến định nghĩa thế nào là chắp dínhphải giải quyết thế nào là hình vị. Greenberg định nghĩa hình vị làmột tập hợp hình tố cùng có chung m ột ý nghĩa nhưng không bao giờ cũng xuất hiện trong một bối cảnh nh ư nhau. Ví dụ về hình vị mang ý nghĩa là "đi" ở trong tiếng Nga bao gồm các hình tố: ХОД- ,ХОЖ-, ШЕ-. Ở tiếng Hán thì mỗi hình vị chỉ gồm một hình tố. Đây là loại hình vị không có hiện tượng biến hình. Hình vị được tập hợp lại thành loại. Mỗi loại hình vị là một tập hợp bao gồm những hình vị thường chỉ dùng ở trong khuôn khổ của những kiểu cấu trúc nh ư nhau. Cách tập hợp thành loại này cũng theo nguyên tắc về cơ bản gần giống như cách tập hợp từ thành từ loại trong ngữ pháp truyền thống. Với cách đi như trên, đến đây đã có thể định nghĩa hiện t ượng chắp dính như sau: chắp dính tức là lối kết hợp những hình vị không biến hình với nhau, tức cũng là lối kết hợp trong đó việc lựa chọn hình vị đã tiến hành một cách tự động, theo một quy tắc nhất định, chung cho mọi tr ường hợp.
  4. 3. Chỉ số phức hợp từ R/W = tỉ lệ giữa số l ượng căn tố (Roots) và số lượng từ (Words). Chỉ số phái sinh D/W = tỉ lệ giữa số l ượng hình vị cấu tạo từ và các số lượng từ (Words). Chỉ số biến hình từ J/W = tỉ lệ giữa số l ượng hình biên và số lượng từ (Words). Theo Greenberg, trong m ỗi từ ít nhất cũng phải có một căn tố. Do đó, nếu trong từ chỉ một hình vị thì hình vị đó phải là căn tố. Tất cả các hư từ trong ngôn ngữ không biến hình cũng đều là căn tố. Còn nếu như trong một từ mà có nhiều hình vị thì việc nhận diện căn tố sẽ dựa trên tiêu chuẩn như sau: căn tố tức là những hình vị thành viên của những loại lớn, không thể kê thành danh sách được. Nhận diện căn tố xong thì có thể nhận diện hình vị phái sinh được. Greenberg định nghĩa hình vị phái sinh là loại hình vị nằm trong một tổ hợp "căn tố + hình vị hư", nếu cả tổ hợp này có thể thay thế bằng một căn tố. Từ những khái niệm trên đây, Greenberg rút ra khái niệm hình vị biến hình từ. Hình vị biến hình từ là những hình vị vừa không phải l à căn tố, vừa không phải là hình vị phái sinh. 4. Chỉ số về phương thức tiền tố P/W = tỉ lệ giữa số l ượng tiền tố (Prefixs) và số lượng từ (Words) Chỉ số về phương thức hậu tố S/W = tỉ lệ giữa số l ượng hậu tố (Suffixs) và số lượng từ (Words).
  5. Tiền tố và hậu tố đều có thể hoặc thuộc loại hình vị phái sinh hoặc thuộc loại biến hình. Theo Greenberg còn có thể nói đến chỉ số của một kiểu loại hình vị đặc biệt khác nữa, nhưng trong đại đa số ngôn ngữ trên thế giới, những chỉ số này quá nhỏ, không đáng kể. 5. Chỉ số phương thức tiếp cận (O/N – order nexus), phương thức chế ước (Pi/N – pure inflectionnexus), phương th ức hợp dạng (Co/N – concord nexus): tỉ lệ giữa số l ượng quan hệ tiếp cận, quan hệ chế ước, quan hệ hợp dạng với tổng số lượng quan hệ giữa các từ trong mệnh đề. Greenberg hoàn toàn không quan tâm đến loại quan hệ thường được gọi là quan hệ đẳng lập (liên hợp). Đối với hư từ, Greenberg cũng coi nh ư thực từ, nghĩa là ông cũng cho chúng có quan hệ cú pháp với các từ khác. Tổ hợp động từ + giới từ + danh từ (kiểu như уехал в Москву trong tiếng Nga) Greenberg phân tích nh ư sau: giữa động từ và giới từ ông cho là có quan hệ cú pháp diễn đạt bằng ph ương thức tiếp cận, còn giữa giới từ với danh từ ông cho là có quan hệ diễn đạt bằng phương thức chế ước. Greenberg đã thử ứng dụng phương pháp của mình vào 8 ngôn ngữ, và đi đến kết quả như sau: Phạn Anh cổ Ba tư Anh Jacut Xuahili Việt Eskimo M/W 2,59 2,12 1,52 1,68 2,17 2,55 1,08 3,72 A/J 0,09 0,11 0,34 0,30 0,51 0,67 ... 0,03
  6. R/W 1,13 1,00 1,03 1,00 1,02 1,00 1,07 1,00 D/W 0,62 0,20 0,10 0,15 0,35 0,07 0,00 1,25 J/W 0,84 0,90 0,39 0,53 0,82 0,30 0,00 1,75 O/N 0,16 0,15 0,52 0,75 0,29 0,40 1,00 0,02 Pi/N 0,46 0,47 0,29 0,14 0,59 0,19 0,00 0,46 Co/N 0,38 0,38 0,19 0,11 0,12 0,41 0,00 0,38 Ngôn ngữ phân tích tính = M/W từ 1,00 đến 1,99 (Việt, Anh, Ba T ư)  Ngôn ngữ tổng hợp = M/W từ 2,00 đến 2,99 (Phạn, Anh cổ, Jacut,  Xuahili) Ngôn ngữ đa tổng hợp = M/W từ 3,00 trở lên (Eskimo)  Có thể cho rằng ngôn ngữ chắp dính là ngôn ngữ có chỉ số chắp dính vượt trên 0,50. Có thể cho rằng phương pháp Greenberg cũng đã được đem áp dụng thử vào nhiều ngôn ngữ khác nữa. Nh ưng qua quá trình thử, giới ngôn ngữ học thấy rằng cần phải điều chỉnh lại một số khái niệm v à cần phải bổ sung thêm một vài chỉ số. Chẳng hạn С.Е. Яхонтов thấy rằng tiêu chuẩn tách từ của Greenberg không nhất quán đi theo sát phương pháp của mình mà bị ảnh hưởng bởi cách viết liền hay viết rời trong văn tự; bởi v ì nếu nhất quán thì trường hợp như железная và дорога không thể chen gì vào được, còn giữa очень vàинтересно thì chỉ chen được một từ НЕ, cả hai trường hợp đề hoàn toàn đúng như tiêu chuẩn Greenberg đã đề ra! С.Е. Яхонтов đã đề nghị bổ sung tiêu chuẩn như sau: nếu giữa hai bộ phận mà thấy có, hoặc thấy có thể thêm những hình vị hư vốn chuyên đứng đầu hay đứng cuối từ thì hai bộ phận này phải tính thành hai từ riêng biệt. Ở trường hợp железная дорога ta thấy cuối bộ phận đầu có -АЯ chuyên đứng cuối từ, vậy железная дорога phải tác
  7. thành hai từ; ở trường hợp очень (НЕ)интересно ta thấy có thể chen не là một hình vị hư chuyên đứng đầu từ, vậy cũng phải tách thành hai từ Điểm bổ sung của С.Е. Яхонтов đem ứng dụng vào những ngôn ngữ có hình thái học phát triển (như tiếng Nga) thì rất có lợi. Nhưng ở một số ngôn ngữ khác thì nó vẫn chưa giải quyết hết khó khăn: chẳng hạ n ở trường hợp (the) stone wall của tiếng Anh, cả hai từ đều không có cách gì để tách ra được, theo phương pháp này: stone không biến hình như железная và trường hợp wall thì không thể thêm gì như trường hợp thêm "не" trước интересно Đối với khái niệm hình vị biến hình từ, cũng cần điều chỉnh lại. Theo Greenberg, đây là loại hình vị vừa không phải căn tố, vừa không phải hình vị phái sinh. Các định nghĩa này có thể dùng được trong đa số trường hợp thuộc ngôn ngữ có hình thái học phát triển, nhất là có phương thức hợp dạng phát triển. Nhưng ở những ngôn ngữ không có điều kiện đó, nhiều khi hình vị biến hình (chỉ số, chỉ thời gian, chỉ thể) có thể lược bỏ mà không phương hại đến kếtcấu: những hình vị này rất khó phân biệt với loại hình vị phái sinh nội hướng. Do đó С.Е. Яхонтов đề nghị bổ sung thêm, như sau: hình vị được gọi là biến hình nếu nó thuộc c ùng một lại với các hình vị bắt buộc phải có mặt trong dạng của từ, kể cả trường hợp hình vị zero. Ví dụ trong (он) БУДЕТ читать и (БУДЕТ)переводить th ường người ta khử bỏ hình vị БУДЕТ thứ hai, nhưng nếu so sánh với trường hợp -он чита -Л и переводи -Л thì ta lại thấy -Л thứ hai bắt buộc phải có mặt. Thế nghĩa là БУДЕТ vẫn là một hình vị biến hình, vì nó thuộc cùng loại với -Л. Với sự bổ sung này ta đã tiến lên thêm được một bước. Nhưng ở những ngôn ngữ như tiếng Thổ Nhĩ Kì, tiếng Hán thì ta vẫn còn lúng túng, bởi vì các ngôn
  8. ngữ đó, hình vị hư này không đối lập với hình vị hư kia, tạo thành dạng hệ, mà thường chỉ đối lập với trường hợp không có hình vị hư mà thôi… Một khuyết điểm quan trọng nữa trong ph ương pháp Greenberg là không quan tâm đến hư từ. Vì lí do đó, С.Е. Яхонтов đề nghị bổ sung thêm một chỉ số, gọi là chỉ số phân tích tính (= tỉ lệ giữa số l ượng hư từ với tổng số từ). Phân tích h ư từ, chúng ta thấy: 1. Hư từ thường chỉ xuất hiện trong một kiểu kết cấu, ví dụ giới từ th ường chỉ xuất hiện trước danh từ và đại từ; 2. Hư từ thường tạo thành những loại lớn bao gồm nhiều thành viên, chẳng hạn trong loại của quán từ tiếng Anh chỉ có 2 thành viên. Số lượng giới từ có nhiều hơn, nhưng chúng ta có th ể đếm được; 3. Hư từ không dùng để trả lời câu hỏi 4. Hư từ ở trong một mệnh đề cụ thể không thể đem thay thế một cách dễ d àng bằng hư từ khác cùng loại: chỉ có thể thay bằng một h ư từ đồng nghĩa hay trái nghĩa (ví dụ thay quán từ xác định bằng quán từ phiếm định). Cả bốn đặc điểm trên đây suy cho cùng thì cũng đều chưa đủ sức giúp ta xác định được thật đúng hư từ vì một số trạng từ có thể có đặc điểm 1; số từ, động từ tình thái có thể có đặc điểm 2; và, ngược lại, giới từ chỉ không gian nh ư мимо, вокруг… trong tiếng Nga, các động từ will, shall trong tiếng Anh lại đều không có đặc điểm 4. Nhưng nếu tập hợp cả 3 đặc điểm đầu lại với nhau đ òi hỏi phải có đủ đồng thời cả 3 đặc điểm đó, thì chúng ta c ũng có thể tạm xác định được thế nào là hư từ. С.Е. Яхонтов nhấn mạnh rằng không nên dựa vào ý nghĩa ngữ pháp để xác
  9. định hư từ, bởi vì những ý nghĩa này đôi khi – ở một số ngôn ngữ – lại diễn đạt ra bằng con đường từ vựng. С.Е. Яхонтов lại còn đề nghị bổ sung thêm một chỉ số nữa:chỉ số về một số hình vị đặc biệt hoặc một số ph ương pháp đặc biệt dùng để diễn đạt ý nghĩa ngữ pháp: tỉ lệ giữa tổng số l ượng biến đổi, mê-ga moóc-phơ, phương thức lặp và tổng số lượng từ: Biến tố: Đây là một loại hình vị biến hình từ đồng thời tham gia vào nhiều hệ thống đối lập, so sánh: дом-ø – дом-А дом-У – дом-АМ А là biến tố vì nó chỉ số nhiều, cách 1, nghĩa là nó vừatham gia đối lập với дом (ø) (cách 1, số ít) vừa tham gia đối lập với дом-АМ (số nhiều, cách 3). Mê-ga moóc-phơ: Đây là m ột khái niệm bao gồm những hiện t ượng như biến tố bên trong, như hiện tượng au (= à + le) của tiếng Pháp v.v… Mỗi mê-ga moóc-phơ là một đoạn hoàn chỉnh nhưng mang trong bản thân nó ý nghĩa của hai hình tố. Muốn tách mê-ga moóc-phơ, cũng phải dùng phương pháp ô vuông như đối với hình tố bình thường. So sánh: killS – killED takeS – TOOK Ở kill, killed, takes ta có thể tách đôi thành 2bộ phận
nguon tai.lieu . vn